Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tìm hiểu về bác Kim Ngọc – Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc với những đóng góp cho chính sách nông nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.47 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
----------

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề tài: Tìm hiểu về bác Kim Ngọc –
Bí thư
Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc với
những đóng góp cho chính sách
nơng nghiệp ở Việt Nam
Nhóm sinh viên: Nhóm 8
Lớp học phần: HIS1001


Hà Nội - 2022
Thành viên nhóm 8
Mã sinh viên

STT. Họ tên sinh viên

Phân cơng cơng việc

18000464

87. Bùi Minh Trí

Thuyết trình

21001794



43. Chử Ngọc Lan

Nội dung word phần 3

20002302

47. Phạm Thị Loan

20100256

51. Đinh Thị Diệu Ly

Nội dung word phần 1, làm
powerpoint chính
Nội dung word phần 2.2

20002273

21000981

18. Nguyễn Thùy Dương Tổng hợp, bổ sung, chỉnh
(nhóm trưởng)
sửa, trình bày nội dung word
Hỗ trợ chỉnh sửa powerpoint
36. Nguyễn Viết Huy
Thuyết trình, Nội dung word
phần 2.4, chỉnh sửa, bổ sung
word, powerpoint
79. Nguyễn Xuân Thảo

Làm powerpoint

19000452

57. Nguyễn Hồi Nam

Nội dung word phần 2.1, 2.3

19000362

58. Nguyễn Kỳ Nam

Tóm tắt word

21000953


MỤC LỤC

I.

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................4

II.

PHẦN NỘI DUNG.....................................................................5

1. Tiểu sử, sự nghiệp của bác Kim Ngọc.................................5
2. Đóng góp của bác Kim Ngọc trong nơng nghiệp Việt
Nam................................................................................................7

2.1. Tình hình nơng nghiệp Việt Nam trước sáng kiến
“khoán hộ”.................................................................................7
2.2. Nội dung và ý nghĩa của chính sách “khốn hộ”........9
2.3. Những khó khăn ở thời kì đầu mới ra đời chính sách
“khốn hộ”...............................................................................11
2.4. Kế thừa, phát huy các nghị quyết, chỉ thị trên nền
tảng chính sách “khốn hộ”.................................................12
3. Các thành tựu nổi bật của nơng nghiệp Việt Nam khi áp
dụng, phát huy chính sách “khốn hộ”.................................19
III.

PHẦN KẾT LUẬN....................................................................22

TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................23


I.

PHẦN MỞ ĐẦU

Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam hoàn tồn được giải
phóng, chủ trương cách mạng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Theo lý thuyết, với đặc trưng
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là kế hoạch hoá, phân bổ
nguồn lực theo kế hoạch. Cuối năm 1959, đầu thập niên 60,
phong trào hợp tác hoá làng xã diễn ra mạnh mẽ ở miền Bắc.
Chúng ta đã áp dụng lý thuyết Chủ nghĩa xã hội khoa học của
Mác – lênin một cách không hợp lý, không thừa nhận sự tồn tại
của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh

tế quốc doanh và tập thể làm chủ yếu, muốn nhanh chóng xố
bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Những điểm bất
hợp lý trong tổ chức quản lý sản xuất đã dẫn đến các tệ nạn
trong sản xuất như: “rong cơng, phóng điểm”, “cha chung
khơng ai khóc”,…Điều đó dẫn đến nền kinh tế đất nước, đặt
biệt là nông nghiệp lâm vào khủng hoảng, năng suất lao động,
sản lượng nông sản giảm sút, dẫn đến chất lượng cuộc sống
người dân đói kém, khơng được đảm bảo. Trước tình hình rối
ren đó, bác Kim Ngọc đã trằn trọc suy nghĩ để đưa ra sáng kiến
hợp tình dân chúng, giải quyết vấn đề kinh tế đất nước lúc bấy
giờ, đó là chính sách “khoán hộ”, nghĩa là cách làm khoán trực tiếp
đến mỗi người lao động, giao ruộng cho người lao động. Sáng kiến “khoán hộ”
ra đời thời gian đầu đã bị phê phán, chịu ảnh hưởng của giáo điều, ảo tưởng duy
lý, sự chấp hành lý thuyết một cách mù quáng, cứng nhắc. Đồng chí Kim Ngọc
đã phải “đứng mũi chịu sào”, trả giá cho việc “đi trước thời đại”, nhưng ông vẫn
kiên định với lý tưởng của mình vì dân, vì nước, dám làm, dám chịu. Chủ
trương “khốn hộ” của ơng là một ngọn đuốc sáng mở ra một thời kì mới cho
nền nông nghiệp cũng như nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.


II.

PHẦN NỘI DUNG

1.Tiểu sử, sự nghiệp của bác Kim Ngọc
Kim Ngọc là nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc, ông được mệnh danh
là "cha đẻ của khoán hộ" mà người ta quen gọi là "khoán mười", "cha đẻ của
Đổi mới trong nơng nghiệp" ở Việt Nam. Ơng là một trong những người tham
gia hoạt động cách mạng sớm ở Vĩnh Phúc và trở thành cán bộ lãnh đạo đảm
nhiệm chức vụ cao nhất của Đảng bộ tỉnh - Bí thư Tỉnh ủy. Xuất thân trong một

gia đình bần nơng, có tinh thần u nước, đồng chí hiểu rõ những tâm tư,
nguyện vọng của người nơng dân, điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách,
tư duy và khát vọng trong cuộc đời hoạt động, công tác của đồng chí Kim Ngọc.
Ơng tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1917 tại thơn
Đại Nội, Bình Định, Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Từ năm 1931 đến năm 1938,
đồng chí Kim Ngọc làm tá điền cho địa chủ Đỗ Đình Đạo và
Nguyễn Hữu Kỳ ở ấp Phú Vinh, đồn điền Đỗ Đình Đạo, huyện
Bình Xuyên. Trong những năm lao động tại các đồn điền, đồng
chí Kim Ngọc được tiếp xúc, chứng kiến và cảm nhận sâu sắc
cuộc sống khổ cực của người nông dân tá điền bị áp bức, bóc
lột sức lao động, suốt ngày “Bán mặt cho đất, bán lưng cho
trời” mà vẫn thiếu đói quanh năm, cơm khơng đủ ăn, áo khơng
đủ mặc. Từ đó sớm hình thành trong đồng chí nhận thức, mong
muốn “làm sao cho nông dân ta được no ấm”. Năm 1939, được
các đồng chí Đinh Đức Thiện, Đào Duy Kỳ (Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc
Kỳ) tuyên truyền, giác ngộ cách mạng và giao nhiệm vụ công


tác vận động quần chúng ở ấp Phú Vinh, đồn điền Đỗ Đình Đạo
đấu tranh chống áp bức, bóc lột của địa chủ phong kiến.
Tháng 4/1940, đồng chí Kim Ngọc được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Đông Dương và đây là niềm tin, là sức mạnh để đồng chí
thực hiện ước vọng của mình. Lúc này, đồng chí Kim Ngọc tham
gia hoạt động cách mạng ở địa phương và làm liên lạc cho một
số đồng chí xứ ủy. Cuối năm 1941, địch khủng bố mạnh, cơ sở
cách mạng ở Vĩnh n bị vỡ, đồng chí chuyển hướng hoạt động
lên thơn Rầm, huyện Đoan Hùng (Phú Thọ). Địch tiếp tục khủng
bố, đồng chí được cấp trên điều về hoạt động cách mạng ở địa
bàn các huyện Vĩnh Tường, Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên,
Yên Lạc thuộc tỉnh Vĩnh Yên.

Đến cuối năm 1944, đồng chí tham gia đội cơng tác Bắc
tiến do đồng chí Hồng Quốc Việt tổ chức, hoạt động ở huyện
Sơn Dương (Tuyên Quang). Khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945),
đồng chí Kim Ngọc cùng một số đồng chí lãnh đạo quần chúng
đánh chiếm Châu Thiện Kế, lập khu du kích kháng Nhật và tiến
hành khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở nhiều xã của
các huyện Sơn Dương, Lập Thạch, Tam Dương. Tháng 8/1945,
đồng chí tham gia khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở
Vĩnh Yên. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, mở ra kỷ
nguyên độc lập tự do của dân tộc đã có ảnh hưởng lớn trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Kim Ngọc.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí Kim Ngọc
được Đảng phân công giữ nhiều cương vị công tác khác nhau:
Làm cán bộ, tham gia Huyện ủy viên và Bí thư Huyện ủy Tam
Dương (10/1946). Đầu năm 1947, là Tỉnh ủy viên phụ trách các
huyện Tam Dương, Lập Thạch. Năm 1948, đồng chí phụ trách
Nơng hội của tỉnh Vĩnh n. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Vĩnh
Yên, đồng chí được điều về làm Bí thư Huyện ủy Bình Xun
(1949); Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (3/1952 – 10/1952) kiêm chính
trị viên Tỉnh đội. Ơng từng làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang.
Hịa bình lập lại, tháng 10/1955, đồng chí được điều động
sang quân đội và giữ chức vụ Khu ủy viên Khu ủy Việt Bắc, Phó
Chính ủy Qn khu Việt Bắc, Cục phó Cục Động viên và Dân


qn của Bộ Tổng tham mưu, Chính ủy Cục Nơng binh, Cục
trưởng Cục Dân quân tự vệ thuộc Bộ Quốc phịng. Tháng
1/1959, đồng chí về làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Kim Ngọc được
bầu là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II (1960 - 1964) và là trưởng đoàn đại
biểu quốc hội của tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 1/1968, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội ra Nghị quyết về việc hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh
Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Từ tháng 2/1968, đồng chí là Bí
thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú cho đến tháng 5/1977. Năm 1978, Kim Ngọc
chính thức về hưu. Ngày 26/5/1979 Kim Ngọc mất ở tuổi 62 tại Bệnh viện Hữu
nghị Việt - Đức, Hà Nội.
Trong gần 40 năm (1939-1977) tham gia cách mạng, nhất
là từ khi giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Kim Ngọc đã đề
ra nhiều chủ trương, chính sách đổi mới, sáng tạo, có nhiều chủ
trương “vượt thời đại”. Tiêu biểu là chủ trương “Khoán hộ”
(khoán việc cho lao động, cho hộ, cho nhóm) trong HTX nơng
nghiệp hay cịn gọi là Nghị quyết 68-NQ/TU ngày 10/9/1966 “Về
một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã
hiện nay”. Đây là đóng góp quan trọng của Kim Ngọc về mặt lý
luận và thực tiễn, là một trong những cơ sở để Đảng ta sau này
đề ra Chỉ thị 100 (ngày 13/01/1981) và Nghị quyết số 10 (ngày
5/4/1988) đã làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của
cả nước.
Ước vọng lớn nhất, niềm ham muốn, say mê của đồng chí
Kim Ngọc là đem lại ấm no cho người dân, để nhân dân đóng
góp ngày càng nhiều cho Tổ quốc. Quan điểm chủ đạo của ông
là: “Xã viên khơng coi ruộng đất là của mình nên họ chẳng thiết tha gì với
đồng ruộng. Phải để nơng dân làm chủ mảnh đất của mình”, “Khơng thể bỏ
khốn hộ. Phải tìm mọi cách duy trì dưới mọi hình thức khác nhau”. Với tinh
thần tích cực, chủ động học tập, nâng cao trình độ, nhiều trải
nghiệm thực tiễn hoạt động cách mạng trên những cương vị
công tác khác nhau, đồng chí ln thể hiện tư chất của người
lãnh đạo năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm. Đồng chí Kim Ngọc là hiện thân của một lãnh đạo
tỉnh mẫu mực, là tấm gương sáng hết lòng, hết sức vì dân, vì
nước.



2.Đóng góp của bác Kim Ngọc trong nơng
nghiệp Việt Nam
2.1. Tình hình nơng nghiệp Việt Nam
trước sáng kiến “khốn hộ”
Bối cảnh Việt Nam sau 1954, miền Bắc bước vào giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoàn thành cách mạng ruộng đất,
cải thiện nền nông nghiệp nhằm khôi phục và phát triển kinh
tế, mà khâu then chốt là phong trào hợp tác hố nơng nghiệp.
Ban đầu, theo lý tưởng của xã hội chủ nghĩa, ruộng đất là của
toàn dân, của tập thể, người nông dân tập hợp trong một tổ
chức gọi là hợp tác xã để làm chung và cùng hưởng thành quả
lao động. Thời gian đầu phong trào này phát triển, thu được
những kết quả đáng kể, nhân dân rất phấn khởi. Tuy nhiên, đến
đầu thập niên 60, nhiều vấn đề bất cập bắt đầu diễn ra ngay
chính trong những địa phương hợp tác hoá mạnh mẽ. Phương
thức quản lý sản xuất ở các hợp tác xã rơi vào cảnh bế tắc khi
trình độ quản lý của ban chủ nhiệm hợp tác xã không đáp ứng
yêu cầu đề ra. Tình trạng thiếu trách nhiệm, “cha chung khơng
ai khóc”, trong quản lý, bảo vệ tài sản, công cụ sản xuất khiến
một phần đất đai bị bỏ hoang, sức kéo trâu bị bị giảm sút, cơng
cụ sản xuất chóng hư hỏng. Việc “rong cơng, phóng điểm”
khiến thu nhập của nơng dân – người trực tiếp sản xuất bị ăn
bớt bởi bộ phận quản lý dẫn đến tình trạng số đơng người lao
động “lãn công”, đi muộn, về sớm, lười biếng, ỉ lại,…dần dần trở
thành tệ nạn của những người nông dân vốn siêng năng, cần
lao, “một nắng hai sương”. Điều này đã dẫn đến cần phải có sự
thay đổi, cải tiến về tư duy quản lý sản xuất nông nghiệp.
Dưới sự chỉ đạo của hợp tác xã, người nông dân không thiết

tha với công việc của hợp tác xã, làm việc đối phó, chỉ vì cơng
điểm, khơng vì chất lượng nên chỉ sau một thời gian ngắn, nền
nông nghiệp giảm sút nghiêm trọng. Riêng tỉnh Vĩnh Phúc, năm
1966, diện tích và sản lượng một số cây trồng không đạt được
kết hoạch đã đặt ra, đặc biệt là sự giảm sút cây lương thực,
phải kể đến lúa. Tổng sản lượng quy ra thóc bị tụt 37000 tấn,


riêng lúa tụt 32000 tấn so với năm 1965. Phần nghĩa vụ với nhà
nước cũng giảm 22000 tấn so với năm 1965. Trước tình cảnh
khó khăn đó, hợp tác xã đã chủ động nghiên cứu tìm hiểu
nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và phương hướng quản lý
mới. Theo điều tra lúc bấy giờ, nông dân không mặn mà với đất
đai của hợp tác xã vì điểm một ngày cơng khơng cao nên họ
tập trung đầu tư vào mảnh đất 5% (ruộng phần trăm) vì mảnh
đất này hồn tồn thuộc về sở hữu của hộ gia đình, vì vậy, họ
ra sức chăm bón, cày cấy ở phần đất này để ni gia đình. Từ
đó thấy được, nếu nơng dân được tự làm chủ ruộng đất, họ có
thể tồn tâm, tồn ý, yên tâm bỏ hết công sức cố gắng làm việc
đạt năng suất cao nhất có thể. Do đó, nếu khốn tới hộ nơng
dân có thể khắc phục được những hạn chế nói trên và thúc đẩy
người nơng dân hăng hái tham gia sản xuất, gia tăng năng suất
lao động. Nhìn nhận được điều này, bác Kim Ngọc đã đưa ra
sáng kiến “khoán hộ” - khoán việc cho lao động, cho hộ, cho
nhóm – một sáng kiến vượt thời đại.
Trước khi sáng kiến “khoán hộ” ra đời, hợp tác xã đã đề ra
kế hoạch ba khoán: khoán sản lượng, khoán chi phí sản xuất,
khốn cơng điểm, gọi là chính sách “khốn việc”. Theo cơ chế
phân phối lúc đó, đối với hợp tác xã bậc thấp thì có một phần
dành phân phối cho ruộng đất đưa vào hợp tác xã, song phần

chủ yếu là chia cho ngày cơng, cịn hợp tác xã bậc cao thì tồn
bộ thu nhập sau khi trừ chi phí, nộp thuế, để quỹ đều chia cho
ngày cơng. Ngày cơng được tính cho mỗi lao động khi thực hiện
một công việc theo tiêu chuẩn nhất định về chất lượng do hợp
tác xã quy định. Ví dụ, cày một sào ruộng phải bảo đảm độ sâu
và khoảng cách các luống cày như thế nào, làm đúng thì được
ghi bao nhiêu cơng điểm (cơng là ngày cơng gọi tắt, cịn điểm
là một phần mười ngày công). Với cách tổ chức sản xuất và
phân phối của hợp tác xã, trong đó mọi việc làm và kết quả thu
hoạch đều do ban chủ nhiệm và các đội sản xuất điều hành và
chi phối; vai trị kinh tế hộ nơng dân bị xóa bỏ, hay rõ hơn là chỉ
còn trên “đất 5%”, tức là diện tích để lại cho từng hộ, trên danh
nghĩa là để trồng rau ăn (một số nơi gọi là “đất rau xanh”).
Quyền tự chủ, độc lập trong sản xuất kinh doanh của nơng dân
khơng cịn nữa, mà quyền hành vào tay các cán bộ có chức


quyền ở xã, từ chấm công điểm đến chia từng hạt thóc cũng do
họ quyết định, thậm chí khơng có chữ ký của họ thì bản thân xã
viên hoặc con em khơng thể vào Đảng, Đồn, đi học, đi cơng
tác, và đó là những sơ hở để những cán bộ kém phẩm chất
tham nhũng, bóc lột dân.
 Về chế độ khốn việc trả cơng cho nhóm, cho lao động, cho hộ, đội sản
xuất nhận kế hoạch ba khoán của hợp tác xã phải định tốn khối lượng
cơng việc, lực lượng lao động, cơng cụ sản xuất để bố trí lực lượng lao
động, tổ chức khốn việc trả cơng. Đội sản xuất khơng thể tùy tiện thay
đổi kế hoạch ba khốn nhưng có thể điều chỉnh các định mức, thù lao
trong phạm vi ba khoán của hợp tác xã cho sát với tình hình sản xuất của
đội.
 Khi giao khốn chủ yếu khoán riêng từng khâu để vừa tận dụng được mọi

khả năng lao động, sử dụng hợp lý sức lao động, chun mơn hóa lao
động (trong vụ mùa, lao động đứng tuổi gặt, lao động thanh niên vận
chuyển; trong thu hoạch mía lao động phụ đảm nhận cơng việc buộc mía,
lao động khỏe chặt, vác mía).
 Sau từng đợt giao khoán từ 5 đến 7 ngày hoặc giao khoán một khối lượng
cơng việc, hồn thành nhiệm vụ, đảm bảo kỹ thuật về thời gian sẽ được
hưởng tương ứng với công đã khốn.

2.2. Nội dung và ý nghĩa của chính sách
“khốn hộ”
Khoán hộ là cách làm khoán trực tiếp đến mỗi người lao động. Giao ruộng
cho người lao động. Hợp tác xã chỉ cung cấp giống, kỹ thuật, phân bón, thuốc
trừ sâu và đến vụ thu hoạch thì người lao động chia lại một phần lúa cho hợp tác
xã từ năng suất lúa mà họ thu hoạch được. Chủ trương “Khoán hộ”
(khốn việc cho lao động, cho hộ, cho nhóm) trong HTX nơng
nghiệp hay cịn gọi là Nghị quyết 68-NQ/TU ngày 10/9/1966 “Về
một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã
hiện nay” của Kim Ngọc được thực hiện với cách thức như sau:
1. Khoán cho hộ làm một khâu hoặc nhiều khâu sản
xuất trong một thời gian dài;
2. Khoán cho hộ các khâu dài ngày hoặc suốt vụ;
3. Khốn sản lượng cho hộ, cho nhóm;


4. Khốn trắng ruộng đất cho hộ - Hình thức khốn
trắng đơn giản, dễ tính tốn nên được nơng dân
hưởng ứng rầm rộ và tự nó đã thành phong trào quần
chúng rộng rãi trong tồn tỉnh Vĩnh Phúc.
Có thể nói khoán hộ là bước mở đầu cho một tư duy mới về
quản lý kinh tế hợp tác xã. Sáng kiến "khốn hộ" hay "Cải tiến

cơng tác quản lý lao động hợp tác xã" năm 1966, đã dẫn
đến "khoán 10" hay "Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1988", tháo bỏ sự ràng buộc, kìm hãm của
cơ chế quản lý lạc hậu, đưa Việt nam bao năm thiếu ăn trở
thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới. Nghị quyết 10
hoàn toàn dựa trên những kinh nghiệm đúc kết của nhiều tỉnh
thành Việt Nam đã âm thầm áp dụng khoán hộ của Kim Ngọc.
So với hình thức khốn (khốn sản lượng, khốn chi phí sản xuất, khốn
cơng điểm) trước đây thì chính sách khốn hộ có nhiều điểm tiến bộ hơn và tác
động mạnh đến sản xuất nơng nghiệp: “Hình thức khốn việc cho nhóm, cho
từng lao động, cho hộ và giao khoán riêng từng khâu có dụng tăng năng suất lao
động nhất, phải áp dụng rộng rãi”. Vì: “Thực hiện tốt được ba khốn, khốn
nhóm đến khốn từng lao động, từng hộ, từng khâu canh tác và cả vụ sẽ giải
quyết được vấn đề năng suất lao động thiết thực, sẽ kích thích được tính tích
cực, đẩy mạnh nâng cao năng suất lao động của từng người, từng nhóm, tập thể
hợp tác xã, từ đó sẽ tránh được ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng, tự do, tùy tiện, do đó
quản lý lao động được chặt chẽ, kỷ luật lao động được tự giác, tiết kiệm sức lao
động, tận dụng khả năng sức lao động phụ, lao động nhàn rỗi trong các gia đình
mà lao động vẫn cịn thì giờ nghỉ ngơi học tập, đồng thời sẽ khắc phục tình
trạng quan liêu, thốt ly sản xuất, xa rời quần chúng, tham ô, tư lợi của cán bộ
cơ sở”.
Về ý nghĩa của chủ trương Khốn hộ:
Chính sách khoán hộ đã đánh dấu bước mở đầu của q trình chuyển đổi
trong quản lý lao động nơng nghiệp nước ta. Khoán hộ tận dụng được lao động
trong mỗi hộ để tiến hành sản xuất, khắc phục tình trạng quản lý lao động nông
nghiệp theo kiểu công nghiệp, tức là làm theo hiệu lệnh kẻng của hợp tác xã.
Chính sách này đã giải quyết một vấn đề rất cơ bản là giải phóng sức sản xuất
đang bị kìm hãm bởi cơ chế quản lý không phù hợp, xa rời thực tiễn sản xuất
nông nghiệp. Phát huy sự chủ động, năng động, những tiềm năng dồi dào trong



nhân dân, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, biến người nơng dân thành
người chủ đích thực trong sự ràng buộc bởi yếu tố lợi ích. Khốn hộ là bước
khởi đầu cho một tư duy mới về quản lý kinh tế hợp tác xã. Bởi nó khắc phục
điều vơ lý là khi xây dựng hợp tác xã, người ta coi hộ là yếu tố cơ bản để tính
quy mơ hợp tác xã, phân bố tư liệu sản xuất, giao chỉ tiêu sản xuất kinh doanh…
Nhưng trong quá trình sản xuất lại tách hộ khỏi tư liệu sản xuất cơ bản nhất
nhằm triệt tiêu động lực của sự phát triển và vì thế sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả.
Trong điều kiện nền nơng nghiệp cịn sản xuất ở quy mơ nhỏ, trình độ sản
xuất thấp kém, lao động thủ cơng, năng suất thấp, kết cấu hạ tầng phục vụ sản
xuất yếu kém… thì khốn cho hộ với nhiều hình thức khác nhau là phù hợp cả
về tâm lý, về trình độ quản lý điều hành của cán bộ lãnh đạo và phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện tại. Khốn hộ cũng khắc phục
tình trạng “rong cơng phóng điểm” của các hợp tác xã; khắc phục một bước tình
trạng vơ chủ trong quản lý tư liệu sản xuất và hạn chế nạn tham ô chè chén ở
các đội sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp.
Chủ trương “khốn hộ” của Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc và tập
thể Ban thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc là một hướng đi tích cực
trong tìm tịi cách thức quản lý mới trong nơng nghiệp, gắn lợi
ích của người nơng dân với kết quả lao động, đáp ứng địi hỏi của
thực tiễn, tạo động lực mạnh mẽ, khuyến khích xã viên sản xuất nhằm đem
lại hiệu quả cao trong sản xuất nơng nghiệp. “Khốn hộ” góp
phần thay đổi tư duy lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, là cơ sở
quan trọng để Đảng từng bước hoạch định chủ trương đổi mới
cơ chế quản lý trong nông nghiệp. Nhờ thực hiện chính sách “khốn
hộ” và các chính sách đổi mới dựa trên nền tảng “khoán hộ” mà đời sống của
nhân dân đã khấm khá hẳn lên, từng bước có sự thay đổi so với
thời kỳ trước.


2.3. Những khó khăn ở thời kì đầu mới ra
đời chính sách “khốn hộ”
Kim Ngọc là người khởi xướng việc "khốn hộ" trong nơng nghiệp ở Việt
Nam vào thập niên 60 của thế kỷ 20. Thời kỳ đó do sự bắt chước một cách máy
móc mơ hình tổ chức xã hội của Liên Xơ, các nhân vật cấp cao trong đảng Cộng


sản đã khơng đánh giá đúng về khốn hộ nên ra sức kìm hãm và hạn chế. Kim
Ngọc phải làm kiểm điểm và tự nhận "có sai lầm nghiêm trọng trong khốn hộ".
Tuy nhiên, ơng vẫn được tiếp tục bầu làm bí thư tỉnh uỷ.
Trước thời kì đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch
hoá tập trung. Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế theo chiều rộng, cơ chế này
cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế và các mục tiêu chủ yếu trong
các giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn phát triển công nghiệp theo hướng phát triển
công nghiệp nặng. Tuy nhiên, cơ chế này lại thủ tiêu tính cạnh tranh trong phát
triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế
của người lao động, khơng kích thích tính sáng tạo, linh hoạt, năng động của các
đơn vị sản xuất. Cho nên, đến khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn
phát triển theo chiều sâu, dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học công
nghệ của các cuộc cách mạng công nghiệp, cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập
trung bắt đầu bộc lộ những thiếu sót, bất cập, làm cho nền kinh tế của các nước
xã hội chủ nghĩa khi đó, bao gồm cả nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì
trệ. Lúc bấy giờ kinh tế nước ta hết sức khó khăn, từ đòi hỏi của
thực tiễn, một số nơi xé rào áp dụng “khoán chui”, tức là giao
khoán cho mỗi hộ một số diện tích ruộng, hợp tác xã có thể
điều hành một số khâu, xã viên nộp mức khoán sản phẩm theo
diện tích được chia cho hợp tác xã, phần dư thừa nông dân
được hưởng. Sở dĩ việc này được gọi là “khốn chui” vì trái với
hình thức hợp tác hóa nơng nghiệp thời đó. Cuộc đấu tranh
quan điểm về “khoán chui” trở nên hết sức gay go. Khoán hộ

được Bí thư Kim Ngọc mạnh dạn cho thí điểm ở một số huyện
như Vĩnh Tường, Yên Lạc… từ những năm 1965. Khi đó, khơng ít
người đã lên tiếng phê phán khoán hộ là xa rời lý tưởng của chủ
nghĩa xã hội, khơng cơng hữu hố, tập thể hố, mà đưa nơng
nghiệp trở lại con đường tư hữu hố, trái với chủ trương xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tuy rằng thực tiễn nền nông
nghiệp, kinh tế khủng hoảng, giảm sút đang phản đối chính
sách quản lý hợp tác hố đã lạc hậu so với thời đại. Đó là dấu
hiệu cho thấy, cần có sự thay đổi trong chính sách quản lý sản
xuất nông nghiệp để trở nên phù hợp với hồn cảnh đất nước,
cải thiện tình hình kinh tế.
Tuy bị buộc phải chấp hành tổ chức kỷ luật của Đảng, công
khai thừa nhận là “sai lầm nghiêm trọng” về chủ trương khoán


hộ nhưng ông Kim Ngọc vẫn dũng cảm bảo lưu chủ trương của
mình và trong gần mười năm sau đó khi cịn giữ cương vị Bí thư
Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, ông vẫn không ngần ngại bênh vực và cổ vũ
cho chủ trương mà ơng cho là ích nước lợi dân và gắn bó với
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội này. Ơng thường tâm sự với các
đồng chí thân thiết của mình: “Phải tìm mọi cách duy trì cho
được “khốn hộ” chứ để quay lại kiểu làm ăn theo tiếng kẻng,
rong cơng phóng điểm thì chết đói hết”. Và trên thực tế, tuy bị
cấm đốn, nhưng do lợi ích hiển nhiên và to lớn của nó, “khốn
hộ”, khi đó được gọi là “khoán chui”, vẫn được nhiều hợp tác xã
ở Vĩnh Phú tiếp tục âm thầm thực hiện. Rồi “khoán chui” lan
nhanh sang Hà Sơn Bình, Hải Phịng, Thanh Hóa, Thái Bình,
khắp cả miền Bắc và đến cả một số tỉnh miền Nam như Đồng
Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Hậu Giang...


2.4. Kế thừa, phát huy các nghị quyết, chỉ
thị trên nền tảng chính sách “khốn
hộ”
Ngày 13/01/1981, trên cơ sở tổng kết thực tiễn làm thử
khoán sản phẩm ở các địa phương, Ban Bí thư Trung ương Đảng
ra Chỉ thị 100-CT/TW về mở rộng cơng tác khốn sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã. Tiếp đó, ngày
5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp (hay cịn gọi là “Khốn 10”). Khốn
10 đã khẳng định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, làm thay
đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. Như vậy, sau
hơn 22 năm, những hạt nhân hợp lý của “khoán hộ” ở Vĩnh
Phúc đã được Trung ương khẳng định trong Nghị quyết
10-NQ/TW.
Sau 20 năm, khi chủ trương “khốn hộ” của Bí thư Kim
Ngọc và Tỉnh ủy Vĩnh Phúc bị phê phán nặng nề và bị đình chỉ,
năm 1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã
ban hành nghị quyết 10 chính thức coi “hộ nông dân là đơn vị
kinh tế tự chủ” và cho thực hiện khốn hộ trong tồn bộ nền
nơng nghiệp. Nghị quyết ghi: “Công nhận sự tồn tại lâu dài và
tác dụng tích cực của kinh tế cá thể tư nhân trong quá trình đi


lên chủ nghĩa xã hội, thừa nhận tư cách pháp nhân, bảo đảm
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, bảo hộ
quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp pháp của các hộ cá
thể tư nhân…Lấy hộ làm đơn vị sản xuất tự chủ. Người nông
dân được trao quyền tự chủ sản xuất, sử dụng ruộng đất lâu
dài, tự do tiêu thụ sản phẩm...”. Có thể nói, nội dung cơ bản
của Nghị quyết 10, nghị quyết tạo nên một bước nhảy vọt trong

sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, thực
chất đã được hình thành từ chủ trương được gọi là “khốn hộ”,
“khốn chui” của Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc, Đảng bộ và người
nơng dân Vĩnh Phúc hơn 20 năm trước đó.
Bây giờ nhìn lại, có thể thấy, chủ trương khốn hộ của Bí
thư Kim Ngọc và Tỉnh ủy Vĩnh Phúc năm 66 là cả một cuộc cách
mạng về tư duy cũng như phương thức quản lý sản xuất nông
nghiệp khi chủ trương giao ruộng đất lại cho bà con nông dân,
công nhận vai trị của tư hữu, tìm cách giải quyết hài hồ mối
quan hệ giữa cơng hữu và tư hữu, giải phóng sức sản xuất bị
kìm hãm bấy lâu. Đó cũng là một trong những tiền đề quan
trọng của sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và đã đạt
được những thành công vĩ đại từ hơn 30 năm qua.
a) Chỉ thị “khốn 100”
Trích Chỉ thị 100-CT/TW 13/1/1981 về cải tiến cơng tác
khốn, mở rộng “khốn sản phẩm đến nhóm lao động và người
lao động” trong hợp tác xã nơng nghiệp:
Căn cứ vào mục đích, ngun tắc và phương hướng nêu
trên, cần hoàn chỉnh hơn nữa chế độ “ba khốn” có thưởng,
phạt cơng minh của hợp tác xã đối với đội sản xuất (khốn chi
phí sản xuất, khốn cơng điểm, khoán sản phẩm). Đồng thời,
phải cải tiến mạnh mẽ các hình thức khốn của đội sản xuất đối
với xã viên: Đội sản xuất khốn sản phẩm đến nhóm lao động
và người lao động (gọi tắt là khoán sản phẩm) là một hình thức
quản lý sản xuất và trả cơng lao động có gắn trách nhiệm và
quyền lợi của người lao động với sản phẩm cuối cùng một cách


trực tiếp. Nó phát huy được mạnh mẽ tính tích cực, tự giác của
xã viên, lôi cuốn mọi người tăng thêm công sức (kể cả lao động

phụ), chủ động tận dụng đất đai, phân bón, áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, tận thu mùa màng, đưa đến
tăng năng suất, sản lượng thu hoạch và nâng cao hiệu quả kinh
tế, nâng cao thu nhập của xã viên, tăng tích luỹ của hợp tác xã
và làm cho hợp tác xã thực hiện tốt hơn nghĩa vụ nơng sản đối
với Nhà nước.
Việc thực hiện đúng đắn hình thức “khốn sản phẩm” cịn
có tác dụng tích cực củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới, củng cố chế độ làm chủ tập thể, tinh giản bộ máy quản lý
hợp tác xã, đồng thời thúc đẩy việc tăng cường cơ sở vật chất –
kỹ thuật của hợp tác xã nơng nghiệp. Tuy nhiên, hình thức
“khốn sản phẩm” này mới phát triển, kinh nghiệm chưa nhiều
và chưa được tổng kết đầy đủ, nên cịn có những điểm chưa
hồn thiện. Mặt khác, nếu khơng chỉ đạo chặt chẽ, thì cũng dễ
phạm các khuyết điểm, như : “khoán trắng”, giao ruộng đất cho
xã viên sử dụng một cách manh mún, tập thể bng lỏng quản
lý lao động, sức kéo, phân bón và khó nắm chắc được sản
phẩm, v.v…
Qua bước đầu tổng kết tình hình thực tế, cần mạnh dạn mở
rộng việc thực hiện hình thức “khốn sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động” trong các hợp tác xã nông nghiệp (kể
cả hợp tác xã tiên tiến), đối với các cây trồng (kể cả cây lúa),
chăn nuôi và ngành nghề khác của hợp tác xã, đồng thời phải
chỉ đạo chặt chẽ để làm tốt và khơng ngừng hồn thiện hình
thức khoán này; chấm dứt các hiện tượng “cấp trên ngăn cấm,
cấp dưới làm chui”, buông trôi lãnh đạo, ngăn ngừa tình trạng
làm ồ ạt, thiếu chuẩn bị; kiên quyết xố bỏ và ngăn chặn tình
trạng “khốn trắng”. Đối với các hợp tác xã ở miền núi, hợp tác
xã và tập đồn sản xuất ở miền nam, Bộ Nơng nghiệp cùng với
các tỉnh nghiên cứu, hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các hình

thức khốn cho sát hợp; riêng về hình thức “khốn sản phẩm
đến nhóm lao động và người lao động”, thì cần làm thử, rút
kinh nghiệm trước khi mở rộng.


Để thực hiện đúng đắn việc khoán sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động, trước hết cần tổ chức tốt sự hợp tác và
phân công lao động trong hợp tác xã và trong từng đội sản
xuất. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, quy trình sản xuất và các
định mức kinh tế - kỹ thuật đã được xác định, hợp tác xã và đội
phải trực tiếp tổ chức chu đáo lao động trong các đội, tổ chuyên
khâu để làm những khâu cơng việc quan trọng, địi hỏi kỹ thuật
gắn với việc sử dụng các cơ sở vật chất – kỹ thuật chung mà
nếu giao cho từng người lao động tự đảm nhiệm, thì hiệu quả
thấp hơn hoặc gây thêm phức tạp cho công tác quản lý (như :
làm đất, thủy nông, giống mạ, quản lý và phân phối phân bón,
phịng trừ sâu bệnh, bảo vệ mùa màng). Trong những khâu này,
hợp tác xã và đội phải tổ chức khoán việc cho từng người lao
động trong đội, tổ chuyên khâu để nâng cao trách nhiệm, nâng
cao năng suất lao động và chất lượng công việc. Đối với những
khâu công việc dựa vào cách làm thủ công mà lao động của
từng người có thể làm tốt (như cây trồng, chăm sóc, thu hoạch),
thì đội giao cho nhóm lao động hoặc người lao động đảm
nhiệm.
Cần hoàn chỉnh các định mức kinh tế - kỹ thuật làm cơ sở
cho việc cải tiến tổ chức sản xuất và quản lý của hợp tác xã,
của đội sản xuất và việc xác định mức khoán hợp lý. Để định
mức khoán hợp lý của hợp tác xã cho đội và của đội cho nhóm
lao động hay người lao động, phải căn cứ vào diện tích, độ phì
nhiêu và năng suất bình quân của từng loại ruộng đất, điều kiện

lao động và yêu cầu về chi phí sản xuất trên từng diện tích,
đồng thời phải được xã viên thảo luận dân chủ. Mức khoán hợp
lý phải vừa bảo đảm được lợi ích của hợp tác xã và của đội sản
xuất, vừa đảm bảo được lợi ích của người lao động, nâng cao
thu nhập của xã viên bằng cách tăng sản lượng và tăng giá trị
ngày công là chủ yếu, đồng thời có thu nhập bổ sung bằng
thưởng vượt mức khốn.
Đi đơi với việc cải tiến tổ chức lao động, cần cải tiến chế độ
phân phối thu nhập, làm cho mọi người tham gia các khâu


trong q trình sản xuất và cơng tác quản lý gắn bó chặt chẽ
với kết quả sản xuất cuối cùng. Muốn vậy, ngoài việc xây dựng
định mức kinh tế - kỹ thuật và định mức khoán cho đúng, hợp
tác xã và đội sản xuất phải dân chủ bàn bạc với xã viên để
quyết định chế độ thưởng, phạt công bằng đối với mọi người,
trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất. Phải quản lý chặt
chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất của tập thể, không
được phân tán ruộng đất, phân tán cơ sở vật chất – kỹ thuật
của hợp tác xã và làm suy yếu kinh tế tập thể. Phải kiên quyết
ngăn ngừa và khắc phục tình trạng “khốn trắng” cho xã viên.
Khơng được giao ruộng đất cho xã viên tự ý sử dụng; không
giao cho từng cá nhân xã viên tự đảm nhiệm tồn bộ q trình
sản xuất từ khâu làm đất đến khâu thu hoạch. Phải có kế hoạch
sử dụng tốt cơ sở vật chất – kỹ thuật của hợp tác xã, khơng
được vì “khốn sản phẩm” cho xã viên mà để lãng phí, hư
hỏng.
Tổ chức tốt việc giao diện tích ruộng đất cho đội sản xuất,
cho nhóm và cho người lao động sử dụng để thực hiện sản
lượng khoán, tránh để đồng ruộng bị chia cắt manh mún, gây

trở ngại cho việc sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật và áp dụng
tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất. Khi diện tích giao khốn cho
người lao động được phân bố hợp lý, thì có thể ổn định trong vài
ba năm để xã viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó. Về
mức sản lượng giao khốn, cần xem xét hàng năm cho phù hợp
với điều kiện sản xuất thực tế. Phải có biện pháp tổ chức thật
tốt khâu thu hoạch để tập thể nắm chắc được sản phẩm, bảo
đảm được yêu cầu phân phối theo đúng nguyên tác đã quy
định. Hợp tác xã phải xây dựng nội quy tiến hành “khốn sản
phẩm cho nhóm lao động và người lao động”, định rõ trách
nhiệm của tập thể đối với người lao động, trách nhiệm của
người lao động đối với tập thể và có biện pháp tổ chức thực
hiện tốt nội quy đó để bảo đảm việc áp dụng hình thức “khốn
sản phẩm” theo đúng mục đích và ngun tắc đã nêu.
Hình thức đội sản xuất khốn việc cho nhóm lao động và
người lao động, (gọi tắt là khoán việc) ràng buộc trách nhiệm


và quyền lợi của xã viên đối với từng việc được giao khoán và
gián tiếp gắn với sản phẩm cuối cùng. Một số hợp tác xã đã xây
dựng được nền nếp quản lý theo cách khốn này, khơng ngừng
nâng cao trình độ quản lý của cán bộ, ý thức tập thể của xã
viên, và đã đạt được thành tích, tiến bộ trong việc phát triển
sản xuất và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở hợp
tác xã nào, đối với quy trình sản xuất nào mà cán bộ và xã viên
thực sự tán thành cách khoán này, thì cần tổ chức thực hiện
cho tốt hơn, đúc kết kinh nghiệm, nhằm phát huy mặt tích cực
và khắc phục các nhược điểm của nó, như : xã viên chưa thấy
trách nhiệm và quyền lợi của mình gắn bó trực tiếp với sản
phẩm cuối cùng nên dễ chạy theo công điểm, ít quan tâm đến

chất lượng cơng việc; việc kiểm tra, nghiệm thu cơng việc khó
bảo đảm được u cầu về chất lượng; bộ máy quản lý nặng nề,
v.v…
Phải bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc trong việc chỉ đạo
công tác khoán và để cho hợp tác xã vận dụng linh hoạt các
hình thức khốn. Tuỳ theo đặc điểm sản xuất của từng cây,
con, ngành nghề và tuỳ theo điều kiện của từng nơi, các hợp
tác xã có thể vận dụng hình thức này, hình thức khác hoặc vận
dụng đồng thời cả hai hình thức khốn để bổ sung cho nhau.
Các cấp bộ Đảng và chính quyền phải tơn trọng quyền tự chủ
của hợp tác xã trong việc lựa chọn hình thức khốn trên cơ sở
tổ chức thảo luận dân chủ trong xã viên và trong đại hội đại
biểu xã viên.

b) Nghị quyết “khốn 10”
Trích Nghị quyết 10-NQ/TW 5/4/1988 về khốn, phân
cơng lao động và phân phối thu nhập trong hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khốn sản phẩm cuối cùng
đến nhóm hộ và hộ xã viên, đến người lao động và đến tổ, đội
sản xuất tuỳ theo điều kiện của ngành nghề cụ thể ở từng


nơi, gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch phân phối từ đầu.
Trong trồng trọt, về cơ bản khoán đến hộ hoặc nhóm hộ xã
viên. Hợp tác xã, tập đồn sản xuất phải xây dựng các định
mức, đơn giá để làm căn cứ xây dựng kế hoạch và giao khoán
cho xã viên, có dự án phân phối (cả tiền và hiện vật) cho mọi
ngành nghề trong hợp tác xã, tập đồn sản xuất, cơng bố
ngay từ đầu cho tồn thể xã viên biết để thực hiện.

Trong ngành trồng trọt, phải điều chỉnh diện tích giao
khốn, khắc phục tình trạng phân chia ruộng đất manh mún
hiện nay, bảo đảm cho người nhận khốn canh tác trên diện
tích có quy mơ thích hợp và ổn định trong khoảng 15 năm.
Phải phân loại đúng các loại ruộng đất và xác định đúng các
định mức, đơn giá đối với từng khâu trên từng loại đất để làm
cơ sở giao khoán và ổn định mức khoán trong 5 năm; chỉ sửa
đổi mức khoán khi điều kiện vật chất - kỹ thuật đã thay đổi.
Tuỳ tình hình cụ thể mà hợp tác xã và tập đồn sản xuất
quyết định những khâu do tập thể đảm nhiệm và những khâu
khốn cho xã viên (khơng nhất thiết tập thể làm 5 khâu, xã
viên làm 3 khâu), và bảo đảm cho các hộ xã viên nhận khoán
thu được khoảng trên dưới 40% sản lượng khoán trở lên tuỳ
theo số lượng khâu do hộ xã viên đảm nhiệm.
Dựa trên cơ sở kinh doanh tổng hợp và không ngừng mở
rộng tái sản xuất, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất phân cơng
lại lao động theo hướng chun mơn hố, ai giỏi nghề gì làm
nghề đó. ở những nơi có điều kiện, khuyến khích người giỏi
ngành nghề khác chuyển sang làm ngành nghề và trao lại
ruộng đất cho hợp tác xã, tập đồn sản xuất để giao khốn
thêm cho người trồng trọt; người trao lại ruộng khốn cho hợp
tác xã, tập đồn sản xuất được bồi hoàn giá trị sản phẩm
đang trồng trên đất đai đó, cơng sức đã bỏ ra để tăng thêm
độ màu mỡ của đất và các điều kiện sản xuất khác so với khi
mới nhận ruộng khoán của tập thể.
Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và theo cổ
phần đóng góp của xã viên trong hợp tác xã và các tập đoàn




×