TaiLieuDaiHoc.com
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
TRẦN THỊ LAN HƯƠNG
PHÁT HUY LỢI THẾ SO SÁNH TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở MỘT SỐ
NƯỚC ASEAN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị
Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 5.02.01
Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN HÀ
VIỆN NGHIÊN CỨU ĐÔNG BẮC Á
HÀ NỘI - 2005
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: LỢI THẾ SO SÁNH VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC KHAI THÁC LỢI
THẾ SO SÁNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
7
34
2.1
Lợi thế so sánh chủ yếu ở các nước ASEAN-5
34
2.1.1
Điều kiện kinh tế ban đầu của ASEAN-5 khi tiến hành cơng nghiệp
hố
34
2.1.2
Các lợi thế so sánh chủ yếu ở ASEAN-5
36
2.1.3
Lợi thế so sánh ở từng nước ASEAN-5
43
2.2
Chính sách của các chính phủ để tận dụng những lợi thế so sánh
trong giai đoạn 1970-1996
52
2.2.1
Chính sách cơng nghiệp hố
552
2.2.2
Chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu
575
2.2.3
Chính sách đào tạo nhân lực
60
2.2.4
Chính sách phát triển khoa học cơng nghệ
63
Các điều kiện phát triển kinh tế và việc sử dụng lợi thế so sánh
nhằm phát triển kinh tế ở Việt Nam
90
3.1.1
Nhận thức về lợi thế so sánh ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
90
3.1.2
Phát huy lợi thế so sánh trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
97
3.1.3
Thách thức hiện nay trong việc phát huy lợi thế so sánh ở Việt Nam
101
3.2
Vận dụng bài học kinh nghiệm từ phát huy lợi thế so sánh của các
nước ASEAN-5
108
3.2.1
Kinh nghiệm về công nghiệp hoá bền vững để phát huy tốt nhất
những lợi thế so sánh
108
3.2.2
Kinh nghiệm xuất phát từ chính năng lực nội sinh
110
3.2.3
Kinh nghiệm từ sự thay đổi lợi thế so sánh trong từng giai đoạn
113
KẾT LUẬN
116
Tổ chức thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong quá trình cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu và hội nhập kinh tế
quốc tế, lợi thế so sánh là yếu tố cần thiết để các quốc gia phát huy những ưu thế
sẵn có để trao đổi và bổ sung lẫn nhau nhằm đạt được sự huy động nguồn lực
cho quá trình phát triển kinh tế. Trong những thập kỷ qua, một số nước ASEAN
là Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Philipin và Singapo (ASEAN-5) phát huy
được những lợi thế so sánh của mình để thực hiện chính sách mở cửa và cơng
nghiệp hoá. Nhờ tận dụng được những lợi thế so sánh về lao động đông và rẻ, tài
nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác triệt để, đất đai màu mỡ
và vị trí địa lý thuận lợi và với mục đích thu hút dịng vốn đầu tư nước ngồi,
xuất khẩu hàng hoá thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, các
nước ASEAN-5 đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 8%/năm trong
thập kỷ 70, 6%/năm trong thập kỷ 80, một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hơn bất
cứ khu vực nào khác trên tồn thế giới. Nhờ đó, đã nâng cao được mức sống cho
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế hiện đại và thực hiện các chính sách kinh tế
xã hội khác một cách hiêụ quả. Nhiều chuyên gia nghiên cứu quốc tế đã đánh giá
các nước ASEAN-5 như những "con hổ" tạo nên sự "thần kỳ Châu Á".
Tuy nhiên, ngoài những nét tương đồng của khu vực Đông Nam Á, lợi thế
so sánh của các nước ASEAN-5 cũng có sự khác nhau, do vậy dẫn đến những
cơng cụ chính sách thực hiện để phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước cũng có
những khác biệt. Đó cũng là một trong những lý do giải thích cho sự chênh lệch
tương đối về trình độ phát triển của các nước tính đến cuối thập kỷ 90. Trong bối
cảnh tồn cầu hố và cạnh tranh kinh tế quốc tế gay gắt như hiện nay, Singapo
Nam suy nghĩ từ kinh nghiệm của các nền kinh tế mới cơng nghiệp hố” của tác
giả Nguyễn Anh Tuấn (Nhà xuất bản khoa học xã hội, năm 1996); “Cơng nghiệp
hố, hiện đại hố: phát huy lợi thế so sánh. Kinh nghiệp của các nền kinh tế đang
phát triển ở Châu Á” của tác giả Đỗ Đức Định (chủ biên; Nhà xuất bản chính trị
quốc gia 1999); "Cạnh tranh kinh tế" của tác giả Trần Văn Tùng (Nhà xuất bản
thế giới; năm 2004). Các tác phẩm này đã tập trung phân tích những chính sách
và kinh nghiệm cơng nghiệp hố của một số nền kinh tế Đơng Á, trong đó có
nhấn mạnh đến mơ hình “đàn nhạn bay”, sự tận dụng nguồn tài nguyên và nhân
3
lực rẻ để phát triển thương mại và thu hút FDI của một số nước trong khu vực,
sự khác nhau giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, thực trạng cơng nghiệp
hố và lựa chọn các sản phẩm xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, và những
bài học, những biện pháp thiết thực rút ra từ các nước Châu Á mà Việt Nam nên
tham khảo học tập. Một số giáo trình giảng dạy kinh tế quốc tế của Việt Nam
như “ Quan hệ kinh tế quốc tế” của tác giả Võ Thanh Thu (xuất bản năm 2003);
"Kinh tế học quốc tế" của tác giả Tô Xuân Dân (chủ biên) (xuất bản năm 1995);
“Kinh tế học phát triển: những vấn đề đương đại” do nhà xuất bản khoa học xã
hội phát hành năm 2003 đã đề cập đến những xu hướng chủ yếu của thời đại
ngày nay, lợi ích của việc phát huy lợi thế so sánh đối với các nước đang phát
triển, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, kinh nghiệm phát huy lợi thế so
sánh của một số nước Châu Á trong thời gian qua. Các tác giả đều cho rằng
thương mại theo hướng thúc đẩy xuất khẩu ở Đông Á cũng như ở Việt Nam có
vai trị rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như góp
phần tăng cường sự hội nhập quốc tế của các nước.
Về các thể loại báo, tạp chí, có rất nhiều tác giả đề cập đến việc phát huy lợi
thế so sánh của một số nước Châu Á và kinh nghiệm cho Việt Nam. Điển hình là
các bài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm: một số kinh nghiệm quốc
tế” của tác giả Vũ Anh Tuấn; (tạp chí Cộng sản số 10/2004); “Áp dụng phương
pháp phân tích lợi thế so sánh để nghiên cứu tiềm năng hội nhập kinh tế của các
bài học cụ thể cho các nước đi sau trong đó có Việt Nam. Vì lẽ đó, với việc lấy
chiến lược phát huy lợi thế so sánh của các nước ASEAN-5, những tác động cơ
bản của nó đối với nền kinh tế các nước làm đối tượng nghiên cứu chính, luận
văn sẽ là một cơng trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện các chính sách kinh tế
nhằm phát huy lợi thế so sánh ở các nước ASEAN-5, đánh giá thành công và hạn
chế trong việc phát huy lợi thế so sánh của các nước ASEAN-5, và rút ra những
kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào việc thực hiện nhiệm
vụ cụ thể sau:
- Phân tích các lý thuyết về lợi thế so sánh, những thay đổi trong quan niệm
về lợi thế so sánh trong bối cảnh tồn cầu hố.
5
- Những lợi thế cơ bản của các nước ASEAN-5, những tương đồng và khác
biệt về lợi thế so sánh của các nước.
- Những cơng cụ chính sách để thực hiện việc phát huy những lợi thế so
sánh đó và tác động của nó đối với nền kinh tế của mỗi nước. Những nhìn nhận
đánh giá mới về việc tận dụng lợi thế so sánh của các nước này sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997.
- Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những chính sách của chính phủ các
nước nhằm phát huy lợi thế so sánh: như chính sách lựa chọn sản phẩm xuất
khẩu, chính sách thị trường, chính sách phát triển cơng nghệ, chính sách thu hút
đầu tư nước ngồi, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách tài chính
tiền tệ, phát triển thể chế Luận văn cũng tập trung nghiên cứu những tác động
cơ bản của việc phát huy lợi thế so sánh đối vơí các nước ASEAN-5 như: tác
động đến tăng trưởng GDP, giải quyết công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu
6. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lợi thế so sánh và vai trò của việc khai thác lợi thế so sánh ở các
nước đang phát triển
Chương 2: Lợi thế so sánh trong quá trình phát triển kinh tế ở các nước
ASEAN-5
Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm của các nước ASEAN-5 trong phát huy
lợi thế so sánh nhằm phát triển kinh tế ở Việt Nam. 7
Chương 1
LÝ THUYẾT LỢI THẾ SO SÁNH VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC KHAI
THÁC LỢI THẾ SO SÁNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1.1. Các lý thuyết về lợi thế so sánh
Ngay từ giữa thế kỷ 16, trường phái trọng thương đã chú ý đến vai trò quan
trọng của ngoại thương trong việc làm tăng của cải quốc gia. Đến thế kỷ 18, nhà
kinh tế chính trị học cổ điển Anh Adam Smith đã đưa ra khái niệm lợi thế so
sánh tuyệt đối để lý giải cho tầm quan trọng của ngoại thương. Ông cho rằng các
nước trên thế giới bn bán với nhau là vì họ khác nhau và vì họ cùng có lợi.
Trên thế giới, các nước đều khác nhau về điều kiện tự nhiên, địa lý, tài nguyên,
và sự khác nhau này buộc các nước phải chun mơn hố vào việc sản xuất một
số mặt hàng nhất định. Nước có khống sản thì tập trung chun mơn hố vào
phát triển cơng nghiệp, cịn nước có đất đai phì nhiêu thì tập trung vào sản xuất
nơng sản. Thơng qua chun mơn hố, sản lượng của hai nước sẽ tăng lên, và
thông qua trao đổi thương mại thì cả hai nước cùng có lợi.
Quan điểm về lợi thế so sánh tuyệt đối chưa phản ánh đầy đủ sự khác biệt
giữa các nước trong trao đổi thương mại, tuy nhiên quan điểm này đã mở đầu
Khi đó, trong trao đổi thương mại giữa hai nước, Trung Quốc sẽ có lợi
nhiều hơn nếu xuất khẩu giấy sangViệt Nam, và Việt Nam sẽ có lợi nhiều hơn
khi xuất khẩu hàng dệt may sangTrung Quốc.
Có thể minh hoạ mơ hình Ricardo bằng ví dụ sau đây:
Trung Quốc
Việt Nam
Giấy (tấn/1 giờ cơng)
10
40
Vải (mét/1 giờ cơng)
15
20
Số liệu trên cho thấy Trung Quốc có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai
mặt hàng bởi vì u cầu chi phí đầu tư vào cả hai mặt hàng đó đều thấp hơn nếu
so sánh với Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phân tích theo mơ hình lợi thế so sánh
tương đối của Ricardo, ta thấy Lgiấy Trung Quốc/Lgiấy Việt Nam bằng 10/40 và
Lvải Trung Quốc/Lvải Việt Nam bằng 15/20. Do 10/40 < 15/20, nên Trung Quốc
9
được đánh giá là có lợi thế so sánh tương đối trong sản xuất giấy và Việt Nam có
lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Việt Nam sẽ chun mơn hố sản xuất vải
và đem đổi vải lấy giấy củaTrung Quốc, bởi vì nếu khơng có sự trao đổi này,
Việt Nam sẽ phải chi phí 40 giờ lao động thay vì 20 giờ lao động. Cịn với Trung
Quốc, mặc dù có lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng nhưng vẫn chuyển lao động
sang sản xuất giấy để thu lợi nhiều hơn.
Lý thuyết lợi thế so sánh tương đối của Ricardo vì vậy cịn có tên gọi là lý
thuyết lợi thế chi phí tương đối. Lý thuyết này đặt ra vấn đề là một sản phẩm có
thể được sản xuất ở trong nước nhưng cũng có thể được nhập khẩu hoặc xuất
nhiều vốn ở cả hai quốc gia.
- Cả hai hàng hoá được sử dụng trong điều kiện tỷ lệ thu hồi theo quy mô là
không đổi ở cả hai quốc gia.
- Khơng có sự chun mơn hố sản xuất hồn tồn ở hai quốc gia.
- Sở thích của hai quốc gia là như nhau.
- Thị trường cạnh tranh hồn hảo.
- Có sự dịch chuyển linh hoạt của các yếu tố lao động và vốn trong phạm vi
quốc gia nhưng khơng có sự dịch chuyển quốc tế.
- Khơng xét chi phí vận tải, thuế nhập khẩu hoặc các trở ngại thương mại
khác (thương mại tự do).
- Toàn bộ tài nguyên được sử dụng triệt để ở cả hai nước.
- Thương mại quốc tế giữa hai quốc gia được cân đối.
Theo giả định trên, ngành dệt là ngành sử dụng nhiều lao động hơn, trong
khi ngành giấy sử dụng nhiều vốn hơn nếu:
(K/L) để sản xuất giấy > (K/L) để sản xuất vải
Cho rằng, giá chi phí vay vốn (hay cịn gọi là lãi suất) là (r) được tính bằng
USD và tiền lương là (w) được tính bằng USD/giờ, Trung Quốc sẽ là nước dồi
dào vốn hơn và Việt Nam dồi dào lao động hơn, nếu:
(r/w) ở Trung Quốc < (r/w) ở Việt Nam
Điều này có nghĩa là Trung Quốc (nơi có vốn tương đối rẻ, hay cịn gọi là
lãi suất tương đối thấp) sẽ có lợi thế so sánh trong sản xuất các hàng hoá sử dụng
11
nhiều vốn (chẳng hạn như giấy) và Việt Nam(nơi có vốn đắt hơn và khan hiếm
hơn) sẽ có lợi thế trong sản xuất các hàng hoá sử dụng nhiều lao động (như dệt
vải). Do vậy, khi quan hệ buôn bán với nhau, Trung Quốc sẽ xuất khẩu giấy và
Việt Nam sẽ xuất khẩu vải.
Theo Heckscher – Ohlin, ở cả Trung Quốc và Việt Nam, lao động và vốn
được sử dụng để sản xuất ra các mặt hàng. Tiền lương được trả cho công nhân và
lãi suất được trả cho việc sử dụng vốn. Như vậy, chi phí sản xuất vải và giấy ở
không thể xảy ra và sự thay đổi công nghệ đã khiến cho các quốc gia có những
thay đổi khác nhau về lợi thế so sánh. Cũng giống như Ricardo, Heckscher –
Ohlin cũng mới chỉ chú ý đến nhân tố cung tương đối của hàng hoá trên thị
trường, mà chưa chú trọng đến sự thay đổi trong cầu tương đối, đặc biệt khi nó
bị hạn chế bởi khả năng thu nhập của dân chúng, do vậy nó chưa sát với thực
tiễn của thương mại quốc tế, mà ở đó thương mại được đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng.
1.1.3. Lý thuyết cầu tương hỗ của Stuart Mill
Khắc phục những hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo, nhà
kinh tế học người Anh Stuart Mill (1806 - 1873) đã đưa ra lý thuyết cầu tương
hỗ (hay cầu đối ứng), trong đó nhấn mạnh đến yếu tố cầu trong thương mại quốc
tế. Ông cho rằng trong hoạt động trao đổi thương mại giữa hai nước, cung và cầu
đều cần thiết, do vậy lợi thế so sánh không thể dựa trên chi phí so sánh mà dựa
vào giá trị trao đổi. Dựa trên những lý luận mà Ricardo đã nêu ra, Stuart Mill cho
rằng một nước nếu mà sản phẩm của mình có nhu cầu, được ưa chuộng ở nước
ngồi, thì nước đó thu được nhiều lợi nhuận nhất trong trao đổi hàng hoá. Chẳng
hạn, nếu sản phẩm giấy của Trung Quốc được dân chúng Việt Nam ưa chuộng,
thì giá trị của nó sẽ tăng. Nhờ đó, Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng dệt
may ở Việt Nam hơn và ngược lại.
Để trình bày quan điểm của Stuart Mill, có thể đưa ra một ví dụ sau đây:
Với mức tiền lương như nhau, công nhân ở Trung Quốc và Việt Nam sản xuất
như sau:
Việt Nam
Trung Quốc
Vải (mét/1 giờ công)
5
10
Giấy (tấn/1 giờ cơng)
100
đưa ra những giả thuyết đơn giản hố của lý thuyết giá trị lao động, thì Haberler
(1936) lại đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội để chứng minh cho quy luật lợi thế
14
tương đối. Haberler cho rằng: trên thực tế lao động khơng bao giờ có sự đồng
nhất: những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau với mức lương
khác nhau, năng suất lao động và trình độ tay nghề khác nhau. Hơn nữa, hàng
hố làm ra khơng chỉ bởi lao động mà cịn bao gồm cả các yếu tố sản xuất khác
như đất đai, vốn, kỹ thuật. Việc so sánh hàm lượng lao động của các mặt hàng
khác nhau sẽ đưa ra những nhận định sai lệch về giá trị tương đối, bởi vì việc sản
xuất những mặt hàng đó địi hỏi tỷ trọng khác nhau về các yếu tố sản xuất. Theo
Haberler thì chi phí cơ hội của một hàng hố là số lượng các hàng hoá khác
phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm một đơn
vị hàng hoá thứ nhất. Như vậy, nước nào có chi phí cơ hội thấp trong việc sản
xuất một loại hàng hố nào đó thì họ có lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) trong
việc sản xuất hàng hố đó và khơng có lợi thế tương đối trong việc sản xuất
hàng hoá thứ hai.
Để chứng minh cho luận điểm này, Haberler giả định khi khơng có thương
mại quốc tế, Trung Quốc phải bỏ đi 2/3 số đơn vị vải của mình để giành lại đủ
các nguồn tài nguyên cho việc sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm giấy. Như thế
chi phí cơ hội về giấy của Trung Quốc là 1 giấy = 2/3 đơn vị vải. Còn ngược lại
chi phí cơ hội về giấy ở Việt Nam là 1 giấy = 2 vải. Như vậy, Trung Quốc có lợi
thế tương đối trong việc sản xuất giấy cịn Việt Nam có lợi thế tương đối trong
việc sản xuất vải. Theo quy luật lợi thế tương đối, Trung Quốc sẽ chun mơn
hố sản xuất giấy, cịn Việt Nam sẽ chun mơn hố sản xuất vải. Theo
Haberler, chi phí cơ hội 1 giấy = 2 vải ở Việt Nam và 1 giấy = 2/3 vải ở Trung
quốc luôn là một hằng số. Tuy nhiên, trên thực tế, chi phí cơ hội rất ít khi là một
hằng số. Hầu hết các quốc gia đều ở trong tình trạng chi phí cơ hội tăng dần.
Bên cạnh lý thuyết lợi thế so sánh của Heckscher – Ohlin, nhà kinh tế học
Paul Samuelson phát triển rộng lý thuyết này tạo nên một lý thuyết chung là lý
Thương mại quốc tế sẽ tiếp tục được mở rộng cho đến khi giá cả tương đối của
hàng hố được cân bằng hồn tồn.
Khắc phục giả thuyết của Ricardo về thương mại quốc tế chỉ thực hiện gồm
hai nước, hai loại hàng hoá, vào năm 1965, nhà kinh tế học Balassa đã đưa ra
Trích đoạn Phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Phát huy lợi thế so sánh trong
quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam Thách thức hiện nay trong việc phát huy lợi thế so sánh ở Việt Nam
Khơng có bằng cấp chun mơn kỹ thuật% 92,4 90,7 93, Kinh nghiệm về cơng nghiệp hố bền vững để
phát huy tốt nhất những lợi thế so sánh
TaiLieuDaiHoc.com