Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam - MS8: Đánh giá năng lực của cán Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm TPHCM và Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.96 KB, 15 trang )



Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn



Chương trình
Hợp tác Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn


013/VIE05
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng
ca cao ở Việt Nam



MS8
:
Đánh giá năng lực của cán Đại học Cần Thơ, Đại
học Nông Lâm TPHCM và Viện KHKT Nông Lâm
nghiệp Tây Nguyên

Đánh giá năng lực đội ngũ cán bộ Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm TP. HCM và
Viện KHKT Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên về:
• Thiết kế, lắp đặt và hướng dẫn nông dân sử dụng các thiết bị lên men và sấy khô
phù hợp.
• Các kỹ năng thiết lập và quản lý về hội đồng đánh giá mùi vị, phân tích cảm
quan ca cao và các tiến trình sinh trắc.
• Phân tích và báo cáo các thử nghiệm ở nông hộ tạ
i Bến Tre, Tây Nguyên và các
địa điểm của chương trình Success, bao gồm việc phân tích khuynh hướng tài


chính của nông dân từ việc tham gia cải tiến chất lượng ca cao.

Nội dung

1. Thông tin cơ quan 1
2. Tóm lược dự án 2
3. Tóm lược kết quả chính đạt được 2
4. Giới thiệu và cơ sở của dự án 5
5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại 6
5.1. Các điểm thực hiện nổi bật 6
5.2. Lợi ích cho các nông hộ 8
5.3. Xây dựng năng lực 9
5.4. Sự quảng bá 9
5.5. Quản lí dự án 9
6. Báo cáo về các vấn đề liên quan 10
6.1. Về môi trường 10
6.2. Về giới tính và xã hội 10
7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững 11
7.1. Vấn đề và giới hạn 11
7.2. Các chọn lựa 11
7.3. Tính bền vững 11
8. Các bước chính tiếp theo 12
9. Kết luận 12


1
1. Thông tin cơ quan
Tên dự án
Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam.
Cơ quan Việt Nam

Trường Đại học Cần Thơ
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Hà Thanh Toàn
Cơ quan Việt Nam
Trường Đại học Nông Lâm TP. HCM
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Phạm Hồng Đức Phước
Cơ quan Việt Nam
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Tây Nguyên
Điều hành dự án phía Việt Nam
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thường
Tổ chức Úc
QDPI&F
Nhân sự
Neil Hollywood
Ngày bắt đầu
02/2006
Ngày hoàn thành (lúc đầu)
02/2008
Ngày hoàn thành (lúc sau)
06/2008
Nhân viên liên hệ
Phía Úc: Điều hành
Tên:
Neil Hollywood
Điện thoại:
617 34068643
Chức vụ:
Nhà vi sinh vật học
Fax:

617 34068699
Tổ chức:
QDPI&F
Email:




Phía Úc: Liên hệ hành chính
Tên:
Michelle Robbins
Điện thoại:
617 33462711
Chức vụ:
Nhân viên kế hoạch
Fax:
617 33462727
Tổ chức:
QDPI&F
Email:




Phía Việt Nam
Tên:
Hà Thanh Toàn
Điện thoại:
84 71 830604
Chức vụ:

Giám đốc Viện NC&PT CNSH
Fax:
84 71 830604
Cơ quan:
Trường Đại học Cần Thơ
Email:



2
2. Tóm lược dự án





















3. Tóm lược kết quả chính đạt được
Trong thời gian chờ các kết quả cuối cùng về thử nghiệm lên men từ ĐH Nông Lâm TP.
HCM và hoàn chỉnh các báo cáo về các thử nghiệm lên men và sấy. Thời gian này cũng cho
phép hoàn chỉnh quyển sổ tay hướng dẫn nông dân về các qui trình chế biến liên quan đến
quá trình sau thu hoạch của ca cao, bao gồm các qui trình như: trữ trái, phương pháp và kỹ
thuật lên men và sấy. Các kết quả này đã được trình bày trong các báo cáo mục 5 và 7 của dự
án.

• Thiết kế, lắp đặt và h
ướng dẫn nông dân sử dụng các thiết bị lên men và sấy khô
phù hợp.

Các đề nghị cuối cùng liên quan đến việc thiết kế và lựa chọn nguyên vật liệu phù hợp cho
thiết bị sấy năng lượng mặt trời đã được hoàn tất vào tháng 8/2006. Công việc này được hoàn
tất trong chuyến công tác của kỹ sư đến từ QDPI&F. Từ thời gian đó, đã có 7 thiết bị sấy
được làm sẵn tạ
i Trường ĐH Cần Thơ và được chuyển đến cho các hộ nông dân khác nhau.
Ba thiết bị sấy được chuyển giao cho các hộ nông dân ở Bến Tre, 2 chuyển cho Đắc Lắc, 1
cho Cần Thơ và 1 cho Trường ĐH Nông Lâm. Hoạt động của các thiết bị này đã được kiểm
tra và theo dõi ở các cơ quan nghiên cứu có liên quan ở Việt Nam. Tương tự như vậy, các bộ
thùng lên men với 4 kích cỡ khác nhau (10kg, 25kg, 50kg và 100kg) cũng đã được chuyển
giao cho các hộ
nông dân. Cùng với lên men bằng cách ủ thùng thì phương pháp lên men
bằng cách ủ đống cũng được thự hiện và đề cập trong quyển sổ tay. Các đề nghị liên quan
đến qui trình lên men và sấy đã được trình bày trong quyển sổ tay như là một phần đính kèm
của phần báo cáo mục 5. Quyển sổ tay này hiện tại đang được hiệu chỉnh các định dạng lần
cuối trước khi tiến hành in ấn.



Chính phủ Việt Nam đang tập trung vào chất lượng cao của hạt ca cao Việt Nam và đề ra
mục đích sẽ có 10.000 hecta trồng ca cao đến 2010, với trọng tâm là ở tỉnh Đắc Lắc và
Đồng bằng Sông Cửu Long, là vùng ưu tiên cho dự án CARD. Các hộ nông dân sản xuất
nhỏ sẽ canh tác hầu hết ở vùng này và thấy rằng giá trị cao của ca cao có thể giúp sự phát
triển nông thôn. Tuy nhiên, có ý kiến rằng Việt Nam sản xuất ca cao được lên men chất
l
ượng cao với giá cao chênh lệch, điều đó sẽ tăng thêm thu nhập cho người nông dân
trồng ca cao Việt Nam. Phương thức tốt nhất để đảm bảo chất lượng tốt là huấn luyện
những chuyên gia Việt Nam về phương pháp đánh giá các chỉ tiêu chất lượng ca cao, các
phương pháp lên men và sấy khô. Những nhà khoa học của nhóm phát triển ca cao Việt
Nam sẽ được chọn để huấn luyện bao gồm các nhà khoa học của Đạ
i học Nông Lâm, Đại
học Cần Thơ (nằm tại một trong những vùng trồng ca cao rộng lớn nhất Đồng bằng Sông
Cửu Long), và WASI (Viện nghiên cứu ca cao của chính phủ, đặt tại tỉnh Đắc Lắc). Trong
dự án, phương pháp lên men và sấy mặt trời hạt ca cao ở phạm vi hộ gia đình, đã được
phát triển ở các nước khác, sẽ được kiểm chứng và điều chỉnh trong đi
ều kiện Việt Nam
và sự chấp nhận làm theo các yêu cầu thực tiễn của người dân. Những phương pháp này
sẽ được chuyển giao cho các hộ nông dân và các hệ thống khác. Kế tiếp sau đó, đội ngũ
cán bộ được tập huấn phân tích hóa học và cảm quan ca cao dưới sự chỉ đạo của QDPI&F.
Điều này sẽ đáp ứng mục đích sản xuất ca cao với chất lượng mong muốn, từ
đó ca cao có
thể đ
ư
ợc kiểm soát bởi các đơn vị Việt Nam tham
g
ia dự án.
3
• Các kỹ năng thiết lập và quản lý về hội đồng đánh giá mùi vị, phân tích cảm quan ca
cao và các tiến trình sinh trắc.


Tất cả các kỹ thuật này đã được thực hiện trong đợt tập huấn của các cán bộ ở các cơ quan
tham gia dự án phía Việt Nam tại QDPI&F vào tháng 7/2006. Trường ĐH Nông Lâm đã có
sẵn máy nghiền ca cao, WASI cũng được cung cấp một máy nghiền ca cao từ nguồn tiền của
dự
án. ĐH Cần Thơ cũng được cung cấp một máy nghiền loại nhỏ dùng cho nhà bếp tuy
nhiên cũng có thể thích hợp cho cả việc sản xuất sô-cô-la và dịch ca cao lỏng. Do đó, các cơ
quan này đã có đủ thiết bị và có thể tiến hành thực hiện các hội đồng đánh giá mùi vị, phân
tích cảm quan ca cao và các tiến trình sinh trắc.

• Phân tích và báo cáo các thử nghiệm ở nông hộ tại Bến Tre, Tây Nguyên và các địa
điểm củ
a chương trình Success, bao gồm việc phân tích khuynh hướng tài chính của
nông dân từ việc tham gia cải tiến chất lượng ca cao.

Các thử nghiệm tại nông hộ

Kết quả phân tích các thử nghiệm về lên men và sấy tại nông hộ được thực hiện bởi các cơ
quan nghiên cứu liên quan trong dự án đã được trình bày trong phần báo cáo mục 7. Tuy
nhiên, đã không có sự tham gia một cách chặt chẽ giữa các cơ quan nghiên cứu với các vùng
phát triển cây ca cao để thực hiệ
n đầy đủ các chỉ tiêu cần thiết để đánh giá một cách toàn diện
các thông số liên quan đến quá trình lên men và sấy ca cao. Các kết quả phân tích cơ bản chỉ
giới hạn ở các thông số như: nhiệt độ lên men, thời gian làm khô hạt ca cao có sử dụng và
không sử dụng thiết bị sấy và các kết quả phân tích hạt ca cao khô.

Phân tích khuynh hướng tài chính của nông dân từ việc cải tiến chất lượng ca cao

Kết quả đầy đủ
thông qua các cuộc khảo sát nông dân được thực hiện trước và sau khi thiết bị

sấy được lắp đặt tại các nông hộ được trình bày ở phần báo cáo đính kèm.

Tóm tắt các kết quả chính

Đợt khảo sát nông hộ đầu tiên được thực hiện tại tỉnh Bến Tre vào tháng 8/2006 về các vấn
đề liên quan như: các kỹ thuật canh tác, thu hoạch và sơ chế ca cao, thời gian, công lao động,
chi phí và thu nhập liên quan đến ca cao. Cuộc khảo sát này được thực hiệ
n để thiết lập các
dữ liệu cơ bản như: năng suất, thu nhập, thời gian và công lao động và các vấn đề có liên
quan thông qua việc phỏng vấn 50 hộ nông dân. Các kết quả cơ bản đã đựoc trình bày trong
bảng báo cáo mục 2 của dự án vào tháng 12/2006.

Sau cuộc khảo sát này, có 3 hộ nông dân ở tỉnh Bến Tre được cung cấp thiết bị sấy ca cao vào
nửa cuối năm 2006. Một cuộc khảo sát sau đó
được thực hiện vào tháng 12/2007. Cuộc khảo
sát này được thực hiện bao gồm 25 hộ nông dân từ đợt khảo sát ban đầu năm 2006, có 2 trong
số họ đã được cung cấp thiết bị sấy và 25 hộ nông dân mới không có trong đợt khảo sát năm
2006. Một trong số các hộ nông dân này đã được cung cấp thêm 1 thiết bị sấy bằng năng
lượng mặt trời. Ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ nông dân đượ
c tóm tắt bên dưới và được
trình bày chi tiết trong phần đính kèm. Một vấn đề liên quan đến khảo sát là các hộ nông dân
thường không thể cung cấp chính xác các thông tin có liên quan đến sản lượng và thu nhập
của họ. Thông thường thì các hộ nông dân chỉ cung cấp một các tương đối hoặc không có câu
trả lời cả về sản lượng và thu nhập cũng như các nhân tố khác có liên quan. Trong trường hợp
mà chỉ cung cấp các thông tin về sản lượng mà không cung cấp thông tin về
thu nhập thì thu
4
nhập sẽ được tính toán dựa trên các thông tin về sản lượng và giá mua. Thông tin chi tiết sẽ
được trình bày trong phần đính kèm.


Trong thời gian thực hiện báo cáo này thì việc khảo sát các hộ nông dân sản xuất ca cao ở
Cần Thơ, Đắc Lắc và Đắc Nông cũng được hoàn tất. Chỉ có một hộ nông dân sản xuất ca cao
đáng kể ở Cần Thơ và hộ nông dân này cũng được cung cấp 1 thiết bị sấy năng lượng m
ặt
trời vào năm 2007. Do vấn đề về khoảng cách từ WASI đến các hộ nông dân đến hơn 60km
nên việc khảo sát ở đây chỉ được thực hiện với tổng cộng là 6 hộ nông dân ở Đắc Lắc và Đắc
Nông. Một trong các hộ nông dân này cũng đã được cung cấp 1 thiết bị sấy vào tháng
12/2006. Các kết quả từ các địa phương này cũng tương tự như ở tỉnh Bế
n Tre và được trình
bày tóm tắt như sau:

Ở tỉnh Bến Tre có 3 hộ nông dân được nhận thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt trời.
Người đầu tiên là bà Năm Sương ở ấp An Phú, xã An Khánh, huyện Châu Thành. Bà chỉ có
0,25 hecta diện tích đất trồng với 200 cây ca cao cho nên sản lượng ca cao của Bà cũng rất ít.
Bà đã tự thành lập một điểm thu mua trái, lên men và sấy ca cao đã mua được cũng như ca
cao tự trồng tr
ước khi cuộc khảo sát này được thực hiện. Vào năm trước thời điểm tháng
8/2006, bà đã sản xuất và/ hoặc mua được khoảng 2.500kg hạt hàng năm với chi phí khoảng
51 triệu đồng. Sau khi lên men và sấy, bà có được tổng thu nhập hàng năm khoảng 97 triệu
đồng với phần lợi nhuận khoảng 46 triệu đồng. Sau khi nhận được thiết bị sấy, hiện tại bà có
thể sơ chế được v
ới lượng ca cao lớn hơn rất nhiều, lượng trái bà có thể mua hàng tuần vào
thời điểm chính vụ là khoảng 3.000kg và khoảng 400kg/ tuần vào các thời gian còn lại trong
năm. Chi phí để thu mua lượng trái này khoảng 104 triệu đồng, sau khi lên men và sấy bà có
thể có được thu nhập khoảng 285 triệu đồng. Do đó, phần lợi nhuận hàng năm của bà là
khoảng 182 triệu đồng. Bà cũng cho biết là đã giảm được công lao động và thời gian sấy từ
6
- 8 ngày xuống còn 3 - 4 ngày vào mùa nắng và từ 9 - 11 ngày xuống còn 6 - 8 ngày vào mùa
mưa. Như vậy, bà không chỉ gia tăng được khả năng sản xuất và thu nhập mà còn giảm được
công lao động và thời gian sản xuất khoảng 3 ngày.


Hộ nông dân thứ hai ở tỉnh Bến Tre là ông Nguyễn Hùng Sơn và vợ là bà Đinh Thị Kiều ở ấp
Phú Xuân, xã Phú Đức, huyện Châu Thành. Họ có tổng diện tích canh tác là 1 hecta với
khoảng 300 cây được trồng vào năm 2000 và 600 cây được trồ
ng vào năm 2003. Họ cũng là
một điểm thu mua và sơ chế ca cao trước khi nhận đựoc thiết bị sấy. Họ cung cấp một cách
tương đối tổng thu nhập bình quân năm 2006 và 2007 là 100 triệu đồng/ năm. Từ các thông
tin về sản lượng ca cao, cho thấy có khoảng 42 triệu đồng (năm 2006) và 55 triệu đồng (năm
2007) là từ phần ca cao do họ tự trồng. Phần thu nhập còn lại có thể là từ phần ca cao mà h

thu mua để thực hiện lên men và sấy với giá trị xấp xỉ gấp đôi. Họ cũng cho biết là đã gia
tăng được khả năng sản xuất và giảm được công lao động và thời gian sấy khoảng 1 - 2 ngày
trong mùa nắng và 2 - 4 ngày trong mùa mưa.

Hộ nông dân thứ ba ở tỉnh Bến Tre là ông Nguyễn Thanh Phương và vợ là bà Hồ Thị Hồng
Huệ. Họ có 1 hecta đất canh tác với khoảng 400 cây ca cao được trồng vào nă
m 2005 và 150
cây được trồng và năm 2006. 400 cây được trồng năm 2005 có thể đã cho trái vào thời gian
thực hiện khảo sát năm 2007. Họ cũng đã tăng được khả năng lên men và sấy và sơ chế
khoảng 500kg trái/ tuần vào thời gian thu hoạch chính vụ. Ông ta không cung cấp thông tin
về thu nhập nhưng từ lượng ca cao có thể qui đổi được thu nhập hàng năm khoảng 93 triệu
đồng từ việc bán hạt ca cao khô. Ông ta nhận được khoảng 27.000
đồng/ kg hạt khô từ công
ty Cargill vào tháng 12/2007. Khoảng tháng 6/2008, giá ca cao là 36.000 - 38.000 đồng/ kg
và với cùng năng suất trên thi ông ta có thể thu nhập được khaỏng 127 triệu đồng. Ông ta
5
cũng cho biết là đã giảm được công lao động và thời gian sấy khoảng 3 ngày vào mùa nắng
và 2 ngày vào mùa mưa.

Không có bất kỳ thay đổi nào được ghi nhận đối với các đặc tính chất lượng của ca cao khi áp

dụng thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng mặt trời. Điều kiện thời tiết ở Bến Tre, Đắc Lắc,
Đắc Nông và Cần Thơ giúp cho quá trình làm khô hạt ca cao bằng cách phơi nắng vớ
i sự tổn
thất là không đáng kể và cũng không có bất kỳ ảnh hưởng nào gây bất lợi cho mùi vị của ca
cao từ việc xâm nhiễm của nấm mốc. Tất cả các hộ nông dân đều cho biết sự tổn thất chỉ
dưới 1% do sự xâm nhiễm của nấm mốc khi sử dụng phương pháp làm khô truyền thống. Các
thiết bị sấy ca cao chỉ có thể giúp gia tăng được khả n
ăng làm khô hạt ca cao và trong cùng
thời gian có thể giảm được công lao động và thời gian làm khô ca cao. Không cần tốn thời
gian để vận chuyển các vật dụng dùng để làm khô hạt ra vào khi trời mưa và vào thời gian
ban đêm và điều này cho thấy tiết kiệm được có ý nghĩa thời gian và công lao động. Do đó,
các hộ nông dân với thiết bị sấy ca cao có thể gia tăng được khả năng trồng và thu mua từ các
hộ nông dân khác để tiến hành sơ ch
ế với thời gian và công lao động ít hơn. Như vậy có thể
nói rằng việc sử dụng thiết bị sấy ca cao có thể duy trì được các tiêu chuẩn chất lượng trong
khi có thể sản xuất được với sản lượng lớn hơn.

Đóng góp quan trọng của dự án này là về các thuộc tính chất lượng của ca cao thông qua việc
áp dụng các khuyến cáo liên quan đến qui trình lên men như đã được trình bày ở phần các thử
nghi
ệm lên men và trong quyển sổ tay ở mục 5 và 7 của dự án. Do không thực hiện kịp nên
các khuyến cáo này chỉ được tổng kết vào tháng 3/2008 nên không có đủ thời gian để thực
hiện tại các nông hộ và đánh giá ảnh hưởng của nó lên các đặc tính chất lượng của ca cao. Có
nhiều lý do để tin tưởng rằng việc áp dụng các khuyến cáo trong qui trình lên men có thể cải
tiến được chất lượng ca cao nhưng cần thiết phải thực hiệ
n trong giai đoạn khác.
4. Giới thiệu và cơ sở của dự án
Sản xuất ca cao của Việt Nam được tập trung ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với mục
tiêu đạt khoảng 10.000 hecta đất trồng ca cao vào năm 2010.


Mục tiêu tổng quát của dự án là giúp cho Việt Nam có thể sản xuất hạt ca cao lên men chất
lượng cao và qua đó có thể tăng thu nhập của các hộ nông dân trồng ca cao.

Các mục tiêu cụ thể của dự án bao gồm:
1. Xây dựng năng lực đánh giá chấ
t lượng ca cao ở ba cơ quan nghiên cứu được lựa chọn ở
Việt Nam.
2. Thiết lập các phòng thí nghiệm đánh giá cảm quan ca cao, huấn luyện các hội đồng đánh
giá cảm quan và cài đặt các phần mềm để phân tích ở cả ba cơ quan tham gia.
3. Tập huấn các phương pháp phân tích về các khía cạnh của chất lượng ca cao tại QDPI&F,
Úc cho các nhà khoa học từ Trường ĐH Cần Thơ và Trường ĐH Nông Lâm dựa trên khả

năng phân tích sẵn có của họ.
4. Tối ưu hóa kỹ thuật lên men cho các hộ nông dân.
5. Giới thiệu kỹ thuật sấy bằng năng lượng mặt trời cho hai cơ quan nghiên cứu được lựa
chọn phía Việt Nam.
6. Cung cấp tài liệu khuyến nông cho các nông hộ.

Để đạt được các mục tiêu này, các phương pháp được phát triển, kiểm tra và mở rộng để
đánh giá chất lượng ca cao tại các c
ơ quan nghiên cứu và phát triển các kỹ thuật sơ chế phù
hợp cho các nông hộ nhỏ và các phương pháp đảm bảo chất lượng.
6
Mục 8 được xác định với mục tiêu là đánh giá năng lực của các cán bộ ở ĐH Cần Thơ, ĐH
Nông Lâm và WASI về:
• Thiết kế, lắp đặt và hướng dẫn nông dân sử dụng các thiết bị lên men và sấy khô phù
hợp.
• Các kỹ năng thiết lập và quản lý về hội đồng đánh giá mùi vị, phân tích cảm quan ca
cao và các tiến trình sinh trắc.
• Phân tích và báo cáo các thử nghiệm ở

nông hộ.
5. Kết quả đạt được đến thời điểm hiện tại
5.1 Các điểm thực hiện nổi bật
Các hoạt động được liệt kê như trong tài liệu của dự án được nói rỏ hơn trong hợp đồng đã
được bổ sung.
Về mục tiêu đánh giá năng lực của các cán bộ ở ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI
bao gồm:
• Các kỹ năng thiết lập và quản lý về hội đồng đánh giá mùi vị, phân tích cảm quan ca
cao và các tiến trình sinh trắc
Mục tiêu 3, 4 và 6:
Hoạt động 3.1: Tập huấn về đánh giá cảm quan, các qui trình phân tích và sinh trắc tại
QDPI&F cho các cán bộ Việt Nam từ ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI.
Hoạt động này được thực hiện vào tháng 8/2006 và được kết hợp trong kết quả tập huấn đính
kèm. Cán bộ được chọn của ĐH Nông Lâm là một sinh viên đang ở Brisbane nên đã tiết kiệm
được phần chi phí máy bay. Phần chi phí này sau đó đượ
c sử dụng để cấp cho một cán bộ của
WASI. Các cán bộ tham gia đợt tập huấn bao gồm: Phạm Văn Thao từ WASI, Nguyễn Văn
Thành từ ĐH Cần Thơ và Trương Thục Tuyền từ ĐH Nông Lâm. Hai cán bộ từ ĐH Cần Thơ
và WASI chưa được tập huấn về đánh giá cảm quan trước đó. Trương Thục Tuyền đã có
tham gia khóa tập huấn về “Đánh giá c
ảm quan ca cao” tại Trường ĐH Nông Lâm vào tháng
9/2004 và khóa tập huấn về “Đánh giá cảm quan thực phẩm” tại Trường ĐH Công nghệ TP.
HCM vào tháng 3/2004.
Hoạt động 3.2: Tập huấn về đánh giá cảm quan, các qui trình phân tích và sinh trắc bởi
đối tác Úc cho các cán bộ từ ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI.
Các cán bộ được tập huấn về phân tích cảm quan, thiết lập các hội đồng đánh giá cảm quan
và các phương pháp sinh trắc. Ngoài ra, khóa tập huấn cũng ti
ến hành áp dụng sắc ký lỏng
cao áp (HPLC) để phân tích các axit hữu cơ trong ca cao và GC-MS-O để xác định các hợp
chất dễ bay hơi và các hợp chất thơm có liên quan đến hương thơm và mùi vị của ca cao. Các

mẫu ca cao từ Cần Thơ, Bến Tre và WASI được phân tích và tiến hành đánh giá cảm quan.
Các mẫu ca cao từ Tây Phi, Malaysia, Indonesia và Papua New Guinea cũng được phân tích
nhằm để so sánh. Các báo cáo về chuyến đi này đã được báo cáo trước đó trong phần báo cáo
mục 4 (Báo cáo 6 tháng định kỳ lầ
n 2). Một báo cáo đính kèm (2) có liên quan đến đợt tập
huấn này được kèm theo.



7
Hoạt động 3.3: Thiết lập các qui trình phân tích, sinh trắc và đánh giá cảm quan tại ĐH
Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI.
Sự hỗ trợ của các nhà công nghiệp ca cao có liên quan đến chất lượng ca cao của Việt Nam
và cách tiến hành dự án được thực hiện trong suốt chuyến công tác này. Đối tác phía Úc cũng
đã tham dự một hội thảo về chất lượng ca cao được tổ chức bởi Success Alliance (SA) và
MARS tại Trường ĐH Nông Lâm trong chuyến công tác vào tháng 4/2007. Ông ta c
ũng có
một bài báo cáo về lên men, sấy và các khía cạnh về chất lượng của ca cao tại hội thảo này.
Hoạt động 4.1: Hỗ trợ ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI mua các thiết bị cần thiết
cho các qui trình phân tích, sinh trắc và đánh giá cảm quan.
Trường ĐH Cần Thơ
Dự án không có đủ kinh phí để trang bị một máy hóa lỏng ca cao cho ĐH Cần Thơ nhưng đã
được thay bằng một máy rẻ hơn và có thể s
ản xuất được dịch lỏng ca cao. Đây là một bộ cối
và chày được dùng trong “nhà bếp” dùng để sản xuất các gia vị và dược thảo ở dạng bột.
Thiết bị này cho thấy có thể dùng để sản xuất cả dịch ca cao lỏng và sô-cô-la. Do đó, Trường
ĐH Cần Thơ có thể sản xuất được dịch ca cao lỏng và mẫu sô-cô-la để tiến hành tập huấn
đánh giá cảm quan.
Viện Khoa h
ọc Kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp Tây nguyên (WASI)

Một thiết bị sản xuất ca cao lỏng được gửi đến Việt Nam vào tháng 9/2006 và được chuyển
đến WASI vào thời gian cùng với chuyến công tác của đối tác Úc vào tháng 12/2006. Dịch ca
cao lỏng và các buổi đánh giá cảm quan được thực hiện dưới sự hướng dẫn của đối tác Úc
trong các chuyến làm việc vào tháng 12/2006 và tháng 4/2007.
Trường ĐH Nông Lâm
Trường ĐH Nông Lâm đã có thiết bị sản xuất ca cao lỏng, h
ội đồng đánh giá cảm quan và
các thiết bị cần thiết để phân tích cảm quan đã có sẵn trước dự án này.
Hoạt động 6.1: Tập huấn cán bộ của WASI tại ĐH Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI
về đánh giá cảm quan và sinh trắc.
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp Tây nguyên (WASI)
Tập huấn tiếp theo về đánh giá chất lượng và cảm quan ca cao được thực hiện trong chuyến
công tác của đố
i tác Úc vào tháng 12/2006 và tháng4/2007. Các mẫu ca cao lỏng đầu tiên
được sản xuất tại WASI trong chuyến công tác của đối tác Úc vào tháng 12/2006 và hội đồng
đánh giá cảm quan ban đầu cũng được thực hiện. Ngoài ra, Phạm Văn Thao cũng được tham
gia tập huấn tại QDPI&F, WASI cũng có hai cán bộ là bà Hồ Thị Phước và bà Đào Thị Lam
Hương đã được tham gia tập huấn đánh giá cảm quan ở Hà Nội trước đó. Các mẫu ca cao
lỏng được sản xuấ
t và các buổi đánh giá mùi vị ca cao được tiến hành trong các chuyến làm
việc của đối tác Úc. Ngoài các cán bộ của WASI, ông Cao Xuân Lộc từ công ty xuất khẩu ca
cao DAK MAN cũng tham gia vào đợt tập huấn vào tháng 12/2007 và tháng 4/2008. Ông ta
đã cung cấp các mẫu ca cao để đánh giá và so sánh, các mẫu này được mua với giá cao để
xuất khẩu theo yêu cầu của các công ty ở Châu Âu. Với sự có mặt của 3 cán bộ đã được tập
huấn, đã được trang bị một thiết bị s
ản xuất ca cao lỏng và sự đóng góp theo các yêu cầu từ
các nhà công nghiệp nên khả năng đánh giá cảm quan ca cao tại WASI có thể được thực hiện
tốt và các cán bộ này cũng quen với các đặc tính chất lượng mong muốn của vùng.
Đại học Nông Lâm TP. HCM


Cô Trương Thục Tuyền đã có tham gia khóa tập huấn về “Đánh giá cảm quan ca cao” tại
Trường ĐH Nông Lâm vào tháng 9/2004 và khóa tập huấn về “Đánh giá cảm quan thực
8
phẩm” tại Trường ĐH Công nghệ TP. HCM vào tháng 3/2004 trước khi tham gia tập huấn tại
tại QDPI&F. Cô ta cũng đã quen thuộc với các qui trình sinh trắc và đánh giá cảm quan. Tại
Trường ĐH Nông Lâm đã có sẵn một hội đồng đánh giá cảm quan được quản lý bởi bà Lâm
Thanh Hiền trước khi thực hiện dự án này. Với việc hoàn thành tập huấn về đánh giá cảm
quan, ĐH Nông Lâm có khả năng thực hiện việ
c đánh giá cảm quan ca cao một cách toàn
diện và sẽ tiến hành đánh giá các mẫu ca cao từ các thử nghiệm lên men tại ĐH Nông Lâm.

Trường ĐH Cần Thơ
Ông Nguyễn Văn Thành đã tham gia khóa tập huấn về đánh giá cảm quan tại QDPI&F vào
tháng 8/2006. ĐH Cần Thơ thiếu thiết bị sản xuất ca cao lỏng nhưng sau đó đã được thay thế
bằng một thiết bị rẻ hơn. Với sự
tham gia tập huấn tại QDPI&F và được trang bị một thiết bị
sản xuất ca cao lỏng nên ĐH Cần Thơ hiện tại đã có đủ khả năng thực hiện đánh giá cảm
quan ca cao.
• Thiết kế, lắp đặt và hướng dẫn nông dân sử dụng các thiết bị lên men và sấy khô
phù hợp.
Mục tiêu 10:
Hoạt động 10.1: Xác định các kỹ thuật lên men và sấy thích hợp nhất tại
ĐH Cần Thơ,
ĐH Nông Lâm và WASI.
Hoạt động này đã được hoàn thành vào tháng 2/2008 và quyển sổ tay đã được biên soạn (mốc
thực hiện 5) và đã được báo cáo trước đó. Với các thử nghiệm lên men và sấy đã được thực
hiện, các cơ quan tham gia đã được tập huấn và trang bị các thiết bị cần thiết để phân tích các
chỉ tiêu theo yêu cầu. Các thử nghiệm này phần lớn được thực hiện bở
i các cán bộ của ĐH
Cần Thơ, ĐH Nông Lâm và WASI và đã được trình bày chi tiết trong phần báo cáo của điểm

mốc thực hiện 7. Các cơ quan này cũng đã được cung cấp thiết bị sấy ca cao bằng năng lượng
mặt trời. Hộ ông Năm Vinh cũng đã được cung cấp một thiết bị sấy và cũng nằm ở gần với
ĐH Cần Thơ. Tỉnh Bế
n Tre có 3 hộ nông dân được nhận thiết bị sấy. Có 1 hộ nông dân ở tỉnh
Đắc Lắc được lắp đặt thiết bị sấy. Tổng cộng có 8 thiết bị sấy đã được cung cấp từ dự án.
• Phân tích và báo cáo các thử nghiệm ở nông hộ tại Bến Tre, Tây Nguyên và các địa
điểm của chương trình Success ở Bến Tre.
Mục tiêu 14:

Hoạt động 14.1: Thông tin thu thập liên quan đến tiến độ
thực hiện các thử nghiệm trên
đồng.

Các thử nghiệm trên đồng tại các nông hộ đã được trình bày trong phần báo cáo thử nghiệm
lên men và sấy (tài liệu đính kèm của điểm mốc thực hiện 7).

Hoạt động 14.2: Các thông tin thu thập để hoàn thiện báo cáo tổng kết và các đề nghị được
thực hiện về các vấn đề có liên quan đến nông hộ và việc hợp tác thực hiện.

Các thông tin này được trình bày trong tài li
ệu đính kèm về các kết quả khảo sát nông hộ.
5.2 Lợi ích cho các nông hộ
Ca cao được lên men và sấy khô thích hợp và có hương vị tốt có giá trung bình từ 100 - 200
USD/tấn trên thị trường Đông Nam Á. Điều này có ý nghĩa rằng nếu dự án thành công khi
thiết lập một chuẩn về chất lượng cao thì các hộ nông Việt Nam có thể thu nhập thêm từ 1 - 2
9
triệu USD/năm cho 10.000 ha vào năm 2010. Đối với Đồng bằng Sông Cửu Long thì hộ nông
trồng ca cao có khả năng thu nhập thêm từ 1,8 - 3,6 triệu USD. Dựa theo lượng mưa tương
đương, việc phát triển các phương pháp đạt được cho đồng bằng sông Cửu Long nên chuyển
giao cho vùng duyên hải miền Trung nếu việc sản xuất ca cao được tiến hành tại đây.

Một tổng kết ngắn gần đây về các hộ nông trồng ca cao
ở Bến Tre theo SA vào năm 2004 cho
thấy cây ca cao 2 năm tuổi có thể cho 50 kg hạt/tháng/ha. Ở cây trồng 4 năm tuổi, sản lượng
tăng đến 200 kg hạt/tháng/ha. Với giá hiện tại là 21.000 đồng/kg cho hạt đã lên men, nông
dân có thể thu nhập 3,6 triệu đồng/tháng/ha (hay 235 USD/tháng/ha) đối với hạt ca cao có
chất lượng tốt.
Từ khi viết dự án này, giá hạt ca cao lên men khô đã tăng lên đến 38.000 đồng/kg và như thế
khoản thu nhập từ việc trồ
ng ca cao cũng đã được cải thiện thêm.
Những ảnh hưởng của việc áp dụng các phương pháp từ dự án này được trình bày trong phần
báo cáo kết quả khảo sát nông hộ đính kèm.
5.3 Xây dựng năng lực
Tập huấn trong việc bố trí các thử nghiệm lên men, sấy khô và phân tích các thông số có liên
quan hiện tại đang được hoàn thành ở mỗi cơ quan tham gia.
Huấn luyện sử dụng phương pháp HPLC phân tích axit hữu cơ và GC-MS phân tích các h
ợp
chất thơm, cho đội ngũ cán bộ Việt Nam của mỗi cơ quan tham gia, được diễn ra tại QDPI&F
vào tháng 8/2006. Các cơ quan tham gia, chỉ có ĐH Nông Lâm là có thiết bị để thực hiện các
phân tích này.
Tập huấn đánh giá cảm quan và sinh trắc học của các kết quả cũng được thực hiện trong hội
thảo này. Tiếp theo là khóa tập huấn được thực hiện bởi phía đối tác Úc trong chuyến công
tác vào tháng 12/2006 và vào tháng 04/2007. Thiết bị cố
i và chày cho sản xuất sô-cô-la và
dịch lỏng ca cao được gửi đến WASI và một máy chế biến sô-cô-la hay sản xuất dịch lỏng
được gửi tới ĐH Cần Thơ. ĐH Nông Lâm đã có thiết bị trước khi bắt đầu dự án.
5.4 Sự quảng bá
Các điểm sau có thể được áp dụng để quảng bá các liên quan về AusAID và CARD
• Các điểm tham quan và ký kết với các nơi thí điểm, các buổi hộ
i thảo và tập huấn (thiết bị
sấy năng lượng mặt trời và các thùng lên men được trình bày ở tỉnh Bến Tre trong “Hội

thảo ca cao quốc tế” vào tháng 11/2006 và một Hội nghị chuyên đề về lên men, sấy và đánh
giá chất lượng ca cao được thực hiện tại Đại học Nông Lâm vào tháng 4/2007).
• Giới thiệu các quyển sổ tay tập huấn.
• Xuất bản của dự án trên bản tin của Quỹ ca cao Thế
giới (WCF).
5.5 Quản lí dự án
Các cơ quan Việt Nam chịu trách nhiệm sắp xếp kế hoạch và kiểm soát thử nghiệm lên men
và sấy khô cũng như việc tập huấn phân tích và đánh giá cảm quan. Cơ quan Việt Nam cũng
chịu trách nhiệm việc theo dõi các thử nghiệm và các tác động lên nông dân bao gồm lao
động và thu nhập cũng như chất lượng của ca cao mà các nông hộ thu hoạch khi tiến hành
các thử nghiệm. Cơ quan Úc sẽ phố
i hợp theo dõi, phân tích dữ liệu thu được, việc phát hành
các tài liệu khuyến nông và báo cáo tiến trình dự án đồng thời quản lý kinh phí dự án.

10
6. Báo cáo về các vấn đề liên quan
6.1 Về môi trường
Việc trồng ca cao có thể có tác động ít phức tạp lên môi trường hơn các hình thức canh tác
khác của nông nghiệp. Các khu sản xuất thường nhỏ, thường là ca cao được trồng xen với
dừa hay một số nông sản khác. Các báo cáo nghiên cứu, gồm việc giới thiệu tại một hội nghị
ICCO (Braxin, 1996) cho thấy sự đa dạng loài như động vật, chim, côn trùng, v.v ở các khu
trồng ca cao cũng tương tự như
các vùng trồng ca cao gần với các khu rừng nhiệt đới.

Mối nguy hại đến môi trường khi tiến hành dự án này là rất ít. Dự án gồm tiến trình trồng ca
cao hiện tại và tương lai. Việc trồng ca cao tương lai có thể tác động lên quần thể động vật và
thực vật nhưng chương trình không mở rộng diện tích trồng ca cao. Ca cao cũng được xem là
một loại hoa màu ôn hòa. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, ca cao được trồng vớ
i các hệ hoa
màu khác, thường là dừa hoặc trong một hệ thống rất đa dạng có thể đến 15 loại cây trồng

khác nhau như cây cho quả, hạt, cây bụi, dây leo và cây thuốc tạo nên sự đa dạng sinh học
cao.
6.2 Về giới tính và xã hội
Nhiều nông hộ trồng ca cao ở Việt Nam đã thực hiện việc lên men và sấy ca cao do chính các
hộ này thu hoạch và vì thế có nhiều kinh nghiệm trong các công đoạn này. Trong suốt thử
nghiệm tối ưu hóa kỹ thuật lên men, một nỗ lực để kết hợp chặt chẽ nhằm thu được kết quả
tốt nhất khi tiến hành các phương pháp do chúng tôi đề nghị. Sự kết hợp này bao gồm các kê
khai nguyên liệu sử dụng và môi trường, công việc thử nghiệm và yếu tố xã hội.
Một điều tra của Success Alliance vào năm 2005 cho thấy:
SA có 4 tỉnh tham gia gồm Bình Phước (1.095 hộ dân), Bà Rịa V
ũng Tàu (1.560), Tiền
Giang (1.600) và Bến Tre (1.679). Ở các tỉnh này, lao động phụ nữ chiếm từ 9% ở Bình
Phước đến 20% ở Bến Tre. Tiền Giang có 16% và Bà Rịa Vũng Tàu là 13%.

Hầu hết các nông hộ tham gia này thì việc canh tác là thu nhập chính. Số lượng người tham
gia có độ tuổi từ 26 - 55 được xem là lực lượng lao động có kinh nghiệm. Lượng người tham
gia thuộc một gia đình là 3 - 5 thành viên. Tỉ lệ nông dân có trình độ văn hóa cấp II và cấp III
là 69 - 77% trãi đều ở các t
ỉnh, vì thế tỉ lệ cao người có trình độ văn hóa rất thuận lợi cho
việc tiếp thu kiến thức, kỹ thuật mới.

Tại tỉnh Bình Phước có 90% nông dân thu nhập từ 12 - 100 triệu đồng/năm cho tất cả loại cây
trồng. Trung bình là 40 triệu đồng. Ở Bà Rịa Vũng Tàu, gần 90% nông dân thu nhập từ 1 - 45
triệu đồng, trung bình là 17 triệu đồng. Ở Bến Tre, 90% nông dân có thu nhập 1 - 10 triệu
đồng, trung bình là 4 triệu đồng.
Ở Tiền Giang là 2 - 10 triệu đồng, trung bình 5 triệu đồng. Ở
Cần Thơ chỉ có 1 hộ trồng ca cao có thu nhập hàng năm là 16 triệu đồng từ cacao.

Kếty quả các cuộc khảo sát nông dân, được tiến hành trong dự án này, đã được hoàn tất và
được trình bày trong phần tài liệu đính kèm.

11
7. Vấn đề về sự thực hiện và tính bền vững
7.1 Vấn đề và giới hạn
Một vấn đề liên quan là các thiết bị sấy dùng năng lượng mặt trời không phù hợp cho các
nông hộ nhỏ vì giá thành cao và phức tạp. Tuy nhiên có thể thiết kế một dạng thiết bị sấy nhỏ
hơn phù hợp với các nông hộ nhỏ. Sau chuyến thăm của các chuyên gia sấy QDPI&F, giá
thành và sự sẵn có của các vật liệu để lắp đặt máy sấy được so sánh. Các khung g
ỗ cho thấy
có giá thành bằng với các nguyên liệu khác như ống thép vuông và sắt mạ kẽm. Các khung
sắt được ưa thích hơn vì không bị mục và bị vênh so với khung gỗ cùng thời gian. Tuy nhiên
máy sấy kích cỡ nhỏ nhất, có thể sấy khô 100 - 150 kg hạt ướt có giá thành khoảng 3,2 triệu
đồng. Vấn đè này có thể được giả quyết khi sử dụng các tấm lợp rẻ hơn có bán sẵn tại TP.
HCM. Các tấm lợp polycacbonat của Israel đượ
c sử dụng trong dự án có giá thành là 1,2 triệu
đồng một tấm và với thiết sấy có 4m
2
diện tích sàn sấy (năng suất là 200kg hạt ướt) sẽ cần
đến 2 tấm lợp. Ngoài vấn đề về giá cả, các tấm lợp này cũng không có bán sẵn tại Việt Nam.
Với các tấm lợp rẻ hơn có sẵn tại Việt Nam, chi phí có thể giảm xuống đến 1,6 triệu đồng cho
một thiết bị sấy với diện tích sàn sấy là 2x2 m
2
. Hiện tại đã có sự tiếp xúc giữa nhà phân phối
Úc với một số công ty ở Việt Nam. Hy vọng rằng khi kết thúc dựa án hay sau đó thì các tấm
lợp này có thể được bán tại các đại lý ở Việt Nam.

Như kết quả đã ghi nhận trong các thử nghiệm về sấy, việc khuyến cáo sử dụng 50kg hạt ướt
trên 1m
2
diện tích sàn sấy là không chính xác về khả năng sấy của thiết bị. Con số này có
được là dựa trên các kết quả từ các thử nghiệm ở một địa phương của Papua New Guinea, nơi

có lượng mưa cao hơn so với vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Các kết quả cho thấy sàn sấy
có thể được sử dụng với khối lượng đến 100kg hạt ướt trên 1m
2
vào mùa khô. Điều đó có
nghĩa là với diện tích sàn sấy là 2x2 m
2
thì năng suất sấy là 400kg hạt ướt trong 4 - 5 ngày.
Như vậy với sự cải thiện rất lớn về năng suất sấy của các hộ nông dân trong quá trình sơ chế
ca cao thì phần kinh phí đầu tư này cũng hợp lý. Phần này sẽ được trình bày chi tiết hơn trong
phần báo cáo về kết quả khảo sát nông hộ đính kèm.

Các công việc đã thực hiện cho thấy các kỹ thuật như trữ trái, trả
i/ phơi hạt trước khi cho vào
thùng lên men và rửa hạt lên men trước khi sấy có thể cải thiện được chất lượng của ca cao.
Tất cả các kỹ thuật này có thể được thực hiện một cách dễ dàng bởi các hộ nông dân và được
trình bày chi tiết hơn trong quyển sổ tay như là phần đính kém của điểm mốc thực hiện 5.
7.2 Các chọn lựa
Tất cả các qui trình nói trên hiện tại đ
ã được kiểm tra một cách thích đáng và được đề cập
trong quyển sổ tay của nông dân.
7.3 Tính bền vững
Các thử nghiệm đã được tiến hành tại Cần Thơ cùng với sự huấn luyện chuyên môn để phân
tích hạt ca cao khô bởi đội ngũ các cán bộ thường xuyên từ CTU, NLU và WASI mang ý
nghĩa dự án có tính bền vững ở cấp độ cao.

Cùng với khóa tập huấn đánh giá chất lượng cả
m quan ở Brisbane, phân phát thiết bị, và các
huấn luyện tiếp theo của đối tác Úc, điều đó có nghĩa là chương trình sẽ có tính bền vững.
12
8. Các bước chính tiếp theo

Các bước chính tiếp theo là mỗi một mục nhỏ trong bảng liệt kê hoạt động của đề tài:
Mục tiêu 7: Xác nhận các lợi ích của các nông hộ nhỏ.
Các dữ liệu cần thiết từ cuộc khảo sát nông hộ lần đầu vào năm 2006 và tiếp theo sau đó vào
năm 2007 đã được thu thập và báo cáo đã được hoàn thành một cách nhanh chóng.
Mục tiêu 15, 16, 17 và 18: Báo cáo hoàn chỉnh dự án.
Hoạt động 15.1: Các kết quả đ
ã được thiết lập cho hội thảo tổng kết dự án và báo cáo tổng
kết của dự án.
Hoạt động 16.1: Đánh giá cuối cùng về các thử nghiệm và các hoạt động được trình bày ở
hội thảo tổng kết dự án vào tháng 12/2008.
Hoạt động 17.1: Trình bày các kết quả của dự án đạt được tại hội thảo tổng kết dự án của
ĐH Cần Thơ, Đ
H Nông Lâm, WASI, SUCCESS và các tổ chức có liên quan khác.
Các hoạt động 15.1, 16.1 và 17.1, việc tiến hành các thử nghiệm và trình bày kết quả đã được
hoàn thành nhưng chậm so với kế hoạch của dự án. Do sự chậm trễ trong việc thực hiện các
điểm mốc của dự án và việc chi trả kinh phí nên hội thảo tổng kết dự án đã không thực hiện
trước ngày kết thúc dự án. Nếu không tìm cách để phân phát nguồn quỹ để thự
c hiện hội thảo
tổng kết trước ngày 30 tháng 6 thì hoạt động 17.1 không thể thực hiện.
Hoạt động 18.1: Viết báo cáo dự án hoàn chỉnh và các khuyến cáo cuối cùng.
Hoạt động này sẽ được hoàn thành vào tháng 12/2008.
9. Kết luận
Tổng hợp các thử nghiệm lên men bị chậm trễ so với kế hoạch là do nhiều nguyên nhân,
trong đó có một số thử nghiệm cần phải lặp lại tại Đắc Lắc và Đồng bằng Sông Cửu Long và
bị chậm trễ trong việc tiến hành đánh giá cảm quan. Việc thực hiện các thử nghiệm lên men
bị chậm trễ bởi vì ca cao là loại cây trồng có tính chất mùa vụ và không có đủ được lượ
ng trái
cần thiết ở tất cả các thời gian trong năm. Cụ thể cho điều này là trong thử nghiệm cuối cùng
của dự án được thực hiện tại ĐH Nông Lâm vào tháng 12/2007 phải cần có ca cao được vận
chuyển về từ tỉnh Đắc Lắc. Mất nhiều tháng để đợi có đủ được lượng trái chín cần thiết tại

ĐH Nông Lâm. Tuy nhiên, kết quả từ các thử nghiệm này cho thấy đượ
c nhiều khuyến cáo
có liên quan đến qui trình lên men mà nó chứng tỏ được tác dụng tốt đến chất lượng của ca
cao và có thể được thực hiện dễ dàng bởi các hộ nông dân.
Các khuyến cáo có hiệu quả đã được thực hiện nhưng điều này đã làm chậm trễ trong việc
tổng kết các thử nghiệm lên men và kết quả là làm chậm trễ trong việc hoàn chỉnh các tài liệu
khuyến nông. Do đó dẫn đế
n việc chậm trễ trong việc cung cấp thông tin đến các nông hộ và
các cán bộ chuyên môn ở các Sở Nông nghiệp và Phát trển nông thôn và Sở Khoa học và
Công nghệ. Kết quả là cũng bị chậm trễ trong việc sử dụng các khuyến cáo trong các thử
nghiệm trên đồng và sự đánh giá các tác động của chúng đến tập quán sản xuất của nông dân.
Các hoạt động của dự án, đặc biệt là các thử nghiệm trên đồng, việc kiểm soát các k
ỹ thuật và
việc đánh giá sự thích hợp của các khuyến cáo đến chất lượng ca cao gặp khó khăn do ở Cần
Thơ, nơi đặt cơ quan chủ trì của dự án, chỉ có duy nhất một hộ nông dân có trồng ca cao một
cách đáng kể. Địa phương gần nhất có diện tích trồng ca cao đáng kể với lượng lớn hộ nông
dân cũng cách Cần Thơ đến 80km. Điều này thì đố
i tác phía Úc không được biết trước đó khi
13
viết dự án nên đã không tính đến thời gian và chi phí cho các cán bộ để kiểm soát các thử
nghiệm trên đồng, các kỹ thuật của nông hộ và thu thập mẫu.
Hiện tại thấy rằng hội thảo tổng kết các kết quả đạt được đến nay sẽ được tổ chức sau thời
gian kết thúc dự án.

×