Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " TỔNG KẾT LẠI QUÁ TRÌNH SINH TRƯỞNG VÀ THÍCH NGHI CỦA CÁC LOÀI THÔNG CARIBAEA Ở VIỆT NAM " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.44 KB, 20 trang )

TỔNG KẾT LẠI QUÁ TRÌNH SINH TRƯỞNG VÀ THÍCH NGHI CỦA CÁC LOÀI
THÔNG CARIBAEA Ở VIỆT NAM

Mark J. Dieters
1
, Hà Huy Thịnh
2
,

Phan Thanh Hương
2
, and Huỳnh Đức Nhân
3


Tháng 10 2006

Báo cáo là một phần của Dự án CARD 033/05VIE: Khảo nghiệm, đánh giá và áp dụng
công nghệ nhân giống tiên tiến cho việc phát triển rừng trồng thông caribeae và thông lai
có giá trị kinh tế cao tại Việt Nam.(Đầu ra 1.1 của Dự án)

Tóm tắt

Thông caribaea (Pinus caribaea) được trồng ở Việt Nam từ năm 1963. Từ đó đến nay, loài
thông này đã được đánh giá trên hầu hết các khu vực có tiềm năng trồng Thông ở Việt
Nam. Như một phần của Dự án CARD 033/05 VIE, nhiều trong số các khảo nghiệm có sự
tham gia của thông caribaes đã được kiểm tra và các khảo nghiệm quan trọng đã được đo
lại vào đầu năm 2006. Báo cáo này tóm lược lại khả năng sinh trưởng của P. caribaea tại
các khảo nghiệm được xây dựng từ năm 1976 của Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy
Phù Ninh và Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng Hà Nội.


Số liệu được đối chiếu từ nhiều nguồn khác nhau và số liệu mới thu thập được phân tích
theo cách cho phép so sánh được trực tiếp với kết quả các khảo nghiệm trước đây. Số liệu
của các khảo nghiệm trên 25 năm được lấy từ 17 khảo nghiệm được trồng trên các điểm
thuộc 4 vùng sinh thái chính của Việt Nam, nơi có triển vọng nhất cho việc xây dựng rừng
trồng thông – đó là vùng Bắc bộ, Trung bộ, Tây nguyên và Đông nam bộ. Kết quả của các
khảo nghiệm này thể hiện rõ ràng khả năng sinh trưởng vượt trội của thông caribaea
(P. caribaea) so với Thông ba lá (P. kesiya), Thông nhựa (P. merkusii) và Thông đuôi
ngựa (P. massoniana).

Thông caribaea biến chủng hondurensis (P. caribaea var. hondurensis) (gọi tắt là PCH) thể
hiện khả năng thich nghi tốt trên một loạt các khảo nghiệm từ Bắc đến Nam Việt Nam,
trong số các xuất xứ được đánh giá đã quan sát thấy sự sai khác giữa các xuất xứ khá ít.
Tuy nhiên, nó thể hiện rằng các xuất xứ của chủng hondurensis được trồng ở Việt Nam
chắc chắn đã được chọn dựa trên các kết quả đánh giá của các khảo nghiệm xuất xứ của
nước ngoài; tất cả các xuất xứ đã trồng đều đã được xếp loại tốt trong loạt khảo nghiệm
xuất xứ của Oxford và/hay CAMCORE. Chỉ một số ít mô hình của Thông caribaea biến
chủng Bahamas (i.e. P. caribaea var. bahamensis, P
CB) được đánh giá; tuy nhiên, các khảo
nghiệm được trồng ở miền Bắc Việt Nam, sinh trưởng của P
CB là luôn tốt so với PCH hay
các loài khác. Hơn nữa, chúng luôn cho hình dáng thân đẹp và tính kháng sâu bệnh hại tốt
hơn so với PCH. Tình hình sinh trưởng của giống Thông caribaea thứ ba là (P. caribaea
var. caribaea, PCC có nguồn gốc từ Cuba) là rất kém so với PCH và các loài thông địa
phương. Một đề xuất cho các hoạt động chọn tạo giống và cải thiện giống trong tương lai
nên tập trung vào PCH và PCB cho các tỉnh miền Bắc Việt Nam, và PCH cho các tỉnh miền
Trung và Nam Việt Nam. Việc phát triển và khảo nghiệm các giống thông lai xem ra khá
khó khăn, nên chỉ được xem như là sự ưu tiên nghiên cứu thứ hai.

1
Khoa khoa học đất và lương thực, Trường Đại học Queensland, St Lucia Queensland 4072, Australia.

2
Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà
Nội.
3
Viện nghiên cứu cây nghiên liệu giấy Phù Ninh, Phú Thọ, Việt Nam.

1
Bối cảnh

Pinus caribaea Morelet, đặc biệt là P. caribaea Morlet var. hondurensis (Sénéclauze)
W.H. Barrett & Golfari (PCH) đã chứng tỏ khả năng sinh trưởng nhanh và thích nghi tốt với
vùng sinh thái rộng nhiệt đới và bán nhiệt đới (Gibson 1982, Birks và Barnes 1990, Dvorak
và cs. 2000). Hai biến chủng khác của P. caribaea (như var. bahamensis (PCB) và var.
caribaea (PCC)) cũng chứng tỏ được tiềm năng trên các rừng trồng thương mại ở một số
vùng trên thế giới và hầu hết các giống này đều thể hiện khả năng chống chịu với một số
loài sâu bệnh hại (Baylis and Barnes 1989, Khả và cs. 1989) và khả năng chịu được sự tàn
phá của gió tốt hơn các giống (PCH) vùng Trung Mỹ (Birks & Barnes 1990, Dieters &
Nikles 2001). Hơn nữa, PCB đã chứng tỏ được khả năng chống chịu với điều kiện nhiệt độ
thấp tốt hơn hoặc PCC hoặc PCH (Nikles 1966 p. 103, Duncan và cs. 1996), điều này là khá
ngạc nhiên khi mà phân bố tự nhiên của nó ở độ cao thấp dọc vùng Bahama và quần đảo
Caicos. PCH đã được trồng thành rừng nhiều nhất với diện tích lớn ở Venezuela và
Queensland Australia, trong khi đó một diện tích đáng kể PCC đã được trồng ở các vùng
miền Nam Trung Quốc (Dieters & Nikles 1997).

P. caribaea được trồng đầu tiên tại Đà Lạt vào năm 1963 (Khả 2003, trang 181) theo cách
để thăm dò tiềm năng của loài này dưới dạng rừng trồng thương mại nhằm luân phiên với
các loài cây lá kim bản địa như Thông nhựa (P. merkusii) và Thông ba lá (P. kesiya). Các
khu trồng ban đầu đã chứng tỏ được tiềm năng của P. caribaea ở Việt Nam dẫn tới việc
xây dựng một mạng lưới các khảo nghiệm từ năm 1976 đến đầu những năm 1980 để có
được sự đánh giá chi tiết hơn về sinh trưởng và tìm kiếm nguồn biến dị xuất xứ. Trong các

loài Thông được trồng ở Việt Nam, Thông caribaea đã chứng tỏ được khả năng vượt trội
của mình về cả khả năng thích nghi và tỷ lệ sinh trưởng, cũng như có hình dáng thân và
đặc điểm cành nhánh đẹp hơn Thông ba lá (P. kesiya), Thông đuôi ngựa (P. massoniana)
hay Thông nhựa (P. merkusii) (Lê Đình Khả) và nó được xem như là một trong số loài
thông có triển vọng nhất cho trồng rừng thông ở Việt Nam (Khả và cs. 2002). Do khả năng
thích nghi, sinh trưởng và hình dáng thân tuyệt vời của nó, P. caribaea đã được mong chờ
là loài cây trồng rừng luân phiên với các loài Keo (Acacia sp.) và Bạch đàn (Eucalyptus
sp.) trên vùng đồi thoái hoá và các vùng đất cằn cỗi của Việt Nam, tạo ra nguồn nguyên
liệu bột giấy sợi dài cho sản xuất giấy cũng như gỗ xẻ chất lượng cao cho xây dựng và đồ
gỗ dân dụng. Một loạt các khảo nghiệm gần đây được trồng để đánh giá những tác động
của việc quản lý tập trung cho năng suất của P. caribaea với nỗ lực để đạt tối đa năng suất
trên các khu rừng trồng.

Báo cáo này tóm lược lại các kết quả của các khảo nghiệm có sự tham gia của P. caribaea
được xây dựng từ năm 1976 tại 4 vùng sinh thái chính của Việt Nam (miền Bắc Việt Nam
từ Hà Nội, mở rộng sang khu vực biên giới Trung Quốc; các điểm độ cao thấp ở miền
Trung Việt Nam đến Tây Nguyên và miền Nam Việt Nam (khu phụ cận với TP. Hồ Chí
Minh) trên các loại lập địa được tin là phù hợp với việc trồng rừng thông (Bảng 1; Bản đồ
1). Số liệu tóm tắt được lấy từ các khảo nghiệm được trồng bởi Viện nghiên cứu cây
nguyên liệu giấy Phù Ninh (FRC)
4
và Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (RCFTI)
5
.

Báo cáo này nhằm: tóm lược lại tất cả các thông tin (phù hợp) sẵn có về sinh trưởng của P.
caribaea ở Việt Nam; đưa ra các ý kiến đề xuất liên quan đến khả năng thích nghi của các
giống P. caribaea trên mỗi vùng sinh thái chính của Việt Nam; và xác định các tổ hợp
thông lai có thể trồng thành công ở Việt Nam.




4
Các khảo nghiệm được trồng tại 4 điểm của vùng miền Bắc Việt Nam vào năm 1976.
5
Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam (FSIV) ở Hà Nội, và các đơn vị hợp tác ở các tỉnh khác của Việt Nam

2
Bảng 1: Vùng và chi tiết địa lý của các khảo nghiệm P. caribaea được trồng ở Việt Nam
Địa điểm trồng Tỉnh Vĩ độ Kinh độ Độ cao
(m)
Lượng mưa
(mm)
Vùng
Thái Long Tuyên Quang 21° 45'N 105° 14'E 60-90 1600 Bắc bộ
Yên Kiện Phú Thọ 21° 35'N 105° 12'E 60-80 1600 Bắc bộ
Sơn Nam Tuyên Quang 21° 33'N 105° 27'E 60-120 1600 Bắc bộ
Đền Hùng Phú Thọ 21° 22'N 105° 20'E 50 1600 Bắc bộ
Đải Lại Vĩnh Phúc 21° 10'N 105° 17'E 50 1500 Bắc bộ
Ba Vì Hà Tây 21° 07'N 105° 26'E 50 1680 Bắc bộ
Đông Hà Quảng Trị 16° 50'N 107° 05'E 50 2370 Trung bộ
Pleiku Gia Lai 13° 59'N 108° 00'E 800 2270 Tây Nguyên
Đà Lạt Lâm Đồng 11° 57'N 108° 26'E 1500 1730 Tây Nguyên

Lang Hanh Lâm Đồng 11° 57'N 108° 26'E 960 1730 Tây Nguyên
Song Mây Đồng Nai 11° 15'N 107° 06'E 40-60 1640 Đông Nam bộ
(gần TP.HCM)
Chú ý: Độ cao so với mặt biển là con số xấp xỉ.





Bản đồ 1: Nơi các khảo nghiệm trồng P. caribaea ở Việt Nam


3

4
Các khảo nghiệm Thông caribaea ở Việt Nam

Số liệu tóm tắt (giá trị trung bình các điểm) được giới thiệu cho tổng số 17 khảo nghiệm
được xây dựng giữa năm 1976 và 2001 (Bảng 2). Số liệu được đối chiếu từ các khảo
nghiệm P. caribaea sẵn có, nhiều trong số chúng đã được kiểm tra lại bởi các cán bộ Dự án
của cả Việt Nam và Queensland, và số liệu bổ sung đã được thu thập từ: a) một số các
khảo nghiệm cũ được xem như vẫn có giá trị để cung cấp dữ liệu luân kỳ sau cho bản tổng
kết này; và b) các khảo nghiệm loài/ xuất xứ/ quản lý lâm sinh được xây dựng từ năm 2000
(Bảng 2)

Tuân thủ theo những đánh giá giai đoạn trước, tất cả số liệu được thu thập năm 2006 đều
được phân tích theo cơ sở giá trị trung bình mỗi ô, và thể tích thân cây được tính theo công
thứ sau:
fht
dbh
Vol ××







=
2
2
π
,

Trong đó, đường kính ngang ngực (dbh) và chiều cao vút ngọn (ht) đều được quy đổi ra
dm, và hệ số hình dạng (f) được giả định bằng 0.5. Dựa trên kinh nghiệm ở Queensland,
việc sử dụng công thức tính thể tích này sẽ vượt quá giá trị thể tích thực. Do đó, số liệu thể
tích hiện tại nên được xử lý cẩn thận. Tuy nhiên, vì tất cả số liệu từ trước đã sử dụng hệ số
hình dạng 0.5 này nên số liệu mới vẫn phải tiếp tục để có thể so sánh giữa các khảo
nghiệm. Thể tích cây cá thể được cộng giá trị trong mỗi ô, và được chia cho diện tích ô và
tuổi để đánh giá lượng tăng trưởng trung bình hàng năm được thể hiện bằng m
3
/ ha/ năm.

Các khảo nghiệm cũ (ví dụ như khảo nghiệm được trồng trước năm 1985) bao gồm cả các
loài thông khác như P. kesiya, P. merkusii và P. massoniana để so sánh (Bảng 2). Tại thời
điểm đó các loài này đã được sử dụng trên hầu hết các khu rừng trồng ở Việt Nam - P.
massoniana ở miền Bắc Việt Nam, và P. kesiya và P. merkusii ở miền Trung và miền Nam
Việt Nam. Kết quả so sánh giữa các khảo nghiệm loài này đã được báo cáo bởi một số tác
giả (Ståhl 1988, Điện 1989 and Khả 2003, trang 182) và kết luận chung là P. caribaea sinh
trưởng nhanh hơn các loài thông khác trên một loạt các khảo nghiệm ở Việt Nam. Chẳng
hạn như, Điện (1989, p.64) kết luận rằng “Pinus caribaea sinh trưởng nhanh hơn các loài
thông khác ở tất cả các điểm khảo nghiệm”. Tuy nhiên, số liệu về sinh trưởng của các loài
thông khác trên các khảo nghiệm ban đầu năm 1976) được trồng bởi FRC chưa được bao
gồm ở đây – chi tiết đầy đủ về sinh trưởng của tất cả các loài trong các khảo nghiệm này
đã được giới thiệu trong báo cáo đầy đủ của Ståhl’s (1988). Báo cáo này sẽ tập chung vào
đánh giá tình hình sinh trưởng liên quan tới 3 loài thông caribaea và biến dị xuất xứ trong
các loài này.




5
Table 2: Danh sách các khảo nghiệm được sử dụng để xem xét lại khả năng sinh trưởng của P. caribaea ở Việt Nam.
Đo lần cuối
TT Vùng Địa điểm Loại khảo nghiệm Loài/ nhóm loài
Năm
trồng
Số công
thức
Số
cây/ô
Số
lặp
Khoảng
cách trồng
Ngày tháng
Tuổi
(năm)
1 Bắc bộ Đền Hùng - Phú Thọ KN loài và xuất xứ PCH, PMERK, POOC,
PKES
1976 7 49 5 3×3 1984 8
2 Bắc bộ Sơn Nam-Tuyên Quang KN loài và xuất xứ PCH, PMERK, POOC,
PKES
1976 6 49 5 3×3 2002 25
3 Bắc bộ
Thái Long- Tuyên Quang KN loài và xuất xứ PCH, PMERK, POOC,
PKES
1976 6 49 5 3×3 — —

4 Bắc bộ Yên Kiện - Phú Thọ KN loài và xuất xứ PCH, PMERK, POOC,
PKES
1976 6 49 5 3×3 1984 8
5 Trung bộ Đông Hà – Quảng Trị KN loài và xuất xứ PMERK, PCC, PEE 1980 5 4 T5/ 2000 19.3
6 Bắc bộ Đại Lải - Vĩnh Phúc KN loài và xuất xứ PCH, PCC, PMASS,
PMERK, POOC, PEE
1981 12 49 4 3×2 T3/2000 19.1
7 Bắc bộ
Đại Lải - Vĩnh Phúc KN loài và xuất xứ PCH, PCC, POOC, PEE 1982 9 36 4 3×2 T1/2000 17.8
8 Trung bộ Đông Hà – Quảng Tri KN loài P
CH, PMERK 1984 2 1 T3/2000 15.7
9 Đông Nam bộ Song Mây – Đồng Nai KN xuất xứ P
CH 1987 7 49 7 3×2 T4/2006 18.8
10 Bắc bộ Đại Lải - Vĩnh Phúc KN xuất xứ
PCH 1987 7 36 5 3×2 T1/2000 12.4
11 Trung bộ Đông Hà – Quảng Trị KN xuất xứ
PCH 1988 6 3 T3/2000 11.4
12 Tây Nguyên Pleiku - Gia Lai KN xuất xứ
PCH, PCB, PCC 1990 11 49 4 3×2 T5/2006 16
13 Bắc bộ Xuân Khanh - Hà Tây KN xuất xứ
PCH, PCB, PCC 1990 10 49 3 3×2 T3/2000 9.5
14 Tây Nguyên Lang Hanh - Lâm Đồng KN xuất xứ
PCH, PCC 1991 7 25 4 3×2 T3/2000 8.7
15 Bắc bộ
Cẩm Quỳ - Hà Tây KN so sánh nhóm loài PCB, PCC, PCH, PEE,
PEE × PCH F
2
1996 5 36 4 3×3 T9/2006 10.4
16 Bắc bộ
Cẩm Quỳ - Hà Tây KN lâm sinh PCB, PCH × fertilizer 2000 3 15 4 3×3 T4/2006 5.8

17 Tây Nguyên
Lang Hanh – Lâm Đồng KN loài và xuất xứ PCC, PCH, PEE 2001 6 30 4 3×2 T5/2006 4.8
18 Tây Nguyên
Lang Hanh – Lâm Đồng KN lâm sinh PCC, PCH × fertilizer 2001 3 30 3 3×2 T5/2006 4.8

Loài\ nhóm loài: PCB = P. caribaea var. bahamensis, PCC = P. caribaea var. caribaea, PCH = P. caribaea var. hondurensis, PEE = P. elliottii, PKES = P. kesiya, PMASS =
P. massoniana, P
MERK = P. merkusii, POOC = P. oocarpa.
Sinh trưởng và tỷ lệ sống

Các kết quả được trình bày ở đây là sự tập hợp các số liệu từ các khảo nghiệm được trồng
trên 25 năm của Việt Nam, được xây dựng theo một loạt các mục tiêu. Các khảo nghiệm
giai đoạn đầu nhằm đánh giá sinh trưởng của P. caribaea so sánh với các loài thông địa
phương (P. kesiya, P. merkusii, và P. massoniana). Sau đó, chuyển sang đánh giá biến dị
xuất xứ trong loài P. caribaea, và cuối cùng là điều tra đánh giá tiền năng sinh trưởng của
P. caribaea thông qua việc sử dụng phân bón. Nhưng do thời gian quá dài nên kết quả đã
bị thất bại bởi tỷ lệ sống thấp (thường dưới 50%) ở nhiều khảo nghiệm do một số nguyên
nhân: khai thác trộm, cháy rừng và cả áp dụng biện pháp lâm sinh không thích hợp. Mức
độ sai khác cả trong và giữa các khảo nghiệm chắc chắn dựa theo sự đánh giá của đường
kính và thể tích của các nhóm loài ở giai đoạn muộn hơn, do đó số liệu chiều cao có thể là
tính trạng đáng tin cậy nhất để so sánh giữa các loài. Hơn nữa, công thức tính thể tích chưa
đáng tin cậy để so sánh sự sai khác về thể tích giữa các loài hay giữa các giống thông
caribaea ở Việt Nam, do đó sự sai khác về độ thon của thân và độ dày vỏ sẽ có nhiều biến
đổi trong loài và nhóm loài. Vì chưa có công thức tính thể tích đáng tin cậy cho thông
caribaea ở Việt Nam, nên việc tính toán năng suất nên chỉ được xem như là con số tương
đối.
Các khảo nghiệm của FRC, Phù Ninh trồng năm 1976:
4 khảo nghiệm được trồng bởi FRC từ năm 1976 ở miền Bắc Việt Nam (Bảng 2, Khảo
nghiệm 1 – 4) để đánh giá sự sai khác giữa các loài và biến dị xuất xứ bên trong loài. Các
khảo nghiệm này bao gồm tất cả 3 biến chủng của P. caribaea (4 xuất xứ của PCH, và 1

của PCB và PCC, Bảng 3; tuy nhiên, xuất xứ thứ 5 của PCH (Alimicamba) có ở 1 điểm
nhưng không có số liệu cho xuất xứ này). Khảo nghiệm được trồng ở Thái Long đã bị hư
hại nhiều do cháy rừng vào năm 1977 khi khảo nghiệm này mới chỉ gần 2 năm tuổi, dẫn
đến chết khá nhiều, do đó không có kết quả cho khảo nghiệm này. Số liệu được trình bày
cho 3 khảo nghiệm còn lại ở giai đoạn 8 tuổi (Bảng 4) và Sơn Nam ở giai đoạn 25 tuổi
(Bảng 5)

Bảng 3: Xuất xứ của P. caribaea được trồng bởi FRC.
Mã Xuất xứ Kinh độ Vĩ độ Độ cao (m)
202 Poptún, Penten, Guatemala
(var. hondurensis)
16°22' N
89°25' W 500
203 Guanaja Island, Honduras (var.
hondurensis)
16°27' N 85°54' W 75
204 Andros Island, Bahamas
(var. bahamensis)
24°30' N 78°20' W 3
205 Cajalbana, Cuba
(var. caribaea)
20°30' N 81°31' W 150
206 Mountain Pine Ridge, Belize
(var. hondurensis)
17°00' N 88°55' W 400
207 Poptún, Penten, Guatemala
(var. hondurensis)
16°15' N 89°30' W 250

Kết quả chỉ ra rằng khi một loài như P. caribaea có khả năng sinh trưởng khá ở vùng miền

Bắc Việt Nam với xuất xứ tốt nhất (Mountain Pine Ridge, 206) có thể đạt độ cao gần 20m
ở giai đoạn 25 năm tuổi trên lập địa Sơn Nam. Những kết quả được quan sát ở đây chỉ ra
mức độ sai khác về khả năng sinh trưởng giữa các xuất xứ của PCH là khá nhỏ, song PCC
(205) lại sinh trưởng khá chậm so với hoặc là PCB hoặc PCH, và được xem như không phù
hợp với lập địa miền Bắc Việt Nam. Trái lại PCB có sinh trưởng chiều cao nhanh nhất ở

6
giai đoạn 8 năm tuổi (Bảng 4) và nằm trong nhóm thứ 2 chỉ sau xuất xứ Mountain Pine
Ridge của PCH ở giai đoạn 25 năm tuổi (Bảng 5). Trong số các xuất xứ PCH được khảo
nghiệm, thì nhóm xuất xứ vùng cao Poptún và Mountain Pine Ridge chứng tỏ khả năng
sinh trưởng tốt hơn xuất xứ Guanaja.

Bảng 4: Chiều cao và thể tích cây trung bình của P. caribaea ở giai đoạn 8 tuổi (1984)
tại các khảo nghiệm của FRC (khảo nghiệm 1 – 4 trong Bảng 2).
Đền Hùng Sơn Nam Yên Kiện

Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Chiều cao
(m)

Thể tích
(dm
3
/tree)
202 6.1 66 8.6 207 8.9 201
203 5.4 56 8.2 188 9.1 164
204 6.9 65 9.4 184 9.6 213
205 6.5 65 6.4 112 9.0 173
206 5.9 56 8.7 216 9.2 200
207 6.1 68 8.5 206 9.0 193
LSD — — 1.16 47.6 0.75 41.7
Chú ý: Mã 204 = PCB, 205 = PCC, các mã khác là PCH.

Bảng 5: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình của P. caribaea ở giai đoạn 25 tuổi
trồng năm 2002 tại Sơn Nam (khảo nghiệm 2 trong Bảng 2).

Đường kính
(cm)
Chiều
cao (m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tăng trưởng thể
tích (m
3
/ha)
Số cây sống/ha
(tree/ha)

202 26.5 18.3 505 382 755
203 27.5 17.8 489 245 489
204 24.7 18.5 511 216 511
205 25.5 15.8 422 163 422
206 28.7 19.7 522 323 522
207 27.3 19.5 455 258 455
Chú ý: Mã 204 = PCB, 205 = PCC, các mã khác là PCH.

Trong báo cáo của Ståhl’s (1988), ông đã nhấn mạnh một vấn đề mà không được phản ánh
trong số liệu đưa ra ở trên – “sự sai khác rất lớn về hình dáng thân và thót ngọn giữa các
xuất xứ chủ yếu từ vùng Bahamas và các xuất xứ thuộc biến chủng hondurensis giống của
Cuba là trung gian”. Nhìn chung P
CB có thân thẳng hơn, ít thót ngọn hơn PCH ở tất cả các
khảo nghiệm (như báo cáo của Ståhl, 1988), cũng như ở Queensland và một số nơi khác
trên thế giới. Một điều chắc chắn rằng PCB có độ dày vỏ mỏng hơn PCH. Khi những đặc
tính (hình dáng thân đẹp, ít thót ngọn và vỏ mỏng hơn) kết hợp với nhau thì chắc chắn PCB
có thể cho lượng sinh khối có khả năng sử dụng lớn hơn PCH khi được trồng ở các tỉnh
miền Bắc Việt Nam. Hơn nữa, PCB vẫn được biết về khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh
hại có thể cũng là một ưu thế hơn PCH trên một số khảo nghiệm ở các tỉnh miền Bắc Việt
Nam.

Loài và xuất xứ trong các khảo nghiệm loài được trồng từ năm 1980 – 1984:

Vào đầu những năm 1980, 4 khảo nghiệm loài và xuất xứ đã được trồng bởi RCFTI và các
đơn vị hợp tác khác – 2 khảo nghiệm ở miền Bắc Việt Nam (tạo Đại Lải) và 2 ở miềm
Trung (tại Đông Hà) (Bảng 2, khảo nghiệm 5 -8)

Trong 2 khảo nghiệm được xây dựng tại Đông Hà, mặc dù khảo nghiệm đầu tiên không bố
trí lặp, sinh trưởng của P. elliottii chỉ bằng khoảng một nửa P. merkusii (Bảng 6) ở giai


7
đoạn 19 tuổi. Ở miền Trung Việt Nam, P. elliottii thể hiện khả năng thích nghi kém. Khảo
nghiệm không có lần lặp tại Đông Hà chỉ gồm giống (PCC) của Cuba sinh trưởng chậm và
cũng không có xuất xứ tốt nhất của P. merkusii. Khảo nghiệm thứ 2 tại Đông Hà (Bảng 7)
chỉ gồm PCH và P. merkusii, trong đó PCH có sinh trưởng chiều cao và thể tích lớn hơn
P. merkusii, nhưng đường kính lại nhỏ hơn ở giai đoạn 15 năm tuổi. Một chiều hướng
tương tự cũng quan sát thấy ở khảo nghiệm không có lần lặp giai đoạn sớm hơn (Bảng 6)
nơi mà PCC có sinh trưởng chiều cao tốt hơn xuất xứ tốt nhất của P. merkusii nhưng đường
kính lại nhỏ hơn.

Bảng 6: Sinh trưởng trung bình giai đoạn 19 tuổi của khảo nghiệm loài/ xuất xứ
trồng tại Đông Hà năm 1980 (khảo nghiệm 5 trong Bảng 2).
Loài Xuất xứ/ nguồn gốc
Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
P. merkusii Huế 20.8 9.9 167.4
P. merkusii Bố Trạch, Quảng Bình 20.3 9.3 149.6
P. merkusii Bắc Thái 19.9 8.9 138.0
P. caribaea var. caribaea Cuba 17.7 11.4 139.6
P. merkusii Đà Lạt 14.5 6.8 64.5
P. merkusii Hà Trung - Thanh Hóa 15.1 9.3 83.2
P. elliotii USA 9.5 5.6 19.8
Chú ý: Khảo nghiệm này chỉ có một lặp cho mỗi loài/ xuất xứ


Trong khảo nghiệm đầu tiên của 2 khảo nghiệm được xây dựng ở Đại Lải miền Bắc Việt
Nam, xuất xứ Honduras của PCH có sinh trưởng chiều cao vượt trội hơn hẳn tất cả các loài
khác; tuy nhiên, tỷ lệ sống lại rất kém (Bảng 8). Thông đuôi ngựa (P. massonianna) là
nhóm thứ 2 sau PCH, tiếp đến là P. oocarpa
6
và PCC. Sinh trưởng của P. elliottii ở đây khá
hơn ở Đông Hà (Bảng 6) nhưng vẫn kém so với PCH, PCC và P. massoniana. Thông nhựa
(P. merkusii) được coi là cây lá kim bản địa đã không sinh trưởng tốt hơn so với P.
caribaea hay P. massoniana ở Đại Lải, với sinh trưởng chiều cao về căn bản là thấp hơn
(Bảng 8).

Khảo nghiệm cuối cùng của bộ 4 khảo nghiệm này không có bât kỳ một loài thông địa
phương nào – chỉ có những loài từ Americas (Bảng 9). Một lần nữa xuất xứ Honduras của
PCH lại có sinh trưởng chiều cao vượt trội hơn so với các xuất xứ khác và tương đương với
P. oocarpa, song vượt rõ ràng so với PCC và P. elliottii.

Kết luận này chứng tỏ rằng PCH chắc chắn sinh trưởng vượt trội cả về chiều cao và đường
kính so với P. merkusii và P. massoniana ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam, và vượt hơn về
sinh trưởng chiều cao so với P. merkusii của miền Trung Việt Nam. PCC có sinh trưởng
kém hơn so với các loài thông địa phương và PCH trên tất cả các điểm khảo nghiệm ở miền
Bắc và miền Trung Việt Nam. P. elliottii có khả năng thích nghi kém trên các điểm khảo
nghiệm ở miền Trung.

Bảng 7: Sinh trưởng trung bình giai đoạn 15.6 năm tuổi của khảo nghiệm loài trồng tại
Đông Hà năm 1984 (khảo nghiệm 8 trong Bảng 2).
Loài
Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)

Thể tích
(dm
3
/tree)
P. caribaea var. hondurensis 19.1 14.1 201.7
P. merkusii 21.3 10.1 180.0

6
Có khả năng là P. tecunumanii – P. tecunumanii đã không được phânloại rõ ràng từ P. oocarpa cho đến
sau khi khảo nghiệm này được xây dựng.

8
Bảng 8: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 19 tuổi của khảo nghiệm
loài/xuất xứ trồng tại Đại Lải năm 1981 (Khảo nghiệm 6 trong Bảng 2).
Loài Nguồn gốc
Đường kính
(cm)
Chiều
cao (m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tỷ lệ sống
(%)
P. caribaea var. hondurensis Honduras 26.5 18.2 516.5 29
P. massoniana Tam Đảo 25.6 16.4 436.5 20
P. oocarpa Mexico 25.5 16.6 431.5 24
P. massoniana China 23.9 16.2 368.5 21
P. massoniana

Yên Lập -
Quảng Ninh
22.8 16.3 344.5 29
P. caribaea var. caribaea Cuba 22.4 16.5 350.5 24
P. massoniana
Lộc Bình –
Lạng Sơn
22.2 16.7 342.0 27
P. merkusii Thanh Hóa 21.3 11.0 205.0 31
P. merkusii Huế 20.5 10.9 189.5 23
P. elliotii USA 20.2 14.4 252.0 22
P. merkusii Đà Lạt 18.4 9.7 148.0 14
Giá trị trung bình chung
22.7 14.8 23.8
Chú ý: Kết quả này đã được báo cáo bởi GS Khả (2003, Bảng 7.6, trang 182)

Table 9: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 17,8 tuổi của khảo nghiệm
loài/xuất xứ trồng tại Đại Lải năm 1982 (Khảo nghiệm 7 trong Bảng 2).
Loài
Xuất xứ/ nguồn
gốc
Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tỷ lệ sống

(%)
P. caribaea var. hondurensis Honduras 16545 23.2 17.1 392 15
P. caribaea var. hondurensis Poptun 23.7 15.4 385 22
P. oocarpa Guatemala 14781 23.7 15.4 354 22
P. caribaea var. hondurensis Krâ 22.2 15.8 325 19
P. oocarpa Mexico 22.1 15.2 313 17
P. caribaea var. caribaea Cuba 20.3 14.9 247 25
P. caribaea var. caribaea Krâ 157619 19.9 14.6 233 26
P. elliotii PAM 19.8 14 202 17
P. elliotii USA16519 18.9 13.6 227 16
Giá trị trung bình chung
21.6 15.1 20

Khảo nghiệm xuất xứ của P. caribaea được xây dựng giữa năm 1987 và 1991
Trong giai đoạn 5 năm từ 1987 đến 1991, RCFTI và các đơn vị công tác khác đã xây dựng
6 khảo nghiệm xuất xứ của P. caribaea: 2 ở miền Bắc, 1 ở miền Trung; 2 ở Tây Nguyên và
1 ở miền Nam, Việt Nam (khảo nghiệm 9 – 14, Bảng 2). Các khảo nghiệm này khác các
khảo nghiệm trước bởi không có sự có mặt của bất cứ loài thông địa phương nào và chỉ
gồm các nguồn hạt từ Queensland (Australia) và từ địa phương cũng như từ khu phân bố tự
nhiên.

Kết quả từ các khảo nghiệm này giai đoạn giữa 8,7 và 18,8 năm tuổi (Bảng 10 – 15, Biểu
đồ 2 và 3) chỉ ra rằng có khá ít biến dị giữa các xuất xứ của PCH. Tất nhiên chưa có mô
hình để đánh giá sinh trưởng được quan sát cho các xuất xứ ở các khảo nghiệm này –
nguồn hạt từ những nơi có độ cao thấp như Alamicamba và Guanaja không thể xem như để
kết luận một cách phù hợp là tốt hơn hay kém hơn so với nguồn hạt từ nơi có độ cao cao
hơn như Poptun hay Mountain Pine Ridge (MPR). Không có nguồn gốc xuất xứ nào được

9
coi là phản ánh sự thích nghi đối với các kiểu lập địa ở Việt Nam (đặc biệt là độ cao thấp

so sánh với độ cao cao) như kiểu nguồn hạt từ nơi có độ cao thấp của lại sinh trưởng tốt ở
lập địa có độ cao cao như ở Cao nguyên miền trung và nguồn hạt ở nơi có độ cao cao hơn
lại sinh trưởng tốt trên lập địa có độ cao thấp như ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam.

Hai khảo nghiệm (Bảng 11 và 13) có 3 biến chủng của P. caribaea . Sinh trưởng tương đối
của các giống này khác nhau giữa 2 khảo nghiệm – khảo nghiệm đầu tiên ở miền Bắc Việt
Nam tại Hà Tây, và khảo nghiệm thứ 2 ở Tây Nguyên tại Pleiku. Ở miền Bắc Việt Nam,
đường kính trung bình của PCB là tương đương với PCH, nhưng các xuất xứ tốt nhất của
PCB có sinh trưởng chiều cao lớn hơn nhiều so với các xuất xứ tốt nhất của PCH (Bảng 11).
Tuy nhiên, PCC lại tỏ ra sinh trưởng kém hơn với cả PCB và PCH trên các điểm khảo
nghiệm ở miền Bắc Việt Nam. Ngược lại, khảo nghiệm ở Pleiku, PCC lại sinh trưởng
nhanh nhất so với tất cả các giống được đưa vào khảo nghiệm (Bảng 13) với đường kính
trung bình lớn nhất, trong khi PCB nhìn chung lại có đường kính và thể tích trung bình nhỏ
nhất. Sự khác nhau này giữa 2 điểm Hà Tây và Pleiku có thể phản ánh sự sai khác về tuổi
giữa các khảo nghiệm và sai khác về đường cong sinh trưởng của các giống này, hay sự sai
khác về nguồn gốc hạt. Như một sự lựa chọn, sự sai khác quan sát được có thể phản ảnh sự
sai khác thực về khả năng thích nghi của các giống thông caribaea tại các điểm khảo
nghiệm của Việt Nam – đưa ra giả thuyết là giống bahamensis có khả năng thích nghi tốt
hơn ở miền Bắc Việt Nam, trong khi giống caribaea từ Cuba thích nghi tốt hơn ở Tây
Nguyên. Ngược lại, giống hondurensis lại tỏ ra có khả năng thích nghi tốt hơn nhiều so với
hoặc PCB hoặc PCC, sinh trưởng tốt trên dải độ cao rộng ở Việt Nam.

Nguồn hạt đã được cải thiện của Thông caribaea được nhập từ Queensland mà có trong các
khảo nghiệm này có biểu hiện sinh trưởng tương đương hay tốt hơn các nguồn hạt tự nhiên
của PCH đã được khảo nghiệm (Biểu đồ 2 và 3). Số lô hạt của Queensland đã được khảo
nghiệm có thể được lấy từ vườn giống thế hệ 1, bao gồm phần lớn các cây đã được chọn
lọc của xuất xứ Mountain Pine Ridge (MPR) từ Belize. Trong chu kỳ đầu tiên của chương
trình cải thiện giống ở Queensland hầu hết tập trung vào việc cải thiện hình dáng thân của
thông caribaea, và đạt được mức tăng thu di truyền tương đối nhỏ về sinh trưởng (Nikles
1996). Các kết quả trình bày ở các bảng và biểu đồ này không phản ánh được sự cải thiện

về hình dáng thân, cái mà đã có bằng chứng rõ ràng khi những khảo nghiệm này ở Pleiku
và Song May được đo lại vào đầu năm 2006. Tuy nhiên, rõ ràng rằng nguồn vật liệu được
chọn từ Queensland có thể và đã thể hiện khả năng sinh trưởng tốt khi được trồng ở hầu
hết các loại lập địa ở Việt Nam (từ Bắc, Trung, Tây Nguyên và Nam bộ).

Khả năng sinh trưởng chung của 3 giống thông caribaea đã quan sát ở các khảo nghiệm
này là hoàn toàn phù hợp với những kết quả đã được báo cáo cho các khảo nghiệm xuất xứ
quốc tế, nơi mà PCH luôn thể hiện khả năng sinh trưởng nhanh hơn nhiều trên dải lập địa
rộng so với hoặc PCB hoặc PCC, song lại có độ thẳng thân và khả năng chịu đựng với sự tàn
phá của gió nhìn chung lại kém hơn (Birks and Barnes 1990). Tuy nhiên, với lượng khá
nhỏ biến dị xuất xứ của P. caribaea var. hondurensis được tìm thấy trong loạt khảo nghiệm
này và các khảo nghiệm trước tương phản với những nghiên cứu trước đây (chẳng hạn như
của Birks and Barnes 1990, Dvorak et al. 1993, Dvorak et al. 2000, Hodge and Dvorak
2001), các sai khác lớn đã quan sát được giữa các xuất xứ của PCH. Các biến dị xuất xứ
hạn chế quan sát được ở các khảo nghiệm ở Việt Nam, có thể là kết quả của một thực tế là
các khảo nghiệm này nhìn chung chi có những xuất xứ sinh trưởng nhanh – ví dụ như
Birks and Barnes (1990) liệt kê 3 xuất xứ Guanaja, Alamicamba và Queensland như là 3
trong số 5 xuất xứ đứng đầu; báo cáo của Crockford và cs. (1990) Queensland và Guanaja,
Mountain Pine Ridge và Alamicamba như là 4 trong 5 xuất xứ đúng đầu; Dvorak và cs.
(2000, p. 28) liệt kê Limón, Queensland, Guanaja, Poptún và Alamicamba nằm trong số
những xuất xứ sinh trưởng nhanh nhất. Ngược lại các xuất xứ mà những báo cáo trước đây

10
coi như là tiềm năng sinh trưởng rất kém trên các khảo nghiệm quốc tế (Los Limones,
Dvorak và cs. 2000) đã không có mặt trong các khảo nghiệm xuất xứ ở Việt Nam

Table 10: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 12,4 tuổi của khảo nghiệm
xuất xứ P. caribaea trồng tại Đại Lải năm 1987 (Khảo nghiệm 10 trong Bảng 2).
Xuất xứ Địa điểm Đường kính
(cm)

Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tỷ lệ sống
(%)
Guanaja Honduras 19.3 13.4 224.5 23
Alamicamba Nicaragua 19.3 13.0 202.5 31
Poptún 1 Guatemala 18.6 13.0 186.5 31
Poptún 2 Guatemala 19.8 12.9 193.0 41
Poptún 3 Guatemala 19.9 13.6 248.0 32
Queensland (M.P.R) Belize 19.5 13.5 214.0 33
M.P.R Belize 19.3 13.1 197.5 47
Giá trị trung bình chung
19.28 13.2 24
Chú ý: M.P.R. = Mountain Pine Ridge


Table 11: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 9,5 tuổi của khảo nghiệm
xuất xứ P. caribaea trồng tại Xuân Khanh năm 1990 (Khảo nghiệm 13 trong Bảng 2).
Biến
chủng
Xuất xứ
Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)
Thể tích

(dm
3
/tree)
Tỷ lệ sống
(%)
PCB Abaco CH 14.1 10.6 93.3 29
Abaco NC 13.3 10.5 76.7 41
Andros 13.4 9.1 70.1 40
P
CC Cuba 12.7 9.7 64.2 19
PCH Limon, Honduras 14.5 8.8 79.5 11
Alamicamba, Honduras 12.4 8.8 57.9 49
Guanaja Is., Honduras 13.8 8.9 76.1 36
Poptun 2, Honduras 13.3 8.8 65.7 33
Cardwell (T473'O'), Queensland 13.7 8.8 71.4 29
Byfield (R482'CP'), Queensland 13.4 9.4 78.1 39
Giá trị trung bình chung
13.5 9.33 32


Table 12: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 12,5 tuổi của khảo nghiệm
xuất xứ P. caribaea trồng tại Đông Hà năm 1988 (Khảo nghiệm 11 trong Bảng 2).
Xuất xứ
Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3

/tree)
Tỷ lệ sống
(%)
Poptun 1, Guatemala 17.7 7.4 98 61
Poptun 2, Guatemala 19.3 8.4 128 52
Alamicamba, Nicaragua 17.8 7.8 103 65
Guanaja Is., Honduras 16.9 7.5 95 53
M.P.R., Belize 18.5 8.2 117 70
Queensland, Australia 18.3 7.9 110 71
Giá trị trung bình chung
18.1 7.8 62



11
Table 13: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 16,0 tuổi của khảo nghiệm
xuất xứ P. caribaea trồng tại Pleiku năm 1990 (Khảo nghiệm 12 trong Bảng 2).
Xuất xứ Mã Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tăng trưởng
thể tích
(m
3
ha

-1
yr
-1
)
Tỷ lệ sống
(%)
PCB, Abaco PCB 21.8 19.5 386.1 25.8 50
PCB, Andros PCB 20.4 17.7 304.5 24.1 56
PCC, Cuba P
CC 23.5 18.7 435.3 25.7 42
Alamicamba, Nicaragua ALA 22.2 18.7 381.9 29.3 56
Limone, Honduras LIM 21.4 17.7 345.1 21.8 46
Poptun, Guatemala POP 20.8 18.9 333.4 25.8 56
Byfield R482, Australia BYF 22.2 19.5 403.2 25.0 48
Cardwell T473, Australia CWD 21.3 19.0 359.3 26.4 56
Guanaja, Honduras GUA 22.6 16.7 359.7 18.9 37
Giá trị trung bình chung
21.8 18.5 367.6 24.7 50
SE của trung bình 1.2 0.6 49.9 3.2 6
Chú ý: ALA, LIM, POP, BYF, CWD, và GUA là P. caribaea var. hondurensis. BYF và CWD là nguồn hạt
đã được cải thiện của Queensland, còn các nguồn khác có nguồn gốc từ khu phân bố tự nhiên của loài



ALA
BY
F
CWD
GU
A

LIM
P
C
B_Aba
c
o
PCB_Andros
PCC
POP
Volume
0
100
200
300
400
500
Mean Volume (dm
3
/tree)
MAI (m
3
ha
-1
yr
-1
x 10)

Biểu 2: Sinh trưởng của các xuất xứ P. caribaea giai đoạn 16 tuổi tại Pleiku.
Mã xuất xứ được viết ở Bảng 13.


12
Bảng 14: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 8,7 tuổi của khảo nghiệm
xuất xứ P. caribaea trồng tại Lang Hanh năm 1991 (Khảo nghiệm 14 trong Bảng 2).
Xuất xứ
Đường kính
(cm)
Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tỷ lệ sống
(%)
Cuba (PCC) 16.4 11.9 147 71
Alamicamba, Nicaragua 15.7 10.9 118 66
Limone, Honduras 16.6 11.0 135 61
Poptun, Guatemala 16.6 12.1 144 81
Guanaja Is., Honduras 15.0 9.8 113 9
Byfield (R482), Australia 20.8 13.3 232 25
Cardwell (T473), Australia 19.8 13.1 209 74
Giá trị trung bình chung
17.4 11.7 55.3


Bảng 15: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 18,8 tuổi của khảo nghiệm
xuất xứ P. caribaea trồng tại Đồng Nai năm 1987 (Khảo nghiệm 9 trong Bảng 2).
Xuất xứ Mã
Đường kính
(cm)

Chiều cao
(m)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tăng trưởng
thể tích
(m
3
ha
-1
yr
-1
)
Tỷ lệ sống
(%)
Alamicamba, Nicaragua ALA 26.5 21.5 646.2 30.4 43
Guanaja Is. Honduras GUA 28.3 21.0 713.4 27.8 30
Poptun 1, Guatemala POP1 28.6 19.5 712.1 22.7 27
Poptun 2, Guatemala POP2 27.1 20.4 647.6 27.6 37
Poptun 3, Guatemala POP3 28.5 19.8 688.5 21.0 26
M.P.R., Belize MPR 26.7 20.1 607.2 19.6 28
Queensland QLD 29.0 21.1 765.7 27.4 31
Giá trị trung bình chung
27.8 20.5 681.7 25.0 32
SE of LS Means 1.1 0.7 62.1 2.7 5


Pinus caribaea var. hondurensis Provenance

ALA GUA MPR POP1POP2POP3 QLD
Volume
0
200
400
600
800
1000
Mean Volume (dm
3
/tree)
MAI (m
3
ha
-1
yr
-1
x 10)


Biểu đồ 3: Sinh trưởng của xuất xứ P. caribaea tại giai đoạn 18,8 năm tuổi được trồng tại
Song Mây (Đồng Nai, Đông Nam bộ Việt Nam) Mã xuất xứ được đưa ra ở Bảng 15

13
Các khảo nghiệm P. caribaea được xây dựng ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay:
Hơn 10 năm qua số lượng các khảo nghiệm thông caribaea được RCFTI xây dựng, bao
gồm các khảo nghiệm so sánh loài/ nhóm loài, quản lý lâm sinh và khảo nghiệm hậu thế.
Tuy nhiên, đối với mục tiêu của bản tổng kết này, chúng tôi chỉ chọn ra những khảo
nghiệm có sự tham gia của P. caribaea var. hondurensis và hoặc ít nhất là một loài hoặc
nhóm loài khác. Khảo nghiệm được xây dựng trong giai đoạn này tập trung nhiều tới P.

caribaea var. hondurensis hơn các khảo nghiệm trước kia., bao gồm nguồn giống P.
caribaeaP. Caribaea và đã đánh giá tiềm năng của một số tổ hợp lai của PCH. Khảo
nghiệm đầu tiên trong loạt khảo nghiệm này được trồng vào năm 1996 tại Hà Tây miền
Bắc Việt Nam, bước đầu đánh giá khả năng sinh trưởng của giống lai F
2
của Queensland
giữa PCH và P. elliottii. Giống lai này có sinh trưởng tốt hơn so với 2 loài bố mẹ ở nhiều
vùng bán nhiệt đới của thế giới, bao gồm cả các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Số liệu 10
năm tuổi (Bảng 16) cho thấy giống lai này đã vượt trội hơn so với PEE, tương đương với
PCH, song kém hơn PCB về phát triển cả chiều cao, đường kính và thể tích. Tuy nhiên,
trong khảo nghiệm này, sự sai khác giữa các nhóm loài chỉ có ý nghĩa cho chiều cao và sự
tăng trưởng trung bình hàng năm. Khả năng sinh trưởng tốt của P
CB so với cả PCH, PCC và
P. elliottii trên khảo nghiệm ở miền Bắc Việt Nam, là tương tự như những gì đã quan sát
được trước đây trên những khảo nghiệm khác được xây dựng ở miền Bắc Việt Nam (Bảng
4, 5 và 11).

Tiềm năng tuyệt vời của biến chủng Bahamas (P
CB) còn được thể hiện bởi khả năng sinh
trưởng tuyệt vời ở giai đoạn đầu của chúng so sánh với cả biến chủng PCH của địa phương
Đại Lải và của Queensland, trên một khảo nghiệm quản lý lâm sinh được trồng tại Cẩm
Quỳ (Bảng 17). Khảo nghiệm này được xây dựng để đánh giá những ảnh hưởng của tỷ lệ
phân lân khác nhau (có/không bón thêm NPK). Phân tích sai khác đã chỉ ra sự tương tác có
ý nghĩa giữa các công thức bón phân và 3 nhóm loài tham gia trong khảo nghiệm; khả
năng sinh trưởng đã đạt tối đa cho mỗi nhóm loài dưới chế độ phân bón khác nhau (chi ra
dưới dạng chữ in nghiên và đậm trong Bảng 17). Tuy nhiên, PCB đã đạt tỷ lệ sinh trưởng
cao nhất (Biểu đồ 4), và tỷ lệ sinh trưởng trung bình cao nhất ở tất cả các công thức bón
phân. Hơn nữa, PCB sinh trưởng của đạt tối đa ở tỷ lệ bón phân thấp hợp so với PCH – 150g
P
2

O
5
/cây, so với450g P
2
O
5
/cây như PCH ở Đại Lải và 200g P
2
O
5
/cây + 200g NPK/cây cho
P
CH của Queensland. Như vậy là PCB có khả năng đạt được tỷ lệ sinh trưởng cao hơn PCH
ở miền Bắc Việt Nam với đầu vào phân bón ít hơn.

Bảng 16: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 10,3 tuổi trong khảo nghiệm so
sánh nhóm loài được trồng năm 1996 tại Cẩm Quỳ (Khảo nghiệm 15 trong Bảng 2)
Hạt có nguồn gốc từ Queensland. (Bảng 7.8 của Khả 2003).
Loài/ nhóm loài
Chiều cao
(m)
Đường kính
(cm)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tăng trưởng
thể tích
(m

3
ha
-1
yr
-1
)
Tỷ lệ sống
(%)
PEE × PCH F
2
Hyrbrid 8.70 14.68 82.37 7.63 86
P. caribaea var. bahamensis (PCB) 9.24 15.21 89.79 8.41 87
P. caribaea var. caribaea (P
CC) 8.10 13.34 62.63 6.00 89
P. caribaea var. hondurensis (P
CH) 8.62 14.83 82.13 5.54 71
P. elliottii (P
EE) 8.25 14.58 74.96 6.03 79
SE of LS Means 0.25 0.76 9.41 0.77 0.09
Giá trị trung bình chung
8.58 14.52 78.38 6.76 82


14
Bảng 17: Sinh trưởng trung bình tạo giai đoạn 5,8 năm tuổi của khảo nghiệm P. caribaea
bón phân trồng năm 2000 tại Cẩm Quỳ (Khảo nghiệm 16 trong Bảng 2).
Nhóm loài
C. thức
bón phân
Chiều

cao (m)
Đường kính
(cm)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tăng trưởng
thể tích
(m
3
ha
-1
yr
-1
)
Tỷ lệ sống
(%)
1 4.7 6.9 12.5 2.1 83
2 6.5 10.1 27.5 4.5 85
3 6.2 9.7 24.6 3.9 82
4 5.8 9.0 19.5 3.1 80
5 6.0 8.8 21.1 3.9 97
6 6.3 9.4 24.8 4.6 97
7 6.3 9.4 23.6 4.2 92

P. caribaea var.
bahamensis (ex.
Queensland)
8 6.2 9.2 23.8 4.2 92

Trung bình
6.0 9.0 22.2 3.8 88
1 5.1 8.8 17.5 2.2 67
2 4.8 7.2 12.7 1.8 65
3 5.0 8.5 17.6 2.8 85
4 5.4 8.7 20.8 2.8 68
5 4.6 7.9 13.5 1.4 42
6 4.7 8.2 14.4 2.1 77
7 4.9 8.1 15.3 2.3 75

P.caribaea var.
hondurensis (ex. Dai
Lai)
8 4.3 6.8 10.5 1.4 70
Trung bình
4.8 8.0 15.3 2.1 69
1 4.6 6.9 12.4 1.5 62
2 4.8 8.1 16.1 1.8 60
3 4.8 8.5 15.8 2.2 73
4 4.6 7.6 13.3 1.7 68
5 4.9 9.0 19.7 2.0 53
6 4.9 7.5 14.5 1.6 52
7 5.4 9.0 20.5 2.4 60

P. caribaea var.
hondurensis (ex.
Queensland)
8 5.4 8.7 19.2 1.8 53
Trung bình
4.9 8.2 16.4 1.9 60

Giá trị trung bình chung
5.3 8.4 18.0 2.6 72
SE of LS Means 0.3 0.5 2.5 0.4 8
Chú ý: sự tươn tác có ý nghĩa giữa phân bón x loài (p < 0.05) cho đường kính, chiều cao và thể tích/cây
Công thức phân bón: đối chứng không, P
2
O
5
150g, P
2
O
5
300g, P
2
O
5
450g, P
2
O
5
200g + 0 NPK, P
2
O
5
200g
+50g NPK, P
2
O
5
200g +100g NPK, P

2
O
5
200g +150g NPK cho các công thức lần lượt từ 1, 2….8

Fertilizer Treatment
0246810
Mean Volume (dm
3
/tree)
8
10
12
14
16
18
20
22
24
26
28
30
PCB
PCH 1160
PCH Dai Lai



15
Biểu đồ 4: Sinh trưởng trung bình tạo giai đoạn 5,8 năm tuổi của khảo

nghiệm P. caribaea bón phân trồng năm 2000 tại Cẩm Quỳ (trong Bảng 17).
Hai khảo nghiệm cuối cùng được xem xét là được trồng liền kề với một khảo nghiệm khác
ở Lang Hanh, Lâm Đồng. Khảo nghiệm đầu tiên so sánh PCH, PCC và giống lai F2 giữa P.
elliottii (PEE) và PCH. Khảo nghiệm thứ 2 so sánh khả năng sinh trưởng của PCC và PCH
dưới 3 chế độ phân bón khác nhau. Khi cùng đánh giá, hai khảo nghiệm này đều thể hiện
khả năng sinh trưởng vượt trội của PCH so với PCC trên các điểm khảo nghiệm ở Tây
Nguyên - ở giai đoạn 5 tuổi PCC thể hiện khả năng sinh trưởng rất kém so với PCH (Bảng
18 và 19). Còn P. elliottii lại chứng tỏ khả năng thích nghi kém với lập địa Tây nguyên
Việt Nam. Giống lai giữa P. elliottii và PCH cũng sinh trưởng chậm so với PCH trên những
lập địa có độ cao như ở miền Trung Việt Nam. Như vậy cũng chắc rằng P. elliottii và tổ
hợp lai với P. elliottii có khả năng thích nghi kém ở điều kiện độ cao thấp như ở miền
Trung Việt Nam

Chỉ có sự sai khác khá nhỏ về sinh trưởng của nguồn giống PCC và PCH của Việt Nam và
Queensland được đánh giá tại các khảo nghiệm ở Cẩm Quỳ (Bảng 17) và Lang Hanh
(Bảng 18 và 19). Chắc chắn mối quan tâm lớn nhất về kết quả của khảo nghiệm này không
chỉ là sự sai khác đã quan sát được giữa các vật liệu có nguồn gốc từ Việt Nam và
Queensland, mà là nguồn vật liệu đó được chọn từ 2 nước khác nhau đã sinh trưởng tương
đương nhau khi được khảo nghiệm ở các điều kiện môi trường khác nhau ở Việt Nam.

Áp dụng chế độ bón phân photphat cho khảo nghiệm tại Đà Lạt đã tăng rõ ràng tỷ lệ sinh
trưởng của cả PCC và PCH; chỉ với lượng phân bón NPK thêm vào sinh trưởng của PCC đã
bắt đầu gần bằng với PCH. Khi thêm phân bón thì lượng tăng trưởng gần như tăng gấp đôi
ở giai đoạn 5 tuổi; tuy nhiện việc bón thêm phân NPK cũng xuất hiện một tác động có hại
đối với tỷ lệ sống trên cả 2 giống và sinh trưởng của PCH (Bảng 19). Như vậy là những lợi
ích đáng kể đạt được từ việc sử dụng phân bón để tăng tỷ lệ sinh trưởng của P. caribaea,
như trước đã báo cáo cho một khảo nghiệm tương tự xây dựng ở miền Bắc Việt Nam
(Bảng 17)

Bảng 18: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 4,8 tuổi của

khảo nghiệm loài và xuất xứ P. caribaea trồng năm 2001 tại Lang Hanh, Lâm Đồng
(khảo nghiệm 17 trong Bảng 2).
Nhóm loài
Chiều cao
(m)
Đường kính
(cm)
Thể tích
(dm
3
/tree)
Tăng trưởng
thể tích
(m
3
ha
-1
yr
-1
)
Tỷ lệ sống
(%)
P. caribaea var. caribaea
(ex. Cuba)
3.1 4.7 3.2 0.7 58
P. caribaea var. caribaea
(ex. Vietnam, Dong Ha)
3.5 5.6 4.8 1.1 64
P
EE × PCH F

2
Hybrid
(ex. Queensland)
3.4 5.4 4.7 1.1 68
P. caribaea var. hondurensis
(ex. Queensland)
4.5 7.2 10.8 2.6 71
P. caribaea var. hondurensis
(ex. Vietnam, Dai Lai)
4.2 6.9 9.2 1.7 53
P. elliottii
2.6 4.1 2.2 0.4 36
Giá trị trung bình chung
3.5 4.6 5.8 1.3 58
SE of LS Means
0.2 0.3 0.6 0.2 8


16
Bảng 19: Sinh trưởng và tỷ lệ sống trung bình giai đoạn 4,8 tuổi của khảo nghiệm phân
bón P. caribaea trồng năm 2001 tại Đà Lạt (khảo nghiệm 18 trong Bảng 2)
Nhóm loài
C. thức
bón phân
Chiều
cao (m)
Đường
kính
(cm)
Thể tích

(dm
3
/tree)
Tăng trưởng
thể tích
(m
3
ha
-1
yr
-1
)
Tỷ lệ sống
(%)
1 3.2 5.8 4.7 0.9 57
2 4.0 6.7 8.5 1.7 57
P. caribaea var. caribaea
(P
CC, ex. central Vietnam)
3 4.0 7.4 9.9 0.7 23
1 4.3 7.5 11.0 1.8 49
2 5.1 8.6 16.6 3.1 56
P. caribaea var. hondurensis
(P
CH, ex. Queensland)
3 4.4 7.3 10.9 1.5 39
1 4.0 7.0 9.1 1.7 50
2 4.9 8.2 14.9 2.7 48
P. caribaea var. hondurensis
(P

CH ex. northern Vietnam)
3 4.2 7.0 13.3 1.5 30
SE of LS Means
0.4 0.7 2.7 0.6 11
Giá trị trung bình chung

4.2 7.3 11.0 1.7 45
Chú ý: Tương tác giữa phân bón x giống là không có ý nghĩa.
Các công thức bón phân: 1 = đối chưng không bón; 2 = 300g phosphate/tree; 3 = 200g phosphate +100g
NPK mỗi cây.
Những phát hiện chính và những đề xuất cho tương lai
Tình hình sinh trưởng của loài/ nhóm loài
Các kết quả được giới thiệu từ các khảo nghiệm trước đây của Thông caribaea đã chỉ ra
tiềm năng sinh trưởng tuyệt vời của Thông caribaea cho rừng trồng thương mại Việt Nam.
Năng suất ước tính có thể còn thiếu chính xác do một số yếu tố (chẳng hạn như thiếu công
thức tính thể tích đáng tin cậy, khai thác trái phép và tỷ lệ sống thấp ở số khảo nghiệm);
tuy nhiên, rõ ràng rằng P. caribaea var. hondurensis (PCH) hay/ hoặc P. caribaea var.
bahamensis (PCB) đã tỏ ra ưu trội hơn các loài thông khác được chọn để khảo nghiệm ở các
tỉnh miền Bắc Việt Nam, trong đó PCH vượt trội hơn hẳn so với các loài thông khác trên tất
cả các điểm khảo nghiệm nơi có độ cao so với mặt biển cao và thấp ở miềm Trung Việt
Nam và các điểm khảo nghiệm ở độ cao thấp ở miền Bắc Việt Nam. PCH còn thể hiện khả
năng thích nghi rộng, song đặc biệt là các điểm khảo nghiệm ở miền Trung và Nam Việt
Nam. P
CB Sinh trưởng tốt hơn so với PCH ở các tỉnh miền Bắc, còn P. caribaea var.
caribaea (P
CC) dựa trên kết quả khảo nghiệm hiện có chưa thể hiện bất kỳ lợi thế nào hơn
so với hoặc P
CH hay PCB cho việc trồng rừng ở Việt Nam.

Ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam, PCB có thể sẽ vượt trội hơn so với PCH, bởi vì:

1. Các kết quả khảo nghiệm ở miền Bắc Việt Nam chứng tỏ rằng PCB có tiềm năng
tương đương hoặc vượt hơn về khả năng sinh trưởng so với P
CH
2. Tiềm năng sinh trưởng cao hơn với xuất đầu tư phân bón thấp hơn
3. Hình dáng thân đẹp đúng như mô tả của Ståhl (1988)
4. Khả năng chống chịu sự phá hoại của sâu hại ngọn và sương giá tốt, là điều kiện
góp phần cho sự sinh trưởng tốt cuat PCB hơn các loài khác trên các điểm khảo
nghiệm ở miền Bắc

Giống lai giữa PCB và PCH có thể chứng minh là rất hữu ích ở các tỉnh miền Bắc – giống
lai này đã biểu hiện sinh trưởng tốt trên một số khảo nghiệm ở Queensland, với sự kết hợp
khả năng sinh trưởng nhanh của PCH và hình dáng thân đẹp của PCB.

Tuy nhiên các loài thông Châu á như P. merkusii và P. massoniana có giá trị cao về năng
suất nhựa. Tuy nhiên do P. caribaea thể hiện khả năng sinh trưởng lớn hơn rõ ràng so với
P. merkusii, P. massoniana và P. kesiya, nên khả năng sản xuất nhựa của P. caribaea cần

17
được đánh giá. Giống lai giữa các loài thông địa phương và PCH (chẳng hạn như PCH × P.
merkusii, × P. kesiya hay × P. massoniana) có thể là sự kết hợp hiệu quả về khả năng sinh
trưởng vượt trội của P. caribaea với đặc tính sản xuất nhựa chất lượng cao của các loài địa
phương; mặc dù, những nỗ lực ban đầu để lai giống các loài này chưa có được sự thành
công như mong đợi. Dựa trên kinh nghiệm ở Queensland, P. tecunumanii và giống lai giữa
P. caribaea và P. tecunumanii chắc chắn sinh trưởng tốt ở các vùng nhiệt đới như miền
Trung và Nam Việt Nam (Gwaze và cs. 1999, Brawner và cs. 2005).

Giống lai giữa P. caribaea và P. elliottii chưa thể hiện được mặt mạnh so với PCH và/ hay
PCB trong những kết quả giai đoạn đầu từ một khảo nghiệm đơn lẻ ở Cẩm Quỳ, ở miền Bắc
Việt Nam. Mặc dù giống lai này có sinh trưởng tốt hơn so với P. massoniana ở các điểm
khảo nghiệm tại Guangxi, gần biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Do đó, những đánh

giá sâu hơn về tiềm năng của giống lai PEE × PCH so với PCH, PCB và PCH × PCB nên được
tiến hành để xác định rõ khả năng thích nghi của nó ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Cũng
không chắc rằng giống lai có mặt P. elliottii sẽ sinh trưởng tốt trên các điểm khảo nghiệm
ở hoặc là miền Trung hoặc là miền Nam Việt Nam nơi mà sinh trưởng của P. elliottii tại
các điểm khảo nghiệm ở các vùng này đã tỏ ra khá kém
Các hoạt động chọn tạo và cải thiện giống
Những nỗ lực chọn tạo giống trong tương lai nên tập trung vào PCH và PCB (và có thể là
giống lai giữa 2 loài này) cho các tỉnh miền Bắc Việt Nam, và PCH cho các tỉnh miền
Trung (bao gồm cả vùng Tây nguyên) và miền Nam Việt Nam. Sự phát triển và đánh giá
các tổ hợp lai khác chắc chắn là khó khăn và nằm ngoài khả năng của nguồn lực địa
phương và nên chỉ hình thành một phần nhỏ trong số các hoạt động chọn tạo và cải thiện
giống thông trong tương lai ở Việt Nam.

Lượng biến dị khá nhỏ quan sát được giữa các xuất xứ của PCH đã khảo nghiệm ở Việt
Nam, và các nguồn hạt có nguồn gốc từ Queensland là tương đương, hay tốt hơn một chút
so với hoặc các các xuất xứ tự nhiên tốt nhất hoặc các nguồn hạt từ địa phương của PCH.
Mặc dù, bộ xuất xứ PCH đã được khảo nghiệm là nằm trong số bộ xuất xứ tốt nhất theo
đánh giá của cả Oxford và CAMCORE. Điều này chứng tỏ rằng một chương trình cải thiện
di truyền cho P. caribaea ở Việt Nam sẽ thu lợi từ:
 Chọn lọc kiểu hình địa phương của các cây cá thể P
CH tốt nhất bất kể nguồn gốc
xuất xứ. Tất cả các xuất xứ P
CH đại diện trong các khảo nghiệm chắc chắn đóng
góp một nguồn gen có giá trị cho chương trình cải thiện di truyền của loài này trong
tương lai ở Việt Nam. Giống lai giữa các xuất xứ cũng có thể thêm nguồn biến dị
so với các phép lai trong cùng một xuất xứ (Johnston và cs. 2003).
 Nhập giống đã được cải thiện tính di truyền của PCH do đã được chọn lọc và nhân
giống ở Queensland- nguồn vật liệu này rất đa dạng về mặt di truyền, bắt nguồn từ
một xuất xứ khác với rất nhiều cây trội được chọn lọc vào Việt Nam (chẳng hạn
như xuất xứ Mountain Pine Ridge vs. Poptun), và đã được chọn lọc kỹ về đặc tính

độ thẳng thân cũng như khả năng chống chịu được với sự tàn phá của gió bão.
 Nhập giống đã được cải thiện tính di truyền của PCB từ Queensland (hay miền Nam
Trung Quốc) để tăng thêm tính đa dạng di truyền của giống này ở Việt Nam. Cả ở
Queensland và Guangxi đều là lô hạt được thu thập bởi Viện nghiên cứu lâm
nghiệp Oxford

Việc thiết lập các khu rừng trồng thương mại của Thông caribaea ở Việt Nam còn hạn chế
bởi không sẵn nguồn hạt chất lượng cao. Để trợ giúp cho việc mở rộng chương trình trồng
rừng Thông caribaea ở Việt Nam cần có một nguồn hạt ổn định từ lâm phần rừng có chất
lượng di truyền được cải thiện. Các kết quả giới thiệu ở đây chỉ ra rằng vật liệu đã cải thiện

18
chất lượng di truyền từ Queensland là tiềm năng tyệt vời thông qua một loạt các khảo
nghiệm ở Việt Nam. Do đó, tầm quan trọng của nguồn hạt từ vườn giống của Queensland
sẽ cung cấp một nguồn giống trực tiếp cho khu rừng trồng chất lượng cao. Hạt PCH từ
vườn giống được sản xuất ở nhiều nước khác (như Brazil và Nam Phi) có thể cũng cung
cấp những lợi ích tương tự nhưng chưa được khảo nghiệm ở Việt Nam. Hơn nữa, quan
trọng là hạt từ nhưng nước như Nam Phi có thể chưa được chấp nhận về mặt kiểm dịch do
vẫn có hiện tượng thối đen.

Việc xây dựng nguồn giống địa phương cho các khu rừng trồng có chất lượng di truyền
được cải thiện nên được xem như ưu tiên trước mắt:
 Phát triển tiếp các vườn giống vô tính PCH ở các khu vực ven biển miền Trung Việt
Nam nơi được biết là phù hợp cho việc sản xuất hạt giống của loài này.
 Khảo nghiệm hậu thế cho tất cả các cây bố mẹ có tiền năng trong vườn giống để có
số liệu đánh giá trên hiện trường sớm nhất có thể
 Mở rộng các quần thể chọn tạo giống PCB và xây dựng các vườn giống vô tính ở
miền Bắc Việt Nam.
 Nhân giống vô tính cho các vật liệu ưu trội của PCH - chẳng hạn như hạt thu từ lai
giống nhân tạo từ các phép lai giữa các cây trội được chọn tốt nhất của địa phương

- để cung cấp nguồn giống trựctiếp cho các khu trồn rừng chất lượng cao.
Lời cảm ơn
Báo cáo được xây dựng dưới sự trợ giúp và tài chính từ AusAID và Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thông qua Dự án CARD 033/05 VIE. Số liệu được trình bày trong báo
cáo này có một số đã được công bố trước và được thừa nhận. Xin có lời cảm ơn tới GS Lê
Đình Khả người đã có nhiều đề xuất xây dựng và sâu sắc cho báo cáo này và tới sự trợ
giúp của cô Nghiêm Quỳnh Chi để hoàn thành báo cáo thông qua việc tổ chức đi đánh giá
hiện trường và các buổi họp liên quan tới dự án và dịch bản báo cáo này sang tiếng Việt.
Tài liệu tham khảo

Baylis, W. B. H. and R. D. Barnes (1989). International provenance trials of Pinus
caribaea var. bahamensis. In: Breeding tropical trees: Population structure and
genetic improvement strategies in clonal and seedling forestry. Proc. IUFRO Conf.,
Pattaya, Thailand, November 1988 (Eds. Gibson, G.L., Griffing, A.R. and Matheson,
A.C.). Oxford Forestry Institute/Winrock International, Arlington VA. pp. 283-290.
Birks, J. S. and R. D. Barnes (1990). Provenance variation in Pinus caribaea, P. oocarpa
and P. patula ssp. tecunumanii. University of Oxford, Tropical Forestry Papers No.
21, Oxford Forestry Institute, Department of Plant Sciences. 40 p.
Brawner, J. T., M. J. Dieters and D. G. Nikles (2005). Mid-rotation performance of Pinus
caribaea var. hondurensis hybrids with both P. oocarpa and P. tecunumanii: hybrid
superiority, stability of parental performance and potential for a multi-species
synthetic breed. Forest Genetics 12(1): 1-13.
Dieters, M. J. and D. G. Nikles (1997). The genetic improvement of Caribbean pine (Pinus
caribaea Morelet) - building on a firm foundation. In: Proc. 24th Southern Forest
Tree Improvement Conference, Orlando, FL., June 10 - June 12, 1997. Gainesville,
Fl, University of Florida, pp. 33-52.
Duncan, P. D., T. L. White, and G.R. Hodge (1996). First-year freeze hardiness of pure
species and hybrid taxa of Pinus elliottii (Engelman) and Pinus caribaea (Morelet).
New Forests 12: 223-241.
Dvorak, W. S., K. D. Ross and Y. Lui. (1993). Performance of Pinus caribaea var.

hondurensis in Brazil, Colombia and Venezuela. Bulletin on Tropical Forestry No.
11. Raleigh, NC, CAMCORE, North Carolina State University. 47 p.

19
Gibson, G. L. (1982). Genotype-environment interaction in Pinus caribaea. University of
Oxford, Commonwealth Forestry Institute, Department of Forestry. 112p.
Gwaze, D. P. (1999). Performance of some interspecific F
1
pine hybrids in Zimbabwe.
Forest Genetics 6(4): 283-289.
Hodge, G. R. and W. S. Dvorak (2001). Genetic parameters and provenance variation of
Pinus caribaea var. hondurensis in 48 international trials. Canadian Journal of Forest
Research 31: 496-511.
Johnston, A. J., M. J. Dieters, H. S. Dungey and H. M. Wallace (2003). Intraspecific
hybridization in Pinus caribaea var. hondurensis I. Performance for growth and form
traits. Euphytica 129: 147-157.
Khả, L.D., Phí Quang Điện, Đoà Văn Nhưng (1989). Sinh trưởng của Pinus caribaea ở
Việt Nam. Trong Chọn tạo các loài cây nhiệt đới: cấu trúc quần thể và chiến lược cải
thiện di truyền về dòng và cây con cây lâm nghiệp. Hội nghị IUFRO, Pattaya,
Thailand, thang 11 1988 (Eds. Gibson, G.L., Griffing, A.R. and Matheson, A.C.).
Oxford Forestry Institute/Winrock International, Arlington VA. pp. 376.
Khả, L.Đ., Phí Quang Điện, Phan Thanh Hương, Cấn Thị Lan (2002). Triển vọng nhập nội
các giống Pinus caribaea vào Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Tháng 4 - 2002, trang 340-342.
Khả, L.D. (2003). Chọn giống, nhân giống cho các loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt
Nam. Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội, Việt Nam, 292 trang.
Nikles, D. G. (1966). Comparative variability and relationship of Caribbean pine (Pinus
caribaea Mor.) and slash pine (Pinus elliottii Engelm.). Raleigh, NC, PhD Thesis,
Dept. of Forestry, NCSU. 201 p.
Nikles, D. G. (1996). The first 50 years of the evolution of forest tree improvement in

Queensland. In Tree Improvement for Sustainable Tropical Forestry. Proc. QFRI-
IUFRO Conf., Caloundra, Queensland, Australia. 27 October-1 November 1996.
(Eds. M. J. Dieters, A. C. Matheson, D. G. Nikles, C. E. Harwood and S. M.
Walker). Gympie, Queensland Forestry Research Institute. pp. 51-64.
Phí Quang Điện (1989). Khảo nghiệm loài và xuất xứ thông ở Việt Nam. Phòng Di truyền
và chọn giống cây lâm nghiệp, Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 76
trang.
Ståhl, P. (1988). Species and provenance trials on pine 1976-1984. Vinh Phu, Vietnam.
54p.

20

×