Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦNG CỐ VÀ HỖ TRỢ VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.34 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo
cho mọi hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền
trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu
kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách Tiền liên quan đến các quyết định của
các cá nhân và ảnh hưởng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia.
Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động của
các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ )
và thị trường tài chính (thị trường chứng khoán, thị trường cổ phiếu và hối
đoái). Các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến
đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của
những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước.
Như chóng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực
quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một
tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào dể sử dụngmột cách triệt để
và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nước và ngoài nước? Để đạt được điều
này, trước hết cần phải có một hệ thống ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay ngân hàng Trung
Ương (NHTW) với các ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc thực hiện
chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế
được.
Chính vì vậy mà bài viết này có tên là:
“VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên trong bài viết có thể còn nhiều sai
sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
1
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. KHÁI NIỆM NHTW
Mọi quốc gia đều có NHTW, nhưng tên gọi có thể khác nhau (ngân hàng


trung tâm, ngân hàng Nhà nước, quỹ dự trữ liên bang
). Tiền thân của ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành tiền. Khi ngân
hàng có tên là NHTW thì ngân hàng này đảm nhiệm việc độc quyền phát hành
tiền và quản lý Nhà nước.
Do tính chất hoạt động của NHTW mà ngân hàng này đã nắm trong tay
công cụ quản lý chủ yếu nhất của Nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô là
chính sách tiền tệ. NHTW là một bộ phận trong bộ máy quản lý của Nhà nước.
NHTW là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền (in tiền) vì thế nó là
ngân hàng duy nhất không có khả năng bị phá sản. Nó đóng vai trò chủ ngân
hàng đối với các ngân hàng thương mại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng
hoạt động không trục trặc và còn đóng vai trò chủ ngân hàng đối với Chính
phủ, gánh trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm
hụt ngân sách của Chính phủ.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.
Hoạt động của NHNN và sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của nó liên quan
đến các hoạt động tác động đến bảng quyết toán tài sản của nó (tài sản có và tài
sản nợ)
Tài sản có Tài sản nợ
- Chứng khoán của Chính phủ & cơ
quan Chính phủ, hối phiếu được
ngân hàng chấp nhận
- Tiền cho vay chiết khấu
- Tiền đúc
- Tiền mặt đang thu
- Những tài khoản khác
- Tiền giấy của NHNN đang lưu
thông
- Tiền gửi ngân hàng
- Tiền gửi của kho bạc

- Tiền gửi của nước ngoài và tiền
gửi khác
- Tiền mặt trả sau
- Các khoản nợ khác và tài khoản tư
bản
2
Bảng quyết toán tài sản của ngân hàng cho thấy các nguồn vốn và cách
sử dụng vốn của ngân hàng. Thông qua bảng quyết toán tài sản, người ta có thể
đánh giá chính xác tình trạng hoạt động của ngân hàng.
+ Tài sản có: gồm những chứng khoán mà NHTW nắm giữ gồm có trước
hết là chứng khoán kho bạc nhưng trước đây gồm cả hối phiếu được ngân hàng
chấp nhận. Tổng kim ngạch chứng khoán do các nghiệp vụ thị trường mở quyết
định. Đây là loại tài sản có quan trọng trong bảng tổng kết và tài sản của
NHTW.
Cho vay chiết khấu: đó là những khoản tiền mà NHTW cho các ngân
hàng vay và kim ngạch vay chịu tác động của lãi suất mà NHTW ânăng suất
định cho những khoản vay đó (lãi suất chiết khấu).
Hai tài sản có trên đóng một vai trò quan trọng trong bảng quyết toán tài
sản của NHTW
Lý do thứ nhất: những thay đổi trong các khoản tài khoản có này sẽ dẫn
đến các thay đổi về tiền dự trữ và tiếp sau đó là những thay đổi về lượng tiền
cung ứng.
Thứ hai: do các tài sản này (chứng khoán Chính phủ và tiền cho vay
chiết khấu) đem lại lãi suất trong khi các tài sản nợ (đồng tiền lưu hành và tiền
dự trữ) không phải thanh toán lãi suất. Như vậy tài sản có mang lại thu nhập,
tài sản nợ không phải tốn kém gì.
Các chứng khoán Chính phủ gồm các tài khoản chứng khoán của NHTW
do kho bạc phát hành. NHTW cung cÊp tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng
hoạt động bằng cách mua chứng khoán do dó làm tăng tài sản có của nó. Một
sự tăng chứng khoán Chính phủ do NHTW nắm giữ dẫn đến một sự tăng lượng

tiền cung ứng. Ngoài ra, NHTW có thể cung cấp tiền dự trữ cho hệ thống ngân
hàng bằng cách cho các ngân hàng vay chiết khấu. Một sự tăng tiền cho vay
chiết khấu cũng có thể là một nguồn gây ra sự tăng lượng tiền cung ứng. Khi
NHTW cung cấp cho hệ thống ngân hàng thêm một đồng tiền gửi dự trữ thì tiền
gửi tăng một bội số của tiền này. Quá trình này được gọi là tạo ra bội số tiền
gửi.
+ Tài sản nợ :
- Tiền giấy NHTW đang lưu thông : NHTW phát hành đồng tiền giấy.
Đồng tiền đang lưu hành là tổng số lượng tiền đang lưu thông trong tay dân
chúng (ở bên ngoài ngân hàng). Đây là một thành phần quan trọng của lượng
3
tiền cung ứng (đồng tiền do các tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ cũng là tài sản
nợ của NHTW nhưng được nộp vào khoản dự trữ).
- Tiền gửi ngân hàng : tất cả ngân hàng đều có một tài khoản ở NHTW, ở
đó bao gồm các khoản tiÒn gửi của các ngân hàng gửi tại NHTW. Những
khoản tiền này cộng với tiền mặt tại các ngân hàng (được coi là tiền két bởi nó
được để trong các két ngâng hàng) được gọi là các khoản tiền dự trữ.
Các khoản tiền dự trữ là tài sản có của các ngân hàng như là các tài sản
nợ của NHTW. Một sự tăng các khoản tiền dự trữ dẫn đến một sự tăng mức
tiền gửi và do đó tăng lượng tiền cung ứng.
Ở đây, tiền dự trữ có thể được chia làm hai loại : tiền dự trữ mà NHTW
đòi hỏi các ngân hàng lưu trữ (tiền dự trữ bắt buộc) và tiền dự trữ mà các ngân
hàng lưu giữ theo ý muốn (tiền dự trữ quá mức).
Hai tài sản nợ trong bảng quyết toán : đồng tiền lưu hành và các khoản
tiền dự trữ, thường được gọi là các tài sản nợ về tiền tệ của NHTW. Chúng là
một phần quan trọng của lượng tiền cung ứng, bởi vì việc tăng một trong hai
thứ hoặc cả hai thứ sẽ dẫn đến một sự tăng lượng tiền cung ứng (mọi thứ khác
không đổi).
Tổng tài sản nợ tiền tệ của NHTW và các tài sản nợ tiền tệ của kho bạc
(tiền mặt kho bạc đang lưu hành) gọi là cơ số tiền tệ khi nói về cơ số tiền tệ,

chúng ta chỉ tập trung vào tài sản nợ tiền tệ của NHTW bởi tài sản nợ tiền tệ
của kho bạc chỉ tieeu tới không quá 10% của cơ số tiền nói trên.
Cơ số tiền tệ (MB) còn gọi là tiền có quyền lực cao, hình thành từ các tài
sản nợ tiền trong lưu thông(C) cộng dự trữ (R).
MB = C + R.
Để có thể hiểu rõ hơn về bảng quyết toán tài sản của NHTW chóng ta sẽ
đi vào nghiên cứu các chức năng và vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị
trường.
Vai trò đặc trưng nhất của NHNN là ngân hàng phát hành ngân hàng của
Nhà nước và ngân hàng của các ngân hàng.
2.1. Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng phát hành.
Nhiệm vô bao trùm nhất là hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ theo
cơ chế thị trường.
Khi Ngân hàng phát hành TW ra đời thì toàn bộ việc phát hành tiền được
tập trung vào NHTW theo chế độ độc quyền. Đây là chức năng cơ bản và vốn
4
có của NHTW. Tiền do NHTW phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp
duy nhất.
Với chức năng phát hành, NHNN không chỉ phát hành tiền mặt mà cả
phương tiện lưu thông nói chung. Trách nhiệm của NHTW là bảo đảm cung
ứng đủ, không để thiếu phương tiện thanh toán (kể cả tiền mặt), làm sao cho
tổng cung phù hợp với tổng cầu tiền tệ.
Ở đây, một vấn đề có tính nguyên tắc là đòi hỏi nghiêm ngặt đối với việc
vận hành chính sách tiền tệ là không được phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân
sách.
Hoạt động tín dụng không tách riêng mà nằm trong hoạt động tiền tệ.
Phát hành tiền không còn là nguồn vốn tín dụng, mà chỉ là hình thức cung ứng
tiền trung ương, đáp ứng nhu cầu phương tiện thanh toán của các ngân hàng và
nền kinh tế. Tiền mặt không phải là tất cả, mà nằm trong lượng tiền cung ứng.
Trước đây, quản lý tiền mặt đã từng là công cụ quản lý duy nhất, là nhiệm vụ

thường xuyên hàng đầu của NHNN. Giờ đây, tiền mặt chỉ là phương tiện thanh
toán, xã hội cần bao nhiêu đều được đáp ứng đủ. Quản lý tiền mặt được thay
bằng khái niệm quản lý lượng tiền cung ứng.
2.2. Ngân hàng của chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước không chỉ được phép thay mặt điều hành kiểm soát
hoạt động tiền tệ và toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, mà còn làm các công
việc ngân hàng của Nhà nước như in đúc tiền ,quản lý dự trữ ngoại hối của đất
nước, ký kết các hiệp định Nhà nước về ngân hàng và tín dụng, đại diện cho
chính phủ tại các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, quản lý quỹ của ngân sách
nhà nước
Với vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ, ngân hàng TW phải đảm bảo
rằng Chính phủ có khả năng đáp ứng những khoản chi tiêu khi nó đang thâm
hụt.
Nếu không tính đến nguồn vay từ bên ngoài thì cã hai cách để tài trợ cho
thâm hụt ngân sách.
Thứ nhất, Chính phủ có thể vay tiền của dân ở trong nước bằng cách bán
ra những chứng khoán tài chính, kỳ phiếu của Chính phủ và công trái cho dân
chúng.
Chính phủ bán các chứng khoán cho Ngân hàn TW lấy tiền mặt bù đắp
cho khoản thâm hụt. Đến lượt mình, Ngân hàng TW tiến hành một nghiệp vụ
5
thị trường mở, bán những chứng khoán này trên thị trường mở để lấy tiền mặt.
Khi quá trình này kết thúc, những người dân giữ trong tay những chứng khoán
có lãi của chính phủ, nhưng lượng cung ứng tiền tệ không thay đổi. Qua việc
chi dùng khoản thâm hụt, Chính phủ đã đưa trở lại nền kinh tế số tiền mặt mà
Chính phủ đã rót ra khi bán các chứng khoán lấy tiền mặt. Và NHTW qua việc
án ra các chứng khoán này, đã thu hồi lại số tiền mặt cho Chính phủ vay lúc
đầu.
Thứ hai, Chính phủ có thể tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách in
thêm tiền. Thực ra, Chính phủ bán chứng khoán cho NHTW lấy tiền mặt để

trang trải cho khoản chi tiêu vượt quá khoản thu thuế. Khối lượng các chứng
khoán Chính phủ nằm trong các ngân hàng thương mại hay ở cá nhân các công
dân không thay đổi nhưng cơ số tiền đã tăng lên lượng cung ứng tiền sẽ tăng
lên nhiều hơn do có hệ số tiền.
2.3. Ngân hàng của các ngân hàng.
Thực hiện chức năng này, NHTW đóng vai trò là ngân hàng còn các
ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính (quỹ tín dụng, công ty bảo
hiểm ) là các khách hàng của NHTW.
NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, được thực hiện thông qua nhiều
mối quan hệ :
a. NHNN tiến hành tái cấp vốn, thực hiện vai trò người vay cuối cùng,
qua nghiệp vụ tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương mại. Thực chất, đây
là loại tín dụng có thế chấp giấy tờ có giá ngắn hạn. Qua nghiệp vụ này,
NHTW thực hiện kiểm soát số lượng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng
thương mại.
Ta biết rằng, bất kỳ một hệ thống NHTM nào có nguồn dự trữ Ýt ỏi cũng
sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi những cơn hoảng loạn tài chính. Hoản loạn ngân hàng
xảy ra khi các ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu rót ra của người
gửi, khi đó ngân hàng buộc phải chấp nhận phá sản. Để tránh được những cơn
hoảng loạn tài chính, cần phải có sự đảm bảo rằng các ngân hàng có thể nhận
được tiền mặt khi có nhu cầu thực sự. Nguy cơ của những cơn hoảng loạn tài
chính có thể tránh được hoặc Ýt nhất giảm bớt được đáng kể khi biết rằng
NHTW sẵn sàng đóng vai trò cứu cánh cho vay cuối cùng khi không còn
phương sách cứu vãn nào khác. NHNN luôn có được khả năng này vì nó là
ngân hàng duy nhất có quyền phát hành tiền. Vai trò của NHTW là cứu cánh
6
cho vay cuối cùng không chỉ đơn thuần duy trì được hệ thống tài chính hiện đại
tinh vi và gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó sự thất bại của một ngân hàng sẽ
kéo theo sự sụp đổ của nhiều ngân hàng khác. Nó cũng làm giảm tính bất khả
đoán lớn trong quá trình kiểm soát tiền tệ hàng ngày.

b. NHNN thực hiện có hiệu quả hơn nữa chức năng than tra kiểm soát
thông qua hai kênh :
Kiểm soát hệ tiền tệ, bảo đảm tương quan giữa tổng cung và tổng cầu
tiền tệ, vừa tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, vừa kiềm chế
lạm phát, giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển.
Kiểm soát các NHTM nhằm gìn giữ và đảm bảo an toàn cho hệ thống các
tổ chức tín dụng, giúp cho hoạt động các ngân hàng thương mại lành mạnh, ổn
định và có hiệu quả.
Việc kiểm soát các NHTM chủ yếu thông qua hệ thống các công cụ kinh
tế, không can thiệp trực tiếp, quá sân vào hoạt động kinh doanh của họ.
c. NHNN tìm kiếm các hình thức và phương tiện thanh toán thay tiền
mặt, tổ chức hệ thống thanh toán trong nền kinh tế quốc dân bao gồm hệ thống
thanh toán trong cùng một ngân hàng, thanh toán giữa các ngân hàng, thanh
toán bù trừ trên từng địa bàn từ trung ương đến địa phương.
d. NHTW có trách nhiệm và quan tâm trong việc thành lập và phát triển
thị trường tiền tệ và thị trường vốn dài hạn để từng bước chuyển các quan hệ
vay mượn truyền thống, trực tiếp với các NHTM qua quan hệ gián tiếp thông
qua các thị trường này và cũng tạo điều kiện để NHNN triển khai các nghiệp vụ
thị trường mở.
Qua việc phân tích ở trên chúng ta thấy được phần nào chức năng cũng
như vai trò của NHTW trong nền kinh tế. Nhưng để NHTW thực sự trở thành
ngân hàng của Nhà nước, ngân hàng của các ngân hàng thì nó phải thực hiện
tốt chính sách tiền tệ.
2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội của Nhà
nước. Nó là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ do
NHTW khởi thảo và thực hiện mục tiêu cao nhất là ổn định giá trị đồng tiền để
từ đó ổn định và tăng truưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTW không chỉ độc quyền phát hành tiền
mà còn điều tiết lượng tiền cung ứng tức là NHTW phải thực hiện chính sách

7
tiền tệ không gây ra lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính vì vậy, sự ổn
định tiền tệ là nhệm vụ thường trực của NHTW, là định hướng chỉ đạo toàn bộ
hoạt động của NHTW.
a. Chính sách tiền tệ là một phương thức theo đó NHTW kiểm soát và
điều tiết khối lượng tiền tệ cung ứng.
Sự chỉ đạo chính sách tiền tệ của NHTW tác động đến việc tăng giảm
lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Các biến chuyển trong lượng tiền cung
ứng tác động đến sức khoẻ của nền kinh tế và do đó ảnh hưởng đến đời sống
của mọi người chúng ta. Điều đó nó lên tầm quan trọng của chính sách tiền tệ.
NHTW thực hiện chính sách tiền tệ tức là quá trình NHTW kiểm soát
tiền tệ sao cho khối lượng tiền tệ cân đối với mức tăng tôngr sản phẩm quốc
dân danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền. Một chính sách
tiền tệ đúng đắn phải hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm
lượng tiền cung ứng, làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ
không phải chỉ khống chế tiền mặt.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được xác định theo hai
hướng:
Chính sách thắt chặt tiền tệ được dùng trong những thời kỳ có lạm phát
cao; với mục đích là làm giảm lượng tiền cung ứng. Từ đó dẫn tới việc lãi suất
tăng, tiêu dùng và đầu tư giảm, xuất khẩu vòng giảm, GNP giảm, việc làm
giảm thất nghiệp tăng, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách mở rộng tiền tệ được dùng khi nền kinh tế suy thoái. Mục
đích là tăng lượng tiền cung ứng, lãi suất giảm. Và từ đó tiêu dùng và đầu tư
tăng, xuất khẩu vòng tăng, GNP tăng, việc làm tăng, thất nghiệp giảm.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Do chính sách tiền tệ là một phần của chính sách kinh tế vĩ mô nên
những mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là mục tiêu của chính sách kinh tế
vĩ mô.
NHTW thường đề ra 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ của mình.

Đó là việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định thị
trường ngoại hối. Đây là những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Nếu nền kinh tế đang diễn ra những vấn đề đó thì chính sách tiền tệ
nhằm làm cho mọi hoạt động kinh tế không tách rời những mục tiêu đó. Nếu
những vấn đề đó chưa có thì chính sách tiền tệ phải luôn hướng tới chung.
8
Thử thách lớn nhất trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ
thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô chính là xử lý hài hoà hàng loạt mối quan
hệ vốn mâu thuẫn với nhau trên tất cả các công cụ đó: Giữa mục tiêu kiềm chế
lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế; giữa lợi Ých chung (kiềm chế lạm
phát và tăng trưởng kinh tế) với lợi Ých của các NHTM và tổ chức tín dụng
giữa lợi Ých người gửi tiền với nhà kinh doanh tiền tệ và người vay vốn. Chính
vì vậy cần tìm đến những điểm dung hoà khi tìm ra những mục tiêu trung gian,
những mục tiêu được coi là cấp bách nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
Việc lựa chọn các mục tiêu trung gian phải xuất phát từ việc thiết lập
càng chặt chẽ, càng tốt mối quan hệ qua lại thật hoàn hảo giữa mục tiêu trung
gian với mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian phải là mục tiêu mà NHTM
bằng việc sử dụng những phương tiện hiện có, có thể kiểm soát được, giải
quyết được.
Vậy những mục tiêu chính là mục tiêu về tỷ suất lợi tức và mục tiêu về
số lượng cung tiền, số lưọng có số tiền.
Tuy nhiên, NHTM không thẻ thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu ổn định
lãi suất và ổn định mức cung ứng tiền tệ.
Nếu đảm bảo mức cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận thay đối lãi suất
(hình a). Nếu muốn ổn định lái suất, thì buộc phải thay đổi lượng cung ứng tiền
tệ một khi lượng cầu tiền thay đổi (hình b). Trên thực tế, NHTM thường muốn
điều chỉnh lãi suất để đảm bảo mức cung ứng tiền.
Từ việc xác định được mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM chỉ đạo
chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng các công cụ để tác động vào thái độ của
ngân hàng, nhờ đó tác động đến lượng tiền cung ứng.

c. Ba công cụ chính mà NHTM sử dụng để tác động đến lượng cung ứng
tiền tệ, đó là:
9
(h×nh a)
L îng tiÒnM
M
S
Md
1
Md
2
i
1
i
2
i
(h×nh b)
L îng tiÒnM
1
M
2
M
S1
M
S2
Md
1
Md
2
2

1
i
i
+ Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ được tiến hành khi NHTW
thay đổi cơ số tiền bằng cách mua vào (nếu muốn làm tăng cơ số tiền) hoặc bán
ra các chứng khoán (nếu muốn làm giảm cơ số tiền) trên thị trường.
Ta cũng thấy rằng có rất Ýt khác biệt khi NHTW giao dịch trực tiếp với
các ngân hàng khác hoặc với các tổ chức công cộng phi ngân hàng. Các ngân
hàng luôn có tiền dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc để đề phòng sự bất định về
lãi suất trên thị trường tiền tệ. Mặt khác, các ngân hàng phải có một lượng
chứng khoán đáng kể khi cần vốn khả dụng, họ buộc phải bán ngay một phần
đó đi. Nếu NHTW bán chứng khoán cho trực tiếp chứng khoán cho hệ thống
chứng khoán cho hệ thống ngân hàng, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng sẽ
giảm ngay lập tức. Nếu NHTW bán chứng khoán cho công chúng, các cá nhân
sẽ trả lại bằng séc theo tài khoản của họ ở ngân hàng, làm cho dù trữ tiền mặt
của ngân hàng lại bị giảm sút. Như vậy là, cả hai trường hợp bằng nghiệp vụ
thị trường mở trong lĩnh vực chứng khoán tài chính NHTW làm biến đổi cơ số
tiền, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng khoản cho vay tiền ký gửi và lượng
cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở có hai loại:
Nghiệp vụ thị trường mở năng động: NHTW chủ động tiến hành các việc
mua bán chứng khoán để thay đổi mức dự trữ của NHTW, do đó làm thay đổi
cơ số tiền và thay đổi lượng cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động được tiến hành khi cần thiết phải đối
phó lại những tác động của các nhân tố khác làm ảnh hưởng đến cơ số tiền.
NHTW nhờ có nghiệp vụ này đã kiểm soát được hoàn toàn thị trường tự
do. Nghiệp vụ thị trường tự do linh hoạt và chính xác có thể được sử dụng ở
bất cứ mức độ nào. Nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại khi
có một sai lầm sẩy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường tự do, NHTW có
thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung

ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nã mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có
thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường tự
do.
Nghiệp vụ thị trường tự do có thể được hoàn thành nhanh chóng không
gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Và tác dụng của nghiệp vụ thị
trường tự do đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dụng
đó đối với cơ số tiền tệ.
10
+ Chính sách chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW tính với NHTM khi họ muốn
vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu NHTW tác động đến lượng dự trữ của
NHTM. Các NHTM phải cân đối lãi suất họ sẽ thu được một khoản cho vay
biên (có tính đến cả những nguy cơ và chi phí có kiên quan nếu có dòng tiền
mặt rót ra bất thình lình và lớn) với lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu
cao hơn làm tăng phí vay từ NHTW, như vậy các NHTM sẽ vay chiết khấu Ýt
hơn, và từ đó làm giảm bớt có số tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi
suất chiết khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân
hàng và khối lượng vay sẽ tăng lên, làm tăng cơ số tiền và tăngcung ứng tiền
tệ.
Những điều kiện dễ dàng của NHTW mà theo đó những khoản cho vay
chiết khấu được cung cáp cho các ngân hàng được gọi là cửa sổ chiết khấu.
NHTW có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng hai cách:
bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết khấu) như phần
trên đã trình bày hoặc bằng cách tác động đến số lượng vay thông qua việc
NHTW quản lý cửa sổ chiết khấu.
Các khoản vay chiết khấu mà NHTW cấp cho các NHTM có ba loại: tín
dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ, và tín dụng mở rộng.
• Tín dụng điều chỉnh, đây là loại tín dụng thông dụng nhất, nhằm giúp cho
các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị
tạm thời rót ra.

• Tín dụng thời vụ được cấp để đáp những ứng nhu cầu thời vụ của một số Ýt
ngân hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời
vụ.
• Tín dụng mở rộng được cấp cho các NHTM bị khó khăn nghiêm trọng về
khả năng hoàn trả do tiền gửi bị rót ra; thì không yêu cầu hoàn trả nhanh
chóng ngay. Những ngân hàng được cấp loại tín dụng này phải nộp một bản
đề nghị trình bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi
phục lại khả năng hoàn trả của ngân hàng.
Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và
cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn
sụp đổ tài chính. Vai trò quan trọng nhất của NHTW là trở thành người cho vay
cuói cùng, nó phải cung cấp dự trữ cho ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ
11
phá sản, do đó ngăn chặn những cưn sụp đổ ngân hàng và tài chính. Sử dụng
công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai
trò người cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành
chính sách tiền tệ thành công.
Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là nếu một ngân hàng biết được NHTW
sẽ cấp cho mình tín dụng chiết khấu khi ngân hàng gặp khó khaưn thì nó dám
mạo hiểm chấp nhận nhiều rủi ro hơn vì tin rằng NHTW sẽ đến giải quyết khó
khăn cho nã. Vai trò người cho vay cuối cùng của NHTW tạo ra như một vấn
đề may rủi về tinh thần.
So với công cụ nghiệp vụ thị trường tự do, việc sử dụng chính sách chiết
khấu để kiểm soát cung ứng tiền tệ hình như không có hiệu quả bằng các
nghiệp vụ thị trường tù do hoàn toàn là sự tự do hành động của NHTW trong
khi khối lượng cho vay chiêtài sản khấu lại không như vậy. NHTW có thể thay
đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa
các nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại hơn là đảo ngược
những thay đổi trong chính sách chiết khấu, việc can thiệp vào thị trường mở
sẽ được ưa chuộng hơn kỹ thuật tái chiết khấu vì nó mềm dẻo hơn.

Đối với các nghiệp vụ tái chiết khấu, chính các NHTW đóng vai trò bị
động, do phải đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NHTW. Trong hệ thống thị
trường mở, NHTW đóng vai trò chủ động bởi vì chính NHTW yêu cầu vốn khả
dụng cho thị trường tiền tệ. Phương thức thị trường mở không chỉ cung cấp vốn
khả dụng cho các NHTM trên thị trường tiền tệ mà còn rút vốn khả dụng ra
khỏi thị trường tiền tệ. Điều đó giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả
dụng ngân hàng và lãi suất trên thị trường.
Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy hai công cụ trên đều có những mặt ưu
nhược điểm riêng nhưng chúng đều có mục đích là đảm bảo tái cấp vốn của
NHTW cho NHTM.
Ngoài hai công cụ trên, NHTW còn sử dụng công cụ là quy định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc (Rd)
+ Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với các khoản
ký gửi mà NHTW yêu cầu NHTM phải duy trì.
Khoản dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ cần thiết để NHTM có thể
ứng phó với những luồng tiền mặt rót ra bất ngờ.
12
Nếu một khoản dự trữ bất buộc đang có hiệu lực, các NHTM có thể giữ
lượng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu nhưng không được giữ Ýt
hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống xuống thấp hơn lượng bắt buộc, họ
phải vay tiền mặt ngay, thường là vay của NHTW để khôi phục lại tỷ lệ dự trữ
bắt buộc
Khi NHTW quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà
các ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình hình nào thì hậu quả
của nó là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các ngân hàng, làm
giảm giá trị của thừa số tiền và giảm lượng cung tiền đối với bất kỳ cơ số tiền
bất định nào.
Một khoản dự trữ bắt buộc có tác dụng như một khoản thuế đánh vào các
ngân hàng bằng cách bắt buộc họ phải duy trì một khoản dự trữ cao hơn trong

tổng số các khoản có dưới dạng dự trữ ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các
khoản cho vay có lãi suất cao.
Hệ thống dự trữ bắt buộc tạo nên một mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền
do NHTM thực hiện (bằng việc làm xuất hiện tiền gửi) và nhu câù tái cấp vốn
tại NHTW. Hệ thống này rất mềm dẻo vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền
tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng ngân hàng, NHTW có thể điều chỉnh tỷ lệ dự
trữ bắt buộc. Đặc biệt, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể điều hoà vốn khả
dụng ngân hàng khi có nguồn thu ngoại tệ lớn. Hệ thống này có sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng bởi vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong
toàn hệ thống.
Ba công cụ kể trên đây có tác dụng tổng quát là kiểm soát khối lượng
cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối lượng tiền tệ nói chung. Nhưng
ngân hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ cho ai vay tuỳ sự xét đoán của mình,
điều đó có nghĩa là ba công cụ nên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà
ngân hàng trung gian cấp cho khách hàng. Nếu NHTW không áp dụng chính
sách kiểm soát tín dụng, ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng vào những nơi có
thể thu được lợi nhuận cao Ýt chú trọng tới những ngành có hoạt động lợi Ých
xã hội nhiều hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng sẽ giới hạn mức tối đa cấp cho
những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh
hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng gồm hai nội dung chính là hạn mức tài sản
và quản lý lãi suất.
13
CHƯƠNG II
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG SỰ CHUYỂN ĐỔI TỪ
NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG SANG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền
kinh tế chuyển tiếp
Qua qua trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường là hết sức khó khăn và phức tạp. Kinh tế trong giai đoạn

chuyển tiếp có khu vực kinh tế tư nhân nhỏ nhưng phát triển rất nhanh và
nhanh chóng và khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng co lại. Tuy nhiên, phần
lớn các trường hợp kinh tế tư nhân không xuất hiện ngay lập tức mà dần theo
thời gian và khu vực kinh tế Nhà nước cũng không hề có biểu hiện mất ngay.
Víi sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng được một hệ
thống tài chính vững chắc, lấy thị trường làm có sở để đảm bảo cho các thành
phần kinh tế hoạt độngtốt là một việc làm hết sức cần thiết.
Trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường các nhà ra quyết
định phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa các mục tiêu đã đề ra; mặc dù sự
chuyển đổi hướng tới nền kinh tế thị trường hàm ý rằng Chính phủ cần phải rút
khỏi vị trí thống trị của mình trong nền kinh tế nhưng mặt khác cũng cần phải
có hoạt động của Chính phủ để giải quyết những nhiệm vụ mới suất hiện. Một
trong số những nhiệm vụ đó là xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc hữu
hiệu, lấy thị trường làm cơ sở, thực thi một chính sách tiền tệ có hiệu quả.
Những nền kinh tế này thiếu hầu hết những tổ chức quan trọng của kinh
tế thị trường, thị trường cạnh tranh cho các nhân tố, các hàng hoá và dịch vụ,
một hệ thống tài chính cạnh tranh và được đầu tư vốn đầy đủ, một cơ cấu pháp
luật và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính.
Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hệ thống tài
chính đều ở trạng thái tồi tệ. Tài chính hầu như chỉ đóng vai trò ghi chép, lưu
giữ thụ động, trong khi việc phân bố các nguồn lực do chính kế hoạch tập trung
kiểm soát
Các quyết định tín dụng đều đã được lên kế hoạch trước. Hệ thống ngân
hàng bị suy kiệt vì nguồn vốn thấp, một số lượng lớn các khoản nợ không hoạt
động của các quốc doanh, các khoản cho vay gián tiếp tập trung theo khu vực
địa lý và khu vực ngành, ngân hàng tiết kiệm có mạng lưới chi nhánh nhỏ bé.
14
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng hầu như không có lãi, được Nhà nước bù
lỗ. Các nhà quản lý lại có rất Ýt kinh nghiệm trong việc đánh giá các đơn xin
vay, trong việc tính toán và giải quyết các rủi ro. Thị trường cổ phần và thị

trường trái phiếu thì hoặc là không tồn tại hoặc là rất nhỏ bé và không linh hoạt
trong việc chuyển đổi ra tiền mặt hoặc trên có sở trao đổi và các doanh nghiệp
đã tạo nên một mạng lưới rộng rái tín dụng giữa các hãng vỡi nhau.
Những khó khăn trên đây đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với hệ thống
tài chính.
Như trên đã nêu, xây dựng được một hệ thống tài chính vững chắc là
việc làm cần thiết song nó cũng đòi hỏi chúng ta luôn luôn phải thận trọng
trong từng bước đi không vội vã và có thể dẫn đến sự đổ bể của cả nền kinh tế.
Cần phải nắm vững những di sản để lại từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Không nên áp đặt đột ngột việc kiềm chế tín dụng gắt gao đối với các doanh
nghiệp, điều này có thể gây ra sự páh sản hàng loạt các doanh nghiệp. Đối với
quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, tài chính là - và cần phải là
chủ yếu trong việc tạo điều kiện chuyển quyền sở hữu từ Nhà nước sang khu
vực tư nhân, đảm bảo cho kết quả của quá trình tư nhân hoá sẽ thay đổi thực sự
cách thức hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác, việc xây dựng hệ thống
tài chính còn phụ thuộc vào tình hình tài chính thực tế mỗi nước. Mỗi nước đều
có những đặc điểm kinh tế riêng biệt, những thuận lợi và khó khăn khác nhau
trong quá trình phát triển do đó vấn đề đặt ra là mỗi nước phải xác định được
rõ ràng điểm nào là điểm mạnh, điểm nào là điểm yếu của mình để từ đó xác
định đâu là điểm chủ yếu, đâu là điểm thứ yếu trong hệ thống tài chính.
Chóng ta đều thấy rằng con đương dẫn đến sự thành công chính là xây
dựng hệ thống tài chính hữu hiệu và vững chắc, song điều này không có nghĩa
là tiến hành cải tổ đồng loạt. Ưu tiên tối cao phải giành cho việc cải tổ lại khu
vực ngân hàng .
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là nguồn cung cấp vốn cho hoạt
động ngắn hạn của Công ty và đưa ra các khoản đầu tư dễ chuyển đổi thành
tiền mặt mà ngân hàng có thể lưu giữ chứng từ. Ngân hàng cũng là nguồn cung
cấp chính vốn con nguời đã được đào tạo trong việc đánh giá các rủi ro tín
dụng và nhờ thế tạo ra nền tảng đảm bảo cho việc phân phối nguồn tài lực một
cách có hiệu quả. Việc cung cấp tài chính có hiệu quả sẽ trực tiếp tác động vào

việc nâng cao hiệu quả trong sản xuất nói riêng và trong xã hội nói chung.
15
2. Vai trò của khu vực ngân hàng
Mét trong những thử thách với những nền kinh tế kế hoạch tập trung
trước đây chính là sự phân quyền trong việc phân bố nguồn tài lực. Lý do hang
đầu trong động cơ kinh tế nhằm chuyển đổi sang cơ chế thị trường là sự nhận
thức được rằng kế hoạch hoá tập trung không đưa lại sự phân phối vốn có hiệu
quả và vì thế mà các nguồn tài nguyên vật chất không được sử dụng có năng
suất thấp. Về mặt này bản chất của thị trường là giảm tới mức tối thiểu ảnh
hưởng của các nhân tố phi kinh tế tác động leen sự phân phối các nguồn tài
nguyên và cũng chính nhờ đó mà cải thiện được hiệu suất đầu tư.
Vấn đề trọng tâm phải quyết định cái gì sẽ thay thế cơ chế kế hoạch hoá
làm trung gian giữa những thành phần kinh tế có nguồn tài chính thặng dư và
những thành phần kinh tế không có đủ vốn để cung cấp cho công việc đầu tư
của mình.
Theo truyền thống, vị trí trung gian này được thống trị bởi khu vực ngân
hàng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các hình thức trung
gian ngoài ngân hàng đã buộc ngân hàng phải nâng cao sự thành thạo trong
việc đánh giá rủi ro tín dụng và xác định những khoản đầu tư có lợi nhất.
Trong quá trình thực hiện điều này các ngân hàng đòi những nguồn tin có giá
trị về cả người cho vay và người vay tiền. Trên cơ sở đánh giá các nguồn thông
tin đó ngân hàng sẽ quyết định lựa chọn những khoản đầu tư có lơị nhất. Ngay
cả ở những nước công nghiệp phát triển, mặc dù có sự phát triển và đa dạng
của nhiều tổ chức tài chính song vai trò chủ đạo của khu vực ngân hàng đối với
sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận được.
Ở nước ta trước đây thì sao ? do hậu quả của lạm phát kéo dài, bắt nguồn
từ những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực trạng hoạt
động tiền tệ, tín dụng trong những năm 80 hết sức rối ren. Tiền mặt phát ra rất
lớn năm sau cao hơn năm trước với khối lượng lớn hơn nhiều lần nhưng vẫn
không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chức năng

trung tâm tiền mặt của ngân hàng bị thu hẹp. Tiền mặt quay ngoài vòng kiểm
soát của ngân hàng với tất cả tác động tiêu cực của nó đến đời sôngs kinh tế -
xã hội. Trong tín dụng, nhất là tín dụng ngắn hạn, dư nợ tăng rất nhanh và dần
thoát khỏi nguồn vốn huy động. Tốc độ tăng tín dụng vượt xa tốc độ phát triển
của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các chi nhánh ngân hàng cơ sở chỉ biết
cho vay, ỷ lại hoàn toàn vào vốn của NHTW bù đắp. Thiệt hại duy nhất thuộc
về NHNN người đại diện cho Chính phủ quản lý nguồn vốn đó. Hơn nữa, chức
16
năng quản lý Nhà nước, chức năng hướng dẫn thanh toán trong nền kinh tế
quốc dân của NHNN không thực hiện được. Mối liên hệ hữu cơ giữa tiền mặt
và tiền gửi bị phá vỡ. Phạm vi thanh toán qua tài khoản ở ngân hàng bị thu hẹp.
Thanh toán bằng tiền mặt ngày càng mở rộng.
Tình hình trên bắt nguồn từ tổ chức hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Từ khi ra đời, NHNN là ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là ngân hàng trực
tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý Nhà nước
về tiền tệ tín dụng, thanh toán.
Do hoạt động của nền kinh tế quốc dân trong cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, không thừa nhận thị trường nên không có thị trường t1. Hoạt động
ngân hàng tương đối đơn giản, không đòi hỏi sự năng động, linh hoạt trong
hạch toán kinh doanh vì ngân hàng thực chất như là cơ quan cấp phát tài chính
thứ hai, sau ngân sách cấp phát vốn cho xí nghiệp.
Quản lý nhà nước trong hệ thống ngân hàng một cấp không thoát khỏi
việc tuân thủ một cách máy móc những quy định, những chỉ thị, mệnh lệnh của
ngân hàng cấp trên về tiền tệ , tín dụng, thanh toán.
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng không ý thức đầy đủ về trách
nhiệm đối với nguồn vốn huy động chỉ biết cho vay theo chỉ tiêu kế hoạch của
cấp trên, càng xin được vốn nhiều càng cho vay rộng rãi, trong khi đó dịch vụ
ngân hàng lại yếu kém. Thái độ phục vụ khách hàng, phong cách giao dịch của
nhân viên ngân hàng còn nhiều khâu phiền hà, cửa quyền thiếu văn minh, lịch
sử cần thiết

Nói chung, có thể thấy rằng những điều kiện cần có để tiến hành hoạt
động kinh doanh ngân hàng, đến lúc này là chưa có. Và đây cũng chính là sự
cần thiết phải chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Từ thực trạng này, vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải tổ hệ thống ngân
hàng.
3. Việt nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân
hàng.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang đẩy mạnh từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế tiền tệ có sự quản lý của Nhà
nước, từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Việt
Nam mới đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp (thời kỳ quá độ), trong giai đoạn
tới để thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng mà Đảng
17
và Nhà nưóc đã vạch ra, mét trong những nhiệm vụ đầu tiên phải được xem xét
chính là hoàn thiện và phát triển lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ.
Tiền tệ và ngân hàng đóng vai trò như là người mở đầu, người nâng đỡ,
người điều chỉnh, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản
xuất, từ hình thái thô sơ nhất đến hình thái phức tạp, hiện đại và tinh vi nhất.
Hình thái tiền tệ phản ánh trình độ phát triển kinh tế, là thước đo lịch sử, là vật
kết tinh của xã hội và là động cơ cực mạnh cuốn hút và khơi dậy mọi tiềm Èn
kinh tế, xã hội.
Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển kinh tế là
không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng càng trở nên
quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị
trường. Trong nền kinh tế tiền tệ , mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến
hoạt động tài chính, tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân
hàng ;ngân hàng được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng
được tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch vụ
trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với quá
trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên phạm vi toàn xã hội.

Như vậy chúng ta có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của hệ thống ngân
hàng, đặc biệt là đối với Việt nam, một đất nước mà từ trước cho đến nay,
ngoài ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng như Công ty tài chính, hợp tác
xã tín dụng thì các hình thức tài chính phi ngân hàng còn chưa phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ
thống ngân hàng đã bắt đầu thực sự tiến hành với mốc đánh dấu là Nghị định
số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ về việc
tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt nam. hệ thống ngân hàng Việt nam được
phân định thành hai cấp là Ngân hàng Nhà nước Việt nam với chức năng quản
lý Nhà nước đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng, ngân hàng chuyên doanh hoạt
động như những ngân hàng thương mại theo chế độ hạch toán kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, để tiếp tục đổi mới hệ
thống ngân hàng, ngày 23/5/19909 Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban thường
vụ Quốc hội) đã thông qua Pháp lệnh ngân hàng. Hợp tác xã tín dụng Công ty
tài chính. Việc ban hành hai pháp lệnh Ngân hàng nói trên đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc đổi mới một cách toán diện các hoạt động tài chính, t1, đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới hệ thống Ngân hàng việt nam. Đặc
18
điểm, gần đây ngày 26/12/1997 chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký lệnh công
bố luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam (gồm 7 chương, 63 điều) và luật các tổ
chức tín dụng (gồm 11 chương, 131 điều). Điều này đảm bảo cho tính đồng bộ
của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, hoạt động của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính
tín dụng còn được sự hỗ trợ rất đắc lực của hàng loạt các luật, các Nghị định
như luật Công ty, luật phá sản, luật đất đai
Với sù quan tâm của Đảng và Nhà nước, và với sự nỗ lực của bản thân
ngành, trong thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt nam đã đạt được nhiều
thành tích đáng kể. Đó là bước đầu xây dựng được hệ thống ngân hàng thích
ứng với cơ chế tiền tệ, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cụ thể là những năm 1980 - 1986 nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng
khủgn hoảng nặng nề mà đặc trưng nổi bật là lạm phát phi mã, tốc độ phát triển
kinh tế giảm sút, mất cân đối cả đối nội và đối ngoại. Bước ngoặt đầutiên của
hoạt động ngân hàng từ năm 1988, khi các chính sách và biện pháp cải tổ mạnh
mẽ đã được ngành ngân hàng thực hiện : nâng lãi suất huy động lên mức cao
(12%/tháng đầu năm 1989) để thu hút khối lượng tiền mặt rất lớn đang nằm
đọng trong lưu thông, xoá bỏ cơ bản chế độ tỷ giá, áp dụng tỷ giá thả nổi có
điều tiết linh hoạt, đi đôi với điều chỉnh dần lãi suất xuống theo kết quả kìm
chế lạm phát, kích thích xuất khẩu, hướng nhập khẩu vào các mặt hàng phục vụ
sản xuất trong nước. Mặt khác, từ sau khi có Pháp lệnh ngân hàng, ngành ngân
hàng đã từng bước áp dụng các công cụ quản lý vĩ mô gián tiếp thay thế cho
các công cụ kiêmr soát trực tiếp trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đặc
biệt, NHNN đã áp dụng một loạt biện pháp nhằm thắt chặt lượng tiền cung ứng
và kết quả là tốc độ lạm phát phi mã trước đó 410,9% năm 1988 xuống còn
67,4% năm 1991, 17,4% năm 1992 và 5,2% năm 1993. Năm 1994, nÒn kinh tế
vẫn duy trì được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 1993 (8,8%) nhưng mức
lạm phát đã cao hơn dự kiến (14,4%) ; mức lạm phát năm 1995 là 12,7% năm
1996 là 4,5% và gần 4% năm 1997.
Những năm đầu của quá trình đổi mới ngân hàng, nền kinh tế nước ta
phải đối phó với những khó khăn gay gắt. Với những chính sách đổi mới của
Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là khống chế khối lượng tiền cung ứng, chính
sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá đã góp phần thúc đẩy sự
19
cải thiện nền kinh tế theo hướng phục hồi và phát triển. ngành Ngân hàng cũng
góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã
tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi bảo đảm có chọn lọc
việc duy trì những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng
cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và ngoài quốc doanh là
10% thì đến năm 1994, tỷ trọng đó là 65%, năm 1995 là 58,5% và 41,5%.

Trước đây, Ngân hàng Trung ương hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ
tốt hơn cho quá trình công nghiệp hoá, Ngân hàng đã chú ý mở rộng hoạt động
trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 85% và trung dài hạn 15% (năm
1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi 67% và 33%. Năm 1995 so với năm 1994,
dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng
24,6%.
Cơ cấu tín dụng ngân hàng qua các năm
Quốc doanh Ngoài quốc
doanh
Ngắn hạn Trung & dài
hạn
1991
1992
1993
1994
1995
90,0
88,0
72,0
65,0
58,0
10,0
12,0
28,0
35,0
41,0
85,0
84,0
77,0
67,0

75,0
15,0
16,0
23,0
33,0
25,0
Sự tăng trưởng tín dụng và các định hướng của nền kinh tế quốc dân đã
tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ
cấu kinh tế.
Hơn nữa, cùng với việc mở rộng cho vay đến tất cả các thành phần kinh
tế, hệ thống ngân hàng đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển khu vực nông
nghiệp và nông thôn, quan tâm đến cho vay khuyến khích xuất khẩu, cho vay
ứng dụng tiến bộ khoa học và áp dụng công nghệ mới. Nhiều công cụ và hình
thức huy động vốn đa dạng được đưa vào áp dụng trong hệ thống ngân hàng :
kỳ phiếu của NHTM, tiết kiệm xây dựng nhà ở Nhờ đó, vốn hoạt động của
các ngân hàng đã tăng liên tục với tỷ lệ khá cao : năm 1991 tăng 68%, năm
1992 tăng 19%, năm 1993 tăng 14%, 1994 tăng 59% và năm 1995 tăng 32%.
Nguồn vốn trong nước được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước ngoài là
20
iu kin c bn, ó gúp phn tớch cc tng u t, phc v s nghip cụng
nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc.
Cú th núi, nhng thnh qu bc u t c trong cụng cuc i mi
v hon thin h thng ngõn hng Vit nam ó gúp phn ỏng k vo s phỏt
trin chung ca nn kinh t trong ú khụng th thiu vai trũ c bit quan trng
ca NHTW Thng c ngõn hng Nh nc gi õy ó cú quyn kim soỏt
tng trng tin t thc hin c cỏc ch tiờu v lm phỏt v tng trng
kinh t lnh mnh. NHNN ó ch ng hn trong vic la chn cỏc bin phỏp,
chớnh sỏch can thip vo nn kinh t nhm t c cỏc mc tiờu ca chớnh
sỏch tin t.
Trờn th gii, tu thuc vo iu kin c th m mi quc gia cú mc

tiờu ca chớnh sỏch tin t khỏc nhau. Vit nam, chớnh sỏch tin t cú mc
tiờu ó c xỏc nh l thỳc y tng trng kinh t v kim ch lm phỏt t
u thp k 90 n nay, lm phỏt ó gim thp v c kim ch, ch cũn
14,3% nm 1994, 12,7% nm 1995 v 4,5% trong nm 1996, v gn 4% nm
1997. Trong khi ú, nn kinh t tng trng cao v n nh : 8,8% nm 1994 v
9,5% nm 1995 v 9,5% nm 1996.
mức tăng tiền tệ và lạm phát (%)
0
5
10
15
20
25
30
1994 1995 1996 1997
Cung ứng tiền Chỉ số giá CPI
từ đầu 12/1994 tổ ng l ợ ng tiền mở rộ ng thêm 12NH)
Số cuố i kỳ
Thnh cụng ú ca Vit nam trong quỏ trỡnh chuyn i sang kinh t th
trng, ó c d lun quc t ỏnh giỏ cao. Trong s cỏc nguyờn nhõn ca
thnh tu, ni lờn l vic iu hnh cú hiu qu lói sut v t giỏ trong nn
kinh t.
Lói sut l cụng c cú v trớ quan trng s mt trong h thng cỏc cụng
c ca chớnh sỏch tin t quc gia. V bn cht, lói sut l giỏ c mua bỏn vn,
cú tỏc dng iu ho cung cu vn, thỳc y tng tc lu chuyn vn trong
nn kinh t.
21
22,7
19,6
3,64,5

12,7
14,4
27,8
22,6
Ở Việt nam, cho đến hết năm 1996, lãi suất vẫn chưa trở thành giá cả
mua bán vốn trong nÒn kinh tế nên các ngân hàng thương mại thừa hàng nghìn
tỷ đồng vốn trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp vẫn rất lớn. Tuy nhiên
nhìn lại, năm 1996, đã đánh dấu mốc lịch sử trong cuộc cách mạng về lãi suất
của hệ thống ngân hàng Việt nam.
Các mức trần lãi suất cho vay tối đa được điều chỉnh
trong năm 1996 Đơn vị : %
Loại lãi suất 1/1/96 15/7/96 1/9/95 1/10/96
1. Cho vay ngắn hạn tối đa
2. Cho vay trung và dài hạn
3. Lãi suất cho vay của
NHTMCP nông thôn
4. Lãi suất cho vay của
QTDND
1,75
1,7
2,0
2,5
1,60
1,65
1,8
2,2
1,5
1,55
1,7
2,1

1,25
1,35
1,5
1,8
Từ ngày 1/1/1996, NHNN Việt Nam chấm dứt việc quy định cụ thể chi
tiết các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay thay bằng việc chỉ quy định
trần lãi suất cho vay tối đa, NHNN đã 4 lần quyết định hạ trần lãi suất. Theo
đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa lần lượt giảm từ 2,1% / tháng (trước
31/12/1995) xuống còn 1,75% từ 1/1/1996, 1,6% từ 15/7/1996 ; 1,50% từ
1/9/96 và 1,25%/tháng từ 1/10/1996. Phù hợp với thông lệ quốc tế, lãi suất cho
vay trung hạn được nâng lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1,55%/tháng
từ 1/9/1996 và 1,35% / tháng từ 1/10/1996. Đồng thời khoảng cách giữa lãi
suất cho vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay bằng ngoại tệ rút ngắn lại, tạo sự
bình đẳng hơn nữa giữa nội tệ và ngoại tệ.
Lãi suất cho vay giảm tới mức thấp nhất từ trước đến nay đã thúc đẩy
các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế vay vốn đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh. Điều đặc biệt là khác hẳn với các đợt điều chỉnh lãi suất trước đây
mặc dù 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất mà tình hình kinh tế - xã hội vẫn ổn định,
giá cả không có biến động. Điều đó cho thấy người dân đã đặt lòng tin vào hệ
thống ngân hàng, sức mua đồng đều được đảm bảo. Tuy nhiên, để cho công cụ
lãi suất của Việt nam đóng được vai trò của nó như ở các nước có nền kinh tế
tiền tệ thì cần phải làm nhiều việc.
22
Đó là cần sự linh hoạt trong buôn bán tiền. ở các nước trên thế giới,
NHTW chỉ công bố một loại lãi suất tái chiết khấu, còn ở Việt nam, NHTW cần
công bố nhiều loại trần lãi suất khác nhau, có tới 4 loại lãi suất cho vay của
NHTM Chính phủ nông thôn và lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân
(TTDND). Do đó, tính linh hoạt của lãi suất để thúc đẩy cạnh tranh chưa được
phát huy đúng ý nghĩa của nó, láiuất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn
là 1,5% và của QTDND là 1,8% / tháng đã làm cho nông dân là người phải chịu

lãi suất cao nhất trong nền kinh tế gấp 1,2 - 1,5 lần so với mức 1,25 % cho vay
ở thành thị. Trong khi thành phần kinh tế này đúng ra phải được ưu tiên hơn cả
bởi vì lợi nhuận thấp, lao động chủ yếu là thủ công lại đóng góp khối lượng
hàng hoá lớn nhất cho xuất khẩu : gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hàng thủ công,
thuỷ hải sản. Điều này có vẻ trái ngược với qui định chênh lệch lãi suất 0,35%.
Ngay từ đầu năm cho đến hết năm 1996, NHTW quy định cho các tổ chức tín
dụng (TCTD) phải thực hiện bình quân lãi suất đầu ra và đầu vào không được
vượt quá 0,35%. Đây được coi là một bước tiến (bỏ quy định cụ thể các mức lãi
suất tiền gửi ) nhưng lại có hai bức lùi bởi quy định này làm triệt tiêu động lực
cạnh tranh giữa các TCTD, họ không phấn đấu giảm chi phí hoạt động, không
tạo điều kiện mạnh dạn đầu tư cho đổi mới công nghệ
Bên cạnh đó, các công cụ điều chỉnh lãi suất chưa phát huy tác dụng.
Cho đến cuối năm 1996, hệ thống ngân hàng Việt nam đã phát triển đến giai
đoạn cao nhất về số lượng, cơ cấu và các loại hình ngân hàng : 4 NHTM quốc
doanh với 1200 chi nhánh, 54 NHTM cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần, 3
NH liên doanh với nước ngoài, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 70 văn
phòng đậi diện ngân hàng nước ngoài, 1 công ty liên doang cho thuế tài chính
và 1 công ty cho thuế tài chính của nước ngoài, 50 HTX tín dụng và hơn 700
QTĐND; ngoài ra còn có 5 công ty bảo hiểm, một công ty liên doanh bảo hiểm,
một công ty tái bảo hiểm và 6 quỹ đầu tư ở Việt Nam. Những tổ chức đó thông
qua công cụ lãi suất thực hiện huy động vốn và đầu tư vốn cho nên kinh tế thực
hiện mua bán vốn trực tiếp lẫn nhau hoặc trên thị trường liên ngân hàng, hình
thành nên lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
23
Thị trường nội tệ liên ngân hàng được NHTW đưa vào hoạt động từ năm
1992 và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu hoạt động từ cuối 1993. Đến
nay mới chỉ có khoảng hơn 50% số tổ chức tài chính tín dụng nói trên là thành
viên tham gia vào thị trường. Thị trường hoạt động không thường xuyên chưa
trở thành nơi buôn bán vốn giữa các thành viên, lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng chưa có tác dụng hình thành nên lãi suất cho vay bình quân trong

nền kinh tế. Các ngân hàng vẫn trực tiếp vay vốn lẫn nhau.
Cho đến hết năm 1996, tổng nguồn vốn của các tổ chức tài chính tín
dụng ở Việt nam lên tới gần 100.000 tỷ đồng, chi nợ cho vay và đầu tư cho nền
kinh tế gần 75.000 tỷ đồng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Khối lượng vốn
nay tiếp tục tăng nhanh trong những năm tới. Trong khi đó, Việt nam đang tiến
tới hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, có đông đảo các ngân hàng nước
ngoài đang hoạt động ở Việt nam Do đó, NHTW cần có biện pháp thu hút tất
cả các tổ chức nói trên tham gia là thành viên và giao dịch thường xuyên trên
thị trường liên ngân hàng ; NHTW cần chỉnh sửa những cơ chế, quy chế không
phù hợp, phát huy hiệu quả hoạt động của thị trường này để cho lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng có tác tác dụng điều chỉnh lãi suất bình quân trong nền
kinh tế. NHTW không nên quy định trần lãi suất cho vay tối đa, chỉ công bố lãi
suất cho vay tái chiết khâu mà thôi. Một vấn đề quan trọng là cần có các biện
pháp thanh tra, kiểm soát có hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
24
1994 1995 1996 1997( íc)
0
20
40
60
80
100
120
140
1994 1995 1996 1997( íc)
Tæng nguån vèn tÝn dông
§¬n vÞ : %
129
129
127

100
Cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, cùng với việc gia tăng lạm phát, đồng
tiền Việt Nam cũng suất giá nhanh, có thời điểm chiếm tỷ giá ngoại tệ lên tới
14.500 - 14. 600 VNĐ/USD. Nạn mua bán, trao đổi trên thị trường chợ đen
"phát triển", người dân đua nhau đầu cơ và cất trữ ngoại tệ. Sau đó, do NHTW
thực hiện nhiều biện pháp có hiệu quả, tỷ giá ngoại tệ đã giảm dần xuống và
trong hơn hai năm qua, ổn định ở mức 11.000 VNĐ/USD, mức dao động tỷ giá
trong năm 1995 chỉ có +0,4% và trong 14 tháng đầu năm 1996 là +0,2%
Với việc kiên trì điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, NHTW đã chống
đỡ được xu hướng tỷ giá giảm thấp do luồng ngoại tệ đổ vào VIệt Nam tăng
nhanh, thúc đẩy cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng,, tạo nên sự phát triển ổn
định của nền kinh tế. NHTW đã tăng cường kiểm tra tình trạng ngoại hối của
các NHTM và quy định các NHTM chỉ được quy định mức tỷ giá mua bán
ngoại tệ tăng giảm 1% so với mức tỷ giá công bố hàng ngày của NHTW.
Tuy nhiên, việc quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái trong thời gian có một
số vấn đề đang nổi lên là công tác quản lý việc mua bán, thanh toán, trao đổi
bằng ngoại tệ vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc. TRên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng nhiều khi cung nhiều hơn cầu, người bán không có người mua
hoặc ngược lại, người mua không có người bán. NHTW đã mua ngoại tệ vào
quá mức dự trữ của mình trong khi đó chỉ tiêu phát hành VNĐ cho mua ngoại
tệ cũng đã hết hoặc không bán ra kịp thời làm giảm sút ý nghĩa của tiền tệ
ngoại tệ liên ngân hàng.
Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao gấp 1,3 - l,6 lần lãi suất cho vay
ngoại tệ. Vậy vấn đề đặt ra là NHTW cần lựa chọn chiến lược lãi suất (lãi suất
trong nước lãi suất ngoại tệ) như thế nào cho hợp lý ?
Sang năm 1997, như chúng ta đã biết là năm nổ ra cơn bão tiền tệ ở
Đông Nam Á và khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng nền tài chính tiền tệ ở
Việt Nam vẫn đứng vững. Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, có thể là do
đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi, Việt Nam chưa có tiền
tệ chứng khoán, đầu tư nước ngoài vào Việt nam đều là đầu tư trực tiếp và tình

trạng đầu cơ tiền tệ chưa có ở Việt Nam nhưng trước hết là do NHTW đã có
những biện pháp, chính sách kịp thời và hợp lý để nhằm làm giảm tới mức tối
thiểu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế nước nhà.
Ngày 13/10/1997 Thống đốc NHNN Việt nam đã ký quyết định số
342/QĐ - NH3, cho phép các NHTM được phép mua bán ngoại tệ trong biên độ
25

×