Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN: VAI TRÒ CỦA FDI ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.38 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
ö õ
TIỂU LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
VAI TRÒ CỦA FDI ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Nhóm 2a:
Hoàng Lan Phương - 1001020123
Đào Thị Hồng Nhung - 0951010701
Nguyễn Kim Cúc - 1001070011
Vũ Thúy Ngân - 0951010697
Lớp: KTE406.4
Hà Nội, 11/2012
LỜI MỞ ĐẦU
Trong các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế thì vốn là một yếu tố quan trọng.
Đối với Việt Nam để đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần phải có một lượng vốn
rất lớn. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, thu nhập bình quân
đầu người chưa cao thì việc tích lũy được một nguồn vốn khổng lồ là việc không khả
thi do đó việc huy động vốn đầu tư nước ngoài để bổ sung cho tổng vốn đầu tư phát
triển có ý nghĩa chiến lược. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã
hội, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, là một cách tăng cường năng lực sản xuất
và chuyển giao công nghệ, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), tạo nguồn thu cho ngân sách và là một giải pháp tạo
việc làm cho người lao động đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Chính vì vai trò to lớn của vốn đầu tư nước ngoài, nhóm chúng em chọn đề tài “Vai
trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” nhằm nghiên cứu những lý
luận chung về FDI, vai trò đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, thực trạng, thách
thức từ đó đề xuất những giải pháp thách thức đó. Nội dung bài tiểu luận gồm có bốn
phần:
Phần I. Cơ sở lý luận về FDI
Phần II. Vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam


2
Phần III. Thực trạng, thách thức của FDI ở Việt Nam hiện nay
Phần IV. Một số giải pháp nhằm tăng huy động FDI ở Việt Nam
Trong quá trình làm tiểu luận, nhóm chúng em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
cô Nguyễn Thị Hải Yến, giảng viên môn Kinh tế phát triển. Tuy vậy, bài tiểu luận
cũng sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của cô và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn!
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ FDI
1. Khái niệm FDI
• Theo nguồn quốc tế:
Khái niệm của IMF : “FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được
những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnhthổ của một nền kinh
tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý
thực sự doanh nghiệp.”
Khái niệm của OECD : “Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm
thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản
đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên
bằng cách :
- Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền
quản lý của chủ đầu tư.
- Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.
- Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
- Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm)
3
- Quyền kiểm soát : nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên.”
• Theo nguồn Việt Nam
Luật đầu tư năm 2005 mà quốc hội khoá XI Việt Nam đã thông qua có các kháiniệm
về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài nhưng
không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, có thể “gộp” các khái

niệm trên lại và có thể hiểu “FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu nước ngoài bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ
vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Kết luận:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và
phản ánh lợi ích dài hạn và quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế
(được gọi là chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh
nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi
là doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp chi nhánh hay chi nhánh nước ngoài)
- FDI chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kế đối với việc quản
lý doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác.Tiếng nói hiệu quả trong quản lý phải đi
kèm với một mức sở hữu cổ phần nhất định thì mới được coi là FDI
2. Đặc điểm của FDI
- FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định
hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm soát
hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa vào tỷ
lệ này.
4
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải
lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.
Kết luận:
- Điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm soát, quyền

quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính ổn định và hiệu
quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà I trực tiếp sử dụng vốn.
Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các hình thức đầu tư khác nếu thấy
sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư. Do đó mức độ ổn định của dòng vốn đầu
tư đối với host country cao hơn. Nhược điểm là nước chủ nhà bị phụ thuộc vào kinh tế
ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, lợi
nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác nguồn
nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế khác của nước nhận đầu tư, tranh thủ
những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư. Tuy nhiên hình thức này mang tính rủi ro cao
vì anh ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư chịu sự điều
chỉnh từ phía nước nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển nhượng vốn.
3. Tác động của FDI
a. Đối với nước chủ đầu tư là nước công nghiệp phát triển
Tác động tích cực
- Bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế.
- Sử dụng lợi thế của nơi tiếp nhận vốn giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
5
và tỷ suất lợi nhuận, khắc phục được tình trạng thừa vốn tương đối.
- Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, khắc phục tình trạng lão hoá sản phẩm.
- Tìm kiếm các nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu ổn định
- Đổi mới cơ cấu sản phẩm, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tác động tiêu cực
- Quản lý vốn và công nghệ
- Sự ổn định của đồng tiền
- Cán cân thanh toán quốc tế
- Việc làm và lao động trong nước
b. Đối với nước nhận đầu tư là nước đang phát triển
Tác động tích cực

- Bổ sung vốn
- Chuyển giao công nghệ
- Tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
- Góp phần tích cực vào các cân đối lớn của nền kinh tế
- Củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới
Tác động tiêu cực
- Giảm sút các công ty địa phương
- Độc quyền nếu không có một hệ thống chính sách cạnh tranh hiệu quả
6
- Mặt trái của “công nghệ trọn gói”
- Lối sống, các vấn đề xã hội
7
PHẦN II. VAI TRÒ, ẢNH HƯỞNG CỦA FDI ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Khu vực kinh tế có vốn FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
1. Về mặt kinh tế
• Vai trò của FDI tới đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế
Đối với các nền kinh tế đang phát triển, đầu tư nội địa vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng đầu tư xã hội. Tuy nhiên, vốn FDI vẫn giữ vai trò quan trọng trong thúc đầy và
duy trì tăng trưởng kinh tế. Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986 với
xuất phát điểm rất thấp, FDI được xem là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư
trong nước, đáp ứng nhu cho đầu tư phát triển kinh tế. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm
tỷ trọng lớn trong đầu tư xã hội những năm 1988-1996 (31% tổng vốn đầu tư năm
1994), do kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Dưới tác động cuả kinh tế thế giới và chính sách trong nước, tỷ trọng vốn FDI trong
tổng đầu tư xã hội giai đoạn 1998-2004. Sự thay đổi trong chính sách đầu tư đã thu hút
vốn đầu FDI tăng từ năm 2005.

Đặc biệt, trong khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới từ năm 2007, tỷ trọng vốn FDI
trong tổng đầu tư tăng lên đáng kể (30.9% năm 2008). Sự tăng lên này một phần do kỳ
vọng cao đối với tăng trưởng GDP ở các nước đang phát triển từ đó tăng cơ hội cho
hoạt động đầu tư cùng với sự linh hoạt trong chính sách để đối phó với diễn biến kinh
tế đặc biệt là ở các nước Châu Á.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP.
Từ 2% năm 1991, khu vực này đã chiếm 18.72% năm 2010 và năm 2011 là 19.3%.
Theo đánh giá của các chuyên gia, giai đoạn đến 2015, khu vực FDI có thể đóng góp
đến 21% GDP, chiếm 20-25% tổng vốn đầu tư. Khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về
tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển
năng động nhất.
8
• Vai trò của FDI trong nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu
Vốn FDI vào Việt Nam tập trung vào khu vực công nghiệp. Tính đến 7 tháng đầu năm
2012, tỷ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo đã đạt 68,5%. Nhờ có
các dự án sử dụng vốn FDI, Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan
trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ
tầng… Trong những năm gần đây, vốn FDI vào các hoạt động lien quan đến kinh
doanh tài sản và dịch vụ tư vấn tăng lên nhanh chóng, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
vốn FDI vào Việt Nam. Do sự tăng chi phí sản xuất ở Trung Quốc, hiện nay Việt Nam
và một số nước thành viên ASEAN đã thu hút được vốn FDI đầu tư vào các ngành sản
xuất do chi phí sản xuất rẻ.
Về xuất khẩu, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có sự phát triển với tốc độ nhanh
chóng trong trị giá xuất khẩu hàng hóa, năm 2010 đạt 39086.5 triệu USD, chiếm
khoảng 54.1% tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa cả nước. Năm 2011, tổng kim ngạch
xuất khẩu của khu vực FDI bao gồm cả dầu thô đạt 54,5 tỷ USD, chiếm 59% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 39% so với năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu 7
tháng đầu năm 2012 đã lên tới 34,3 tỷ USD, trong đó một số mặt hàng công nghệ cao
tăng trưởng rất nhanh: điện thoại và linh kiện đạt 4,7 tỷ USD, tăng 129,8%; điện tử,
máy tính và linh kiện đạt 3,4 tỷ USD, tăng 84,9%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt

2,7 tỷ USD, tăng 43,5%.
Sự tăng lên nhanh chóng này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của vốn FDI tới
xuất khẩu. Tuy FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực
có vốn FDI không cao do các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các
dây chuyền lắp ráp có quy mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính.
• Vai trò của FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô
Vốn FDI có vai trò quan trọng trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Thu ngân
sách từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng qua các năm . Với
những chính sách đầu tư của Nhà nước, các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách
khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt
9
động. Cùng với đó, FDI đã góp phần quan trọng trong tăng thặng dư tài khoản vốn,
nhìn chung, góp phần cải thiện cán cân thanh toán.
Bên cạnh đó, FDI không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho
phát triển kinh tế -xã hội mà kèm theo đó là việc nâng cao năng lực kỹ thuật, trình độ
công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, bí quyết kinh doanh và cải thiện năng lực
maketing. Các doanh nghiệp FDI cũng đã và đang thể hiện vai trò tạo động lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa.
2. Về mặt xã hội
Nguồn vốn FDI có vai trò không thể phủ nhận đối với tạo công ăn việc làm, cải thiện
nguồn nhân lực, nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống cho một bộ phận không
nhỏ dân cư
Kết quả Báo cáo do UNIDO tiến hành trên cơ sở hợp tác với Cục Đầu tư nước ngoài
(FIA), Bộ Kế hoạch đầu tư (MPI), Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI)
và Tổng Cục thống kê (GSO) vào tháng 3/2012 một lần nữa khẳng định quan điểm đã
được thừa nhận đó là FDI có tác động tích cực đến tạo công ăn việc làm cho lao động
Việt Nam. Đa số cơ hội việc làm trong các doanh nghiệp ngành chế biến có vốn đầu tư
nước ngoài thu hút lao động tham gia sản xuất trực tiếp mà đáng kể là lao động nữ,
đáng chú ý như trong ngành dệt may. Báo cáo cũng chỉ ra FDI xuất hiện chủ yếu trong
các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật công nghệ cao. Số

lao động này được tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, có tính kỷ luật cao, được
học tập các phương thức lao động tiên tiến, được đào tạo chuyên nghiệp… Trong khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài, thu nhập trung bình của lao động cao gấp 2 lần so với
các doanh nghiệp cùng ngành một phần đánh giá chất lượng lao động khu vực này và
một phần thể hiện vai trò cải thiên đời sống, nâng cao phúc lợi xã hội của FDI.
Hơn nữa, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể
thay thế dần các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm các chức vụ quản lý các
quy trình công nghệ hiện đại. Rõ ràng, với sự đầu tư vốn FDI từ các nước có khoa học
công nghệ tiến bộ, chất lượng lao động trong các dự án sử dụng vốn FDI đã tăng lên
đáng kể.
10
Bên cạnh số việc làm do FDI trực tiếp tạo ra, khu vực sử dụng vốn FDI còn gián tiếp
tạo việc làm trong ngành dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong ngành công nghiệp
phụ trợ trong nước trong điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc
hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp.
3. Về quan hệ đối ngoại
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phần quan trọng trong kinh tế đối ngoại, thông qua
đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc
tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết
kinh tế giữa các nước trên thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế
trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế và sự vận động chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung của thế giới
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và chính đầu tư
nước ngoài sẽ góp phần làm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến 9/2010 đạt 190 tỷ USD vốn đăng ký, từ 2006 đến
nay cam kết ODA dành cho Việt Nam đạt gần 32 tỷ USD, thể hiện lòng tin của các
nhà đầu tư và cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Quan hệ đối ngoại được mở rộng,
vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng quảng bá hình ảnh Việt Nam,
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới, củng cố và mở rộng quan hệ hợp

tác với các nước và các tổ chức quốc tế, bảo vệ chủ quyền biên giới lãnh thổ, biển và
hải đảo, khuyến khích, động viên đồng bào ta ở nước ngoài gắn bó với quê hương.
• Mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường thế giới
Vai trò này của FDI thể hiện rõ nhất ở các nước áp dụng chính sách thu hút FDI hướng
vào xuất khẩu. Sự xuất hiện của các dự án FDI đi kèm với công nghệ, máy móc, thiết
bị hiện đại đã giúp các nước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các mặt hàng xuất
khẩu. Bên cạnh đó, thông qua các mối quan hệ sẵn có của các nhà đầu tư nước ngoài,
hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn FDI được tiếp cận với thị trường thế giới.
11
• Củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận động tất yếu của
các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, khu
vực hoá và quốc tế hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động của mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Đối với các nước đang và kém phát triển
nói chung cũng như Việt Nam nói riêng thì quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc
tế là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên
thế giới, có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân
công lao động quốc tế. Trong xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế
hiện nay, mức độ thành công của mở cửa và hội nhập kinh tế với thế giới có tác động
chi phối mạnh mẽ tới sự thành công của công cuộc đổi mới, đến kết quả của sự nghiệp
CNH-HĐH cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài cũng như khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đặc biệt là hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã trở thành một động lực quan trọng thức đẩy
quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của tất cả các quốc gia nói
chung và Việt Nam nói riêng, là nhân tố cơ bản có vai trò đặc biệt quan trọng tác động
tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế
Hoạt động FDI góp phần làm phong phú, đa dạng và sâu sắc các mối quan hệ kinh tế
đối ngoại của các nước đang phát triển. Nền kinh tế trong nước dầndần tham gia sâu

rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này tạothuân lợi cho các nước
tham gia vào các hiệp định hợp tác song phương, đa phương. Ngoài ra, FDI còn góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển theo hướng tích cực: tỷ
trọng của ngành nông nghiệp giảm dần, thay vào đó là tỷ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng dần. Bên cạnh đó, FDI giúp tăng trưởng kinh tế, tăng ngân sách nhà
nước…
4. Về mặt môi trường
Mặt khác FDI cũng tạo cơ hội cho các nước sở tại khai thác tốt nhất những lợi thế của
mình về tài nguyên thiên nhiên cũng như vị trí địa lý nó góp phần làm tăng sự
12
phong phú chủng loại sản phẩm trong nước cũng như làm tăng sức cạnh tranh cho sản
phẩm trong nước với sản phẩm của các quốc gia trên thế giới vì thế tăng khả năng xuất
khẩu của nước ta
Ngoài những tác động kể trên, FDI còn tác động đáng kể đến các yếu tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế như: chất lượng môi trường, cạnh tranh và độc quyển, chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế.
Mặc dù chất thải của các công ty nước ngoài, nhất là trong các ngành khai thác và chế
tạo, là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng ô nhiễm môi
trường trầm trọng ở các nước đang phát triển tuy nhiên có nhiều nghiên cứu cho thấy
các TNCs rất chú trọng và tích cực bảo vệ môi trường hơn các công ty nội địa. Bởi vì,
quy trình sản xuất của họ thường được tiêu chuẩn hoá cao nên dễ đáp ứng được các
tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của nước chủ nhà. Hơn nữa, các TNCs thường có tiềm
lực tài chính lớn do đó có điều kiện thuận lợi trong xử lý các chất thải và tham gia góp
quỹ, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
13
PHẦN III. THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC CỦA FDI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
1. Thực trạng
Việt Nam luôn là quốc gia thu hút nhiều vốn đầu tư FDI lớn trên thế giới và tăng
hàng năm.

Nguồn: />14
Trong 20 năm đầu sau đổi mới, FDI vào Việt Nam chủ yếu cho các ngành tận dụng lao
động giá rẻ, công nghiệp khai khoáng,… là các ngành có giá trị gia tăng thấp. Mặc dù
có những hạn chế nhất định nhưng FDI cũng đã đóng góp một phần lớn vào công cuộc
đổi mới của Việt Nam. Trước tiên, FDI đóng góp phần vốn lớn cho tăng trưởng kinh tế
Việt Nam. Số liệu thống kê bảng 1 cho thấy FDI tăng qua các năm đặc biệt là sau năm
2006 với mức tăng mạnh đột biến do là năm 2006 thì Việt Nam chính thức trở thành
thành viên WTO. Vốn là một trong các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế do đó
lượng FDI tăng cũng thúc đẩy cho tăng trưởng kinh tế.
Không chỉ vậy FDI còn giúp cho Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ thông qua
việc khi các công ti nước ngoài đầu tư vào họ sẽ đào tạo nhân công, trình độ quản lí,
và đặc biệt là chuyển giao công nghệ sản xuất vì vậy mà Việt Nam có được những
người thợ có tay nghề cao hơn, nắm bắt được những tiến bộ công nghệ của thế giới.
FDI cũng tạo them công ăn việc làm cho Việt Nam, giúp giảm bớt tình trạng thất
nghiệp, sử dụng tốt có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Xu hướng ban đầu
FDI vào Việt Nam để tận dụng nguồn nhân lực giá rẻ, gia tăng vòng đời sản phẩm,…
mục đích chủ yếu là xuất khẩu sang các nước phát triển. Do đó FDI cũng góp phần
thúc đẩy xuất khẩu từ đó làm tăng thặng dư thương mại, giúp giảm thâm hụt thương
mại. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI cũng đóng góp đáng kể vào ngân sách quốc gia
với số thuế lớn
Tỷ trọng FDI về số lượng DN và đóng góp thuế thu nhập (nguồn Vietnam Report)
Tuy nhiên FDI vào Việt Nam lúc này chỉ là vào các ngành tạo rta ít giá trị chủ yếu là
gia công, lắp ráp mà chưa phải là những ngành có công nghệ cao. Thậm chí các ngành
15
gia công như may mặc thì lại có nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên phần giá trị do
công nhân Việt Nam tạo ra rất ít trong sản phẩm, hay như ngành lắp ráp thì nguyên
liệu chủ yếu nhập khẩu, công nhân Việt Nam chủ yếu lắp ráp nên chỉ là lao động giản
đơn, tạo ít giá trị. Cùng với dó là các dự án FDI gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
như công ti VEDAN gây hậu quả nặng nề đến ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững
của Việt Nam.

Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của cuôc khủng hoảng tài chính 2008 mà
FDi vào Việt anm cũng như các nước đang phát triển đã thay đổi phương thức: trước
kia thì FDI vào để sản xuất rồi sau đó xuất khẩu nhưng hiên nay thì FDI đầu tư vào
một phần để tân dụng thị trường nước chủ nhà. Nhưng Việt Nam lại đứng trước thách
thức làm mất tính hấp dẫn thu hút FDI bởi giá nhân công tăng cao, lao động thiếu trình
độ cao, cơ sở hạ tầng, kĩ thuật thấp, … FDI vào Việt Nam vẫn tăng sau năm 2009
nhưng lúc này yêu cầu về vốn không còn cấp thiết như thời kì trước nữa mà chính là
công nghệ. Nên một số ngành có nhiều FDI vào có thể gây ra tình trạng bão hòa, thiếu
hụt năng lượng, cơ sở hạ tầng,…
Một số vấn đề có tính thời sự đối với hoạt động FDI
Trong khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với các bộ, ngành trung ương và cơ quan nhà
nước địa phương quản lý FDI đang trong quá trình xây dựng định hướng mới về chính
sách FDI, cần quan tâm đến một số vấn đề có tính thời sự đối với hoạt động FDI trong
6 tháng cuối năm 2012 và năm 2013. Một mặt, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, nước
ta đang đứng trước cơ hội mới, trong đó có hoạt động FDI, với một số nhân tố chủ yếu
là:
1. ASEAN đang tiến gần đến Cộng đồng Kinh tế, trong đó có thị trường chung về
hàng hóa và dịch vụ, khu vực đầu tư chung;
2. Từ năm 2008, với Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), quan
hệ giữa hai nước đã có bước phát triển tốt đẹp cả về chính trị và kinh tế. Nhật Bản là
nước đứng đầu về ODA và FDI của Việt Nam;
16
3. Việt Nam và EU đã tiến thêm một bước phát triển mới, đánh dấu bằng Hiệp định
Đối tác và hợp tác toàn diện (PCA) vừa được ký kết, đang tiến tới FTA có lợi cho
thương mại hai chiều;
4. Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ tiếp tục được cải thiện. Thương mại hai chiều giữa
Việt Nam với Hoa Kỳ gia tăng nhanh chóng, nhiều nhà đầu tư từ Hoa Kỳ tìm kiếm cơ
hội đầu tư tại Việt Nam. Trong khi theo kết quả khảo sát do Công ty Tư vấn Boston
Consulting thực hiện tháng 2/2012 trên 106 công ty Hoa Kỳ tại Trung Quốc, thì “37%
công ty có doanh thu hàng năm trên 1 tỷ USD đang lên kế hoạch hoặc cân nhắc việc

dời sản xuất về Hoa Kỳ. Tỷ lệ này đối với các công ty có doanh thu thường niên từ 10
tỷ USD trở lên là 48%. Gần hai phần ba số doanh nghiệp đã trả lời rằng: làm ăn tại
Trung Quốc tốn kém hơn kế hoạch trên giấy rất nhiều”
Nếu biết tranh thủ cơ hội bằng hệ thống giải pháp thích hợp với từng đối tác trên đây
thì sẽ thu hút thêm FDI có chất lượng cao hơn để góp phần sớm khôi phục tỷ lệ tăng
trưởng GDP hàng năm đã đạt được 7,5 - 8% theo hướng bền vững.
Mặt khác, nước ta đang đối mặt với những vấn đề nổi cộm về môi trường đầu tư, trong
đó có nguyên nhân từ tình trang suy thoái kinh tế, nhưng nguyên nhân chủ yếu là chậm
trễ, kéo dài trong việc khắc phục những yếu kém về quản lý kinh tế vĩ mô đã được
phát hiện từ nhiều năm. Thủ tục cấp phép cho hoạt động FDI còn rất nhiều bất cập, có
những hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư đã nộp 6 tháng trước vẫn chưa có kết
quả. Quy trình này quá dài và gây nhiều trở ngại cho doanh nghiệp và cần cải thiện
nhanh chóng để giúp nhà đầu tư yên lòng rót vốn. Ngoài ra, tình trạng thiếu điện, giá
điện tăng, thủ tục hành chính rườm rà, khó khăn trong việc đào tạo và giữ chân lao
động cũng được coi là thử thách không nhỏ của doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư
vào Việt Nam.
Những ý kiến đa chiều của đại diện các tổ chức quốc tế, nhà đầu tư có thể chưa phản
ánh đầy đủ những tiến bộ trong điều hành kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính
mà Chính phủ Việt Nam đã và đang thực hiện.
2. Thách thức
17
Tăng trưởng kinh tế sẽ liên quan chặt chẽ đến đầu tư nội địa, đặc biệt vào các lĩnh vực
sàn xuất giá trị lớn.
Việt Nam trong quá trình chạy đua toàn cầu để thu hút vốn đầu tư. Sự cạnh tranh là rất
lớn. Các quốc gia được các nhà đầu tư xếp hạng phụ thuộc vào các yếu tố như sự ổn
định kinh tế và chính trị, hiệu lực của luật pháp, mức thuế, sự khuyến khích của chính
phủ đối với nhà đầu tư, sự bãi bỏ các quy định hạn chế quyền sở hữu của các nhà đầu
tư nước ngoài trong những lĩnh vực kinh doanh chính, vấn đề bảo vệ sở hữu trí
tuệ Trong khi đó, nhiều yếu tố trong số này của Việt Nam được đánh giá cao.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần cấp thiết thúc đẩy việc cấp tín dụng

ngân hàng, đặc biệt cho các DN vừa và nhỏ, đa số là các DN gia đình có số lượng
nhân viên nhỏ hơn 20 người nhưng đây là mô hình tạo ra nhiều việc làm nhất. Điều
này rất quan trọng cho tăng trưởng Việt Nam trong tương lai. Bên cạnh đó, có rất
nhiều các nước đang phát triển gặp phải vấn đề các DN Nhà nước hoạt động không
hiệu quả và lâm vào cảnh nợ nần. Đó là vấn đề Việt Nam cần phải giải quyết, tuy
nhiên nếu nóng vội đưa ra các biện pháp rất có thể sẽ gây hậu quả.
Mặc dù Việt Nam đã thu hút được những nguồn vốn khổng lồ từ các nhà đầu tư nước
ngoài, nhưng vẫn còn những tồn tại cần phải giải quyết trong môi trường đầu tư.
Về cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài không đủ yêu cầu là yếu tố quan trọng,
gây áp lực tâm lý cho các nhà đầu tư, nhất là hạ tầng về giao thông còn yếu kém. Sự
phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và dòng
đầu tư của nước ngoài, đặc biệt là việc gây cản trở cho quá trình hoạt động xuất nhập
khẩu. Việc cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông, cảng biển chưa đủ độ
tin cậy đang làm tăng thêm chi phí thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp. Cụ thể,
thiếu điện dẫn đến cắt điện luân phiên, cắt điện không có kế hoạch khiến các doanh
nghiệp gặp khó khăn trong quá trình điều hành và hoàn thành quá trình sản xuất.
Ngoài ra, nước ta còn gặp khó khăn đối với việc xây dựng, phát triển cũng như bảo trì
các cơ sở hạ tầng do các thiệt hại bởi thiên tai và bệnh dịch hoành hành.
Chính sách giá: chưa hợp lý, chính sách tiền tề và chính sách tài khóa cần phải linh
hoạt và thực tế hơn nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát cao và chi phí đầu tư vào
18
Việt Nam cao, chi phí cho đất đai ngày càng tăng làm giảm khả năng cạnh tranh của
sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. Không những thế, tồn tại sự tăng
trưởng tín dụng, xử lí nợ xấu của ngân hàng chậm giải quyết cũng gây cản trở đến việc
thu hút vốn của các nhà đầu tư.
Về môi trường pháp lý: hệ thống toà án và thực thi luật pháp còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân do các thủ tục hành chính còn rườm rà và chi phí cao, thiếu tính minh
bạch, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu
đồng bộ và nhất quán gây nhiều khó khăn cho cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như
hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự

án (hầu hết các địa phương đều phản ánh vấn đề này). Đặc biệt là các công ty luật, đa
số hoạt động kém hiệu quả và chi phí lớn đã làm giảm lòng tin đối với nhà đầu tư, hay
như kỷ cương trong lĩnh vực ngân hàng còn yếu kém.
Về công tác quy hoạch: Công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế khắc phục còn
chậm. Công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu
và chưa đồng bộ bởi các địa phương có quan tâm nhưng chưa triệt để đặc biệt trong
bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp giấy phép và đầu tư về các địa phương, dẫn đến
tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá nhiều giấy phép cho các dự
án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả năng dư thừa, lãng phí, hiệu quả
đầu tư thấp và gây ra số lượng tương đối lớn các doanh nghiệp phải giải thể, giảm quy
mô hay thậm chí là ngừng hoạt động.
Về nguồn nhân lực: Như đã nói ở trên, chủ trương của chính phủ Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay là hướng tới việc thu hút nguồn vốn FDI có chất lượng và hiệu quả.
Hiện tại, chúng ta có hơn 13.500 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký là 200 tỷ USD. Tuy nhiên trong bức tranh chung đó, theo một số chuyên gia
kinh tế, việc thu hút, sử dụng và quản lý vốn FDI thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn
chế. Đó là việc chưa tận dụng được hiệu quả nguồn vốn này, việc thu hút các dự án
thuộc lĩnh vực công nghệ cao còn hạn chế, chuyển giao công nghệ còn chậm, thậm chí
một số địa phương đã lạm dụng các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài mà không
tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội. Nguyên nhân trong đó phải kể đến là do chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam. Nó đã từng là yếu tố được xem là lợi thế thu hút các dự
19
án đầu tư vì lao động giá rẻ.Tuy vậy, nay đã không còn giữ được sức hấp dẫn như
trước vì nguồn nhân lực của Việt Nam tuy rất dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo
chưa cao, lao động có trình độ quản lý và tay nghề cao còn rất thiếu. Tính đến nay
chúng ta chỉ mới có khoảng 32% lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật nhưng
chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa cao, chưa đồng đều và sử dụng chưa hiệu quả,
trong khi đó con số này của các nền kinh tế công nghiệp mới là 60 - 70%. Ngoài ra lao
động Việt Nam có thể lực yếu, tác phong công ngiệp và trình độ ngoại ngữ kém.
Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng thiếu công nhân lành nghề là nguyên nhân quan

trọng khiến họ không sử dụng hết công suất nhà xưởng. Vì vậy, chúng ta cần đặc biệt
quan tâm mục tiêu cải thiện, nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực. Kinh nghiệm nhiều
nước cho thấy việc chủ động chuẩn bị và sẵn sàng cung cấp nhân lực là một lợi thế
cạnh tranh quan trọng, có tác động lớn đến việc các nhà đầu tư đi đến quyết định đầu
tư.
Về xúc tiến đầu tư : Vấn đề này cũng là một trong những yếu tố tác động không nhỏ
đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên hiện nay, nó còn nhiều bất
cập, chưa thực sự hiệu quả, chưa phong phú, còn chồng chéo và mâu thuẫn gây lãng
phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu
tư, thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến
đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động. Tại buổi tọa đàm
chiều ngày 16/10/2012 vừa qua trao đổi về kinh nghiệm xúc tiến đầu tư (XTĐT) giữa
các đại diện XTĐT tại nước ngoài của Bộ KH&ĐT với các địa phương phía Bắc, Các
đại diện cũng nêu ra một số bất cập hiện nay trong công tác XTĐT cần khắc phục là
thời gian chuẩn bị một số hoạt động quá gấp gáp, thông tin không đầy đủ, đoàn đi quá
đông người dẫn đến hiệu quả công tác XTĐT chưa cao. Để công tác XTĐT đạt hiệu
quả thì việc sớm hoàn thiện các tài liệu XTĐT rất quan trọng. Nếu tài liệu XTĐT
thiếu, nội dung không đầy đủ thì nhà đầu tư sẽ không thể có được cái nhìn toàn diện,
đồng thời không thấy được những lợi ích khi tham gia đầu tư dự án. nếu các địa
phương tổ chức biên tập tài liệu XTĐT một cách bài bản, chuyên nghiệp, thậm chí trả
lời trực tiếp với nhà đầu tư bằng ngôn ngữ bản địa, giới thiệu các dự án đầu tư bằng
những thông tin rõ ràng, thì sẽ tăng sức hấp dẫn đầu tư rất nhiều. đã đến lúc hoạt động
XTĐT không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu chung chung rằng Việt Nam rất có tiềm
20
năng, mà phải thay đổi. Các bộ hồ sơ XTĐT phải đề cập đầy đủ, cụ thể, chi tiết thế
mạnh của Việt Nam, các lĩnh vực, ngành nghề cụ thể mà chúng ta quan tâm.
Vấn đề môi trường : Việc xử lý chất thải của các dự án FDI tập trung tại các khu công
nghiệp đã và đang ảnh hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội. Vấn
đề bảo vệ môi trường tuy đã được cải thiện, song vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp
chưa tuân thủ nghiêm túc pháp luật về môi trường. Nguyên nhân là do ý thức của

doanh nghiệp thứ cấp, kể cả doanh nghiệp là chủ đầu tư hạ tầng nhiều khi chưa cao,
vẫn đặt lợi ích kinh tế lên trên trách nhiệm bảo vệ môi trường; công tác phối hợp kiểm
tra, giám sát bảo vệ môi trường của các cơ quan Nhà nước chưa thật chặt chẽ. Mặc dù
số lượng các nhà máy xử lý nước thải tập trung đã tăng lên nhưng theo báo cáo của các
Ban Quản lý các Khu công nghiệp, tại khu vực xung quanh Khu công nghiệp ở một số
địa phương, một số tiêu chuẩn nước thải vượt quá quy định cho phép. Nguyên nhân là
do việc vận hành nhà máy xử lý nước thải chưa tuân thủ theo quy định trong khi công
tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý còn hạn chế, chưa có chế tài
xử phạt có tính răn đe.
Ngoài ra, dịch vụ hành chính, hệ thống thuế, hải quan cũng còn nhiều bất cập và
chưa đồng bộ. Các dự án FDI chậm được triển khai hoặc giải ngân không đúng tiến độ
do các vướng mắc trong vấn đề đất đai, đền bù và giải phóng mặt bằng. Có thể thấy
nếu các điều kiện không sớm được cải thiện, các hạn chế không được giải quyết thì
chắc chắn nguồn vốn FDI đã cấp và sắp được cấp phép sẽ chỉ tăng trên giấy, khó mà
biến thành hiện thực được. Để chuyển việc thu hút và thực hiện FDI từ lượng sang
chất cần phải thực hiện nhiều giải pháp mang tính thực tế và hiệu quả.
21
PHẦN IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG HUY ĐỘNG FDI Ở VIỆT NAM
1. Về luật pháp, chính sách :
- Sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn
thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của
Việt Nam với WTO.
- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình
phúc lợi.
- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân, giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và
vốn thực hiện.
- Không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; tác động xấu đến môi trường;
thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án; cân
nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng

- Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết
mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
- Tiếp tục nâng cao chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà
đầu tư.
2. Về cải cách hành chính:
- Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế “liên thông - một cửa” ở các cơ quan cấp giấy
chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư, tránh các thủ tục rườm rà, không cần thiết, nhằm
tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc rót vốn và xin thông
qua, thực hiện các dự án ở Việt Nam.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, bồi dưỡng kiến thức cho họ nhằm
có thể xử lý được các công nghệ mới chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam.
- Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài.
22
- Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh
Giấy chứng nhận đầu tư .
- Việt Nam cần có chính sách mở rộng việc quy đổi tiền đồng ra ngoại tệ, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư tại đây. Bên cạnh đó, quy chế
đấu thầu cũng cần được sửa đổi theo hướng không chỉ quan tâm tới giá cả cạnh tranh
mà còn phải chú ý tới cả yếu tố công nghệ. Phải lựa chọn được những công nghệ hiện
đại, thân thiện với môi trường, đóng góp vào sự phát triển bền vững.
3. Về quy hoạch
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu
- Điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu . Công bố rộng rãi quy hoạch, đẩy nhanh tiến độ
giải phóng mặt bằng; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách
hiệu quả
- Xây dựng, triển khai quy hoạch KCN, KKT gắn với thực hiện quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp,
quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư, quy hoạch nhà ở và các quy hoạch ngành
khác.
4. Về cải thiện cơ sở hạ tầng

- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ
tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Nâng cao chất
lượng xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng xây dựng một cách đồng bộ hệ thống hạ
tầng kỹ thuật với các tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCN; gắn kết cấu hạ
tầng trong hàng rào với ngoài hàng rào KCN. Đẩy nhanh tiến độ các dự án động lực đã
thu hút được và cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong các KKT để tạo tiền đề cho việc
hình thành khu vực phát triển công nghiệp nòng cốt trong các KKT và thu hút các nhà
đầu tư khác.
23
-Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, ưu tiên các lĩnh
vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường; hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất
lượng dịch vụ đường sắt.
- Tăng cường giám sát, thanh, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về môi trường gắn
với việc xử lý vi phạm một cách kiên quyết, dứt điểm. Nâng cao năng lực quản lý và
kỹ thuật về môi trường cho các cơ quan liên quan để tạo điều kiện cho các cơ quan
quản lý có đầy đủ nguồn lực thực hiện nhiệm vụ về bảo vệ môi trường
- Giải quyết tốt việc cung cấp điện. khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các
loại năng lượng mới.
- Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế
ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ
cảng biển
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông
và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. Tập
trung ưu tiên thu hút các ngành nghề, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ tiên tiến, hiện
đại, thân thiện với môi trường, các ngành nghề xác định là mũi nhọn phát triển và có
lợi thế của Việt Nam và phù hợp với chương trình tái cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư của
đất nước.
5. Về nguồn nhân lực :
Một trong những yếu tố giúp tăng cạnh tranh thu hút FDI của Việt Nam chính là

nguồn nhân lực, với lợi thế chi phí nhân công giá rẻ, dồi dào về số lượng và ngày càng
nâng cao về chất lượng. Tuy nhiên những điểm mạnh đó không thực sự tạo ra lợi thế,
bên cạnh đó còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập và cần có các giải pháp.
Về chất lượng, cần nâng cao chất lượng đào tạo ở các cơ sở đào tạo như trường dạy
nghề, trung cấp, đại học,…. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ ngoại ngữ của nguồn lao
động cũng là vấn đề cần được sự quan tâm. Mặt khác, cải thiện sức khoẻ cũng góp
24
phần nâng cao chất lượng lao động đi đôi với việc cải thiện môi trường, nâng cao và
đầu tư cho chất lượng của ngành y tế,….
Về cơ cấu: cơ cấu nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây đã có sự chuyển dịch
mạnh mẽ với tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ chiếm phần lớn nhưng lực lượng lao
động Việt Nam vẫn tập trung ở khu vực nông nghiệp với lao động trình độ thấp và làm
việc theo mùa vụ. Chính vì vậy, giải pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu lực lượng lao
động cũng tương ứng với chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
6. Về giải phóng mặt bằng :
Giải phóng mặt bằng là một trong những vướng mắc cản trở tiến độ triển khai nhiều
dự án FDI. Vấn đề này tồn tại đã lâu nhưng vẫn chậm được khắc phục. Vì vậy, trước
mắt cần:
- Nhanh chóng hoàn thành quy hoạch về đất, công bố rộng rãi quy hoạch; thống kê
quỹ đất trống trên địa bàn với thông số cụ thể về hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng,
chỉ tiêu về quy hoạch, hình thức đầu tư với đơn giá đất cụ thể nhằm tạo điều kiện
đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án.
- Thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả
năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để
chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn.
- Chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết,
đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án.
7. Về phân cấp :
Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như hiện nay, tăng
cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các

dự án đầu tư nước ngoài.
8. Về xúc tiến đầu tư
25

×