Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Giáo dục vệ sinh thân thể cho trẻ tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.63 KB, 10 trang )

GIÁO DỤC VỆ SINH THÂN THỂ CHO TRẺ TIỂU HỌC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em từ 6 đến 11 tuổi lớn và phát triển nhanh hơn bất kì thời điểm nào khác
trong cuộc đời của mỗi con người. Sự phát triển ở giai đoạn này tốt hay khơng phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trong đó, vấn đề giữ gìn vệ sinh cho các em đặt chân đến
mơi trường gia đình thứ hai của mình. Ngồi ra, việc giữ gìn vệ sinh tốt sẽ giúp cho
các em có thể lực tốt, hạn chế sự phát sinh của các dịch bệnh, hạn chế tỉ lệ trẻ bị suy
dinh dưỡng và ốm đau nghỉ học ảnh hưởng đến chất lượng học tập, kinh tế gia đình và
cộng đồng do mất vệ sinh. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm, người cha, người mẹ thứ hai
của các em có vai trị rất quan trọng trong việc giáo dục và uốn nắn những học sinh,
của mình phát triển một cách mạnh nhất và phù hợp với chuẩn mực vệ sinh chung của
mọi người.
Trong tình hình kinh tế phát triển, các bậc phụ huynh bận rộn, khơng có thời gian
hướng dẫn chăm sóc vệ sinh cho trẻ. Một phần cha mẹ chưa hiểu rõ việc giáo dục vệ
sinh nên việc hướng dẫn cho con em họ lại càng khó khăn hơn. Vậy chúng ta phải làm
gì để có thể rèn luyện cho học sinh thực hiện được một số nền nếp vệ sinh chung của
lớp khi mà trẻ đã kiểu sống tự do trong năm năm liền. Sau khoảng thời gian công tác
và tiếp xúc, dạy dỗ tơi đã có những kinh nghiệm và biện pháp giáo dục vệ sinh khác
nhau nhằm lựa chọn một số biện pháp giáo dục vệ sinh đem lại kết quả cao. Qua đó,
nhằm nâng cao ý thức trong việc vệ sinh thân thể cho học sinh Tiểu học nên tôi đã
mạnh dạn viết đề tài: “ Giáo dục vệ sinh thân thể cho trẻ Tiểu học”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: giáo dục vệ sinh thân thể cho học sinh Tiểu học
- Phạm vi nghiên cứu: học sinh bán trú khối lớp 1, 2, 3 và lớp 4, 5
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát: thông qua các phiếu khảo sát sự tự giác vệ sinh cá nhân,
quan sát tình hình vệ sinh cá nhân của học sinh.
- Phương pháp thống kê: Khi đã thu thập đầy đủ phiếu điều tra, tôi tiến hành thống
kê để xác định về lượng, từ đó tổng hợp hóa và phân loại.
4. Ý nghĩa khoa học


Trên cơ sở tìm hiểu về vệ sinh cá nhân và các yếu tố thực tiễn ảnh hưởng đến vệ
sinh của trẻ Tiểu học, tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài nhằm giúp mọi người, đặc biệt
là giáo viên Tiểu học và học sinh nâng cao việc tự ý thức vấn đề vệ sinh cá nhân.
Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục để hình thành một số nền nếp, thói
quen và kỹ năng vệ sinh ban đầu góp phần tạo cơ hội cho trẻ sống, phát triển một cách
khỏe mạnh. Đồng thời, qua bài viết đưa ra một số phương pháp hỗ trợ nâng cao ý thức
vệ sinh chung, giữ gìn vệ sinh cá nhân và nâng cao sức khỏe cho học sinh Tiểu học.
B. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN


1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1 . Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình hình thành và phát triển nhân cách người giáo dục dưới
quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ liên quan đến các mặt giáo
dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo dục lao động. Giáo dục còn có thể
hiểu theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng và thói quen
của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng
dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người
khác, nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng
kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có
tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu
thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học.
1.1.2. Khái niệm vệ sinh cá nhân
Vệ sinh cá nhân là những quy tắc giữ gìn sự sạch sẽ cho bản thân nhằm phịng
bệnh, giữ gìn và tăng cường sức khỏe. Vệ sinh cá nhân chăm sóc cơ thể chẳng hạn
như việc tắm gội, răng rửa mặt cho bản thân, quần áo, tóc tai sạch sẽ, cắt móng tay...
Về cơ bản, chăm sóc về bản thân.
Giáo dục vệ sinh cá nhân là quá trình hình thành cho trẻ những kỹ năng, những thói
quen giữ gìn vệ sinh cho bản thân nhằm phịng tránh được các bệnh tật thường gặp.

1.2 . Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh Tiểu học
Như chúng ta đã biết, bắt đầu ở tuổi học Tiểu học ở trẻ xuất hiện một số mâu
thuẫn đó là mâu thuẫn giữa một bên là tính độc lập đang được phát triển mạnh, muốn
tự mình làm tất cả mọi việc như người lớn và một bên là khả năng còn quá non yếu
của trẻ, khơng thể làm nổi những việc đó. Trong trường hợp này, người lớn khơng nên
cấm đốn trẻ vì như vậy là ngăn chặn bước đường pháp triển của trẻ. Trẻ đã ý thức về
bản thân, trẻ đã biết tách mình ra khỏi mọi người xung quanh để nhận ra chính mình,
biết mình có một sức mạnh và một thảm quyền nào đó trong cuộc sống…
Độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi, trẻ đã xuất hiện những động cơ hành vi nhằm làm cho
người khác vui lòng và yêu mến, cũng bắt đầu xuất hiện và đóng vai trị quan trọng
trong việc thúc đẩy trẻ thực hiện những hành động tích cực, trẻ rất thích được bạn bè
khác giới để ý, bố mẹ quan tâm, thầy cô giáo và những người lớn xung quanh khen
ngợi mình, thương yêu mình. Tuy nhiên việc thích được người lớn yêu mến lại thường
đi đôi với nhu cầu cụ thể. Trẻ thường quan niệm rằng nếu được yêu mến thì sẽ được
quà hay được đi chơi. Ở đây có một vấn đề giáo dục hết sức tế nhị. Người lớn có thể
dựa vào đặc điểm đó để xử sự với trẻ, mỗi khi trẻ làm được một việc tốt thì khen
thưởng kịp thời nhằm củng cố những hành vi đó. Vấn đề đặt ra là nên thưởng thế nào
để hướng sự phát triển động cơ của trẻ được lành mạnh. Tốt hơn hết là nên dùng lời
khen ngợi để khích lệ tinh thần của trẻ.
Từ những vấn đề được trình bày trên, chúng ta có thể rút ra kết luận rằng, lứa
tuổi Tiểu học là điểm khởi đầu của giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân
cách con người. Đồng thời ở đây diễn ra một bước ngoặc quan trọng trong đời sống
tâm lý của trẻ, đó là việc chuyển từ tuổi mẫu giáo sang lứa tuổi Tiểu học. Vì là điểm


khởi đầu của giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách nên việc giáo dục
trẻ ở lứa tuổi này mang tính chất phức tạp riêng của nó. Hơn nữa đây lại là lứa tuổi
chuyển tiếp. Tuy nhiên ở cái tuổi bắt đầu nên mọi cái chưa hình thành sẽ được hình
thành từ đây, do đó cơ giáo, cha mẹ và những người lớn khác có thể chủ động trong
việc hướng sự phát triển của trẻ theo mục đích giáo dục của mình.

1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ
Việc giáo dục vệ sinh cho trẻ có tầm quan trọng trong việc nuôi dưỡng và uốn
nắn những đứa trẻ phát triển một cách khỏe mạnh. Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ
trong độ tuổi Tiểu học là việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ có nền nếp thói quen vệ
sinh, phịng tránh bệnh tật. Trẻ con hiếu động ngịch ngợm nên dễ bị bẩn và ra mồ hơi
vì vậy trẻ cần rửa tay chân, giữ quần áo sạch sẽ và vệ sinh cá nhân thường xuyên. Các
bậc cha mẹ hay giáo viên không thể lúc nào cũng ở giám sát trẻ được nên cần dạy cho
trẻ cách tự vệ sinh cá nhân từ khi cịn nhỏ để tạo thói quen giữ gìn vệ sinh giúp trẻ
ln khỏe mạnh ngay cả khi bố mẹ khơng có ở bên cạnh. Việc tắm rửa và dùng mỹ
phẩm khử mùi cơ thể hoặc chống tiết mồ hơi nhiều sẽ giúp làm giảm những mùi hơi
khó chịu. Tắm và gội đầu thường xuyên cũng có thể giúp trẻ ngăn ngừa các bệnh da
liễu. Trẻ em rất thích uống những đồ ngọt như: bánh, kẹo, các loại nước uống ngọt…
Tập cho trẻ những thói quen biết tự đánh răng thường xuyên sẽ giúp trẻ ngăn ngừa sâu
răng và giúp răng được chắc khỏe.
Giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát
triển tồn diện, có mối quan hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, thẫm mỹ và lao động.
Hơn nữa giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ Tiểu học càng có tầm quan trọng hơn bởi cơ
thể trẻ đang phát triển mạnh mẽ, sức đề kháng non yếu dễ bị nhiễm và mắc các bệnh
thông thường nếu khơng được chăm sóc và giáo dục một cách đúng đắn thì có thể gây
ra những hậu quả nghiêm trọng.
Các nhà khoa học qua nghiên cứu cho thấy 80% các loại bệnh của trẻ nhỏ liên
quan tới chăm sóc vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường. Trường lớp học lại là nơi
tập trung đông trẻ nên các loại bệnh dễ phát sinh và lây lan thành dịch làm ảnh hưởng
tới sức khỏe của nhiều trẻ, cho nên công tác chăm sóc vệ sinh cho trẻ là góp phần
phịng bệnh cho trẻ, là việc làm có ý nghĩa thực tiễn góp phần nâng cao nhận thức đối
với người chăm sóc trẻ. Vì đối với trẻ chăm sóc giáo dục vệ sinh tốt hình thành cho trẻ
một số nề nếp thói quen vệ sinh, hành vi văn minh và những kỹ năng sống đơn giản
ban đầu góp phần tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện và sống mạnh khỏe.
1.4. Hậu quả của việc thực hiện vệ sinh cá nhân cho trẻ không tốt
Trẻ em thường tiếp xúc với nhiều bệnh tật, chẳng hạn như cúm thông thường,

cảm lạnh và các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn và virus khác, hoặc do tiếp xúc với
chất dịch cơ thể của người bị nhiễm bệnh hay chạm vào các bề mặt bị ơ nhiễm.
Trẻ em sau đó có thể bị lây nhiễm hoặc lây lan các mầm bệnh khi đưa tay vào
miệng, mũi của chúng, chạm vào người khác và các bề mặt vật dụng. Nếu không biết
vệ sinh như: rửa tay kỹ với xà phịng thì những bệnh đó có thể lây truyên qua trẻ. Trẻ
em vệ sinh kém có thể phải chịu hậu quả cả về thể chất và tinh thần. Những thói quen
vệ sinh chưa tốt có thể làm tăng nguy cơ trẻ bị phát ban và nhiễm trùng như nhiễm
trùng đường tiểu, nhiễm nấm… Trẻ em có thói quen vệ sinh kém cũng có thể bị bạn
bè trêu chọc, xa lánh hoặc bắt nạt, những hành vi dễ gây tổn hại đến lòng tự trọng của


trẻ. Vì vậy, vệ sinh cá nhân là một trong những cách tốt nhất để ngăn chặn sự lây lan
của những căn bệnh này.
2. THỰC TRẠNG VỆ SINH THÂN THỂ Ở TRẺ TIỂU HỌC
2.1. Đánh giá mức độ tự giác vệ sinh cá nhân của trẻ
Theo thực tế quan sát, tơi thấy hầu hết tất cả các trẻ đã hình thành được một số kỹ
năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh cơ bản như: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ
sinh, ăn xong biết súc miệng, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định, không vứt rác bừa bãi
ra lớp học, không nghịch bẩn đất cát…
Bên cạnh những kết quả đạt được thì giáo dục kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ
sinh cho trẻ vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân của thực trạng này là do số lượng học sinh
trong một cịn đơng, một lớp khoảng từ 35-40 bạn, trẻ hiếu động thích nơ đùa chạy
nhảy nên nhiều lúc giáo viên không thể hướng dẫn được tồn bộ các trẻ. Bên cạnh đó,
nhận thức của trẻ cịn chưa cao, trẻ đã hình thành ý thức vệ sinh cá nhân nhưng chưa
hiểu được hết được tầm quan trọng của các kỹ năng, kỹ xảo và thói quen vệ sinh ấy.
Hầu hết ở độ tuổi này việc vệ sinh cho trẻ đều tự làm lấy, nhưng đôi khi có vài trường
hợp đặc biệt cần phải lưu tâm hơn. Để hình thành kỹ năng, kỹ xảo và thói quen tốt cho
trẻ thì địi hỏi một q trình lâu dài cùng với sự hướng dẫn tỉ mỉ, kiên trì, sự ân cần chỉ
bảo của giáo viên thì mới đạt được kết quả cao.
2.2. Tinh thần và trách nhiệm của giáo viên trong việc giáo dục vệ sinh cá nhân

cho trẻ Tiểu học.
Có khoảng 70% các giáo viên đã tổ chức thực hiện hướng dẫn trẻ hình thành các
kỹ năng, thói quen vệ sinh một cách thường xuyên, liên tục. Có khoảng 30% số giáo
viên cịn lại thực hiện việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ còn chưa thường xuyên.
Khả năng nhận thức, vận động của trẻ chưa hoàn thiện nên nhiều khi giáo viên chưa
tổ chức, hướng dẫn trẻ thường xun. Vì vậy, những kỹ năng, thói quen vệ sinh của
trẻ cịn hạn chế.
Ví dụ: Một số trẻ còn xé vụn giấy ra sàn nhà.
Ăn uống còn rơi vãi nhiều.
Rửa tay xong, không dùng khăn lau tay mà lau tay trên quần áo.
Khi rửa tay, rửa mặt xong thường làm ướt quần áo.
Ngủ dậy không rửa mặt, súc miệng.
2.3. Thực trạng về sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường
Theo tơi tìm hiểu cho thấy khoảng 80% ý kiến cho rằng việc phối hợp giữa gia
đình và nhà trường về công tác giáo dục Tiểu học đã thực hiện tốt. Khoảng 20% ý
kiến còn lại cho rằng sự phối hợp giữa các lực lượng đó về cơng tác giáo dục Tiểu học
vẫn chưa tốt lắm.
Nhà trường cần thường xuyên trao đổi về tình hình sức khỏe, học tập của trẻ đồng
thời nhà trường cùng với xã và địa phương phải tăng cường công tác tuyên truyền,
phổ biến kiến thức nhằm chăm sóc giáo dục trẻ cho cha mẹ và cộng đồng. Nhà trường
cũng đã huy động sự tham gia của các bậc phụ huynh, các tổ chức, cá nhân trong việc
hỗ trợ khai thác học liệu, phương tiện giáo giáo văn hóa truyền thống… góp phần xây


dựng trường lớp xanh- sạch-đẹp. Tuy vậy, sự phối hợp với xã, địa phương cịn chưa
thực sự hiểu quả. Ngồi ra, những kiến thức về chăm sóc giáo dục trẻ của các bậc phụ
huynh cũng còn nhiều hạn chế, chất lượng cuộc sống chưa cao nên hon chưa có đủ
điều kiện để chăm sóc con mình.
3. Giáo dục cho trẻ Tiểu học vệ sinh cá nhân
3.1. Hướng dẫn một số kỹ năng chăm sóc vệ sinh da cho trẻ

3.1.1. Đặc điểm da của trẻ
Da có nhiệm vụ bao bọc cơ thể, bảo vệ cơ thể, tránh những tác động của bên
ngồi. Mặt khác, da cịn giữ cho nhiệt độ cơ thể ổn định, bài tiết mồ hôi. Da trẻ mỏng,
mịn, hồng và dễ bị xay xước, viêm nhiễm, cho nên cần phải chăm sóc da của trẻ một
cách cẩn thận và lau rửa ln làm cho da sạch. Đó là biện pháp khử bụi và các chất
tiết bẩn trên da. Khi lau rửa cho trẻ cần đảm bảo sạch sẽ, tránh để trẻ nhiễm lạnh,
tránh lây lan bệnh.
3.1.2. Hướng dẫn trẻ rửa tay đúng cách
Yêu cầu: Hướng dẫn trẻ rửa tay trước và sau khi ăn, sau khi chơi có tiếp xúc với
đất, cát, sau giờ học thể dục, sau khi đi vệ sinh. Phải cho trẻ rửa tay dưới vịi nước
chảy. Mùa đơng ưu tiên cho trẻ rửa tay bằng nước ấm. Giữ vệ sinh đôi tay sạch sẽ có
tác dụng phịng các bệnh đường tiêu hóa, bệnh ngồi da và bệnh đau mắt cho trẻ.
Chuẩn bị: Thùng có vòi đựng nước sạch kê ở trên giá cao 50-55 cm (Nếu có điều
kiện mắc chậu rửa trực tiếp dưới vịi nước); xơ đựng nước bẩn; khăn lâu khơ treo gần
chỗ rửa; trải thảm khơ dưới chân trẻ; xà phịng rửa tay,…
Quy trình rửa tay bằng xà phịng có 7 bước:
+Bước 1: Làm ướt hai bàn tay bằng nước sạch ,xoa xà phòng vào.
+ Bước 2: Cuốn và xoay lần lượt từng ngón tay.
+ Bước 3: Chà xát cổ tay và mu bàn tay.
+ Bước 4: Miết vào kẻ giữa các ngón tay.
+ Bước 5: Chụm và cọ sạch các đầu ngón tay.
+Bước 6: Xả sạch xà phịng bằng nước sạch.
+ Bước 7: Lấy khăn lau khô.
Chú ý:
- Nếu tay trẻ dây mỡ hoặc quá bẩn phải cho trẻ rửa bằng xà phòng.
- Rửa đến đâu cho nước chảy tới đó.
- Rửa xong phải lau khơ tay.
3.1.3. Hướng dẫn trẻ rửa mặt



Trẻ phải được rửa mặt hàng ngày, rửa mặt chủ yếu vào buổi sáng khi ngủ dậy,
rửa sau khi đón trẻ, rửa trước và sau khi ăn và trước khi về nhà.
Yêu cầu: Mỗi trẻ cần phải có một khăn mặt riêng, phải luôn được giặt sạch sẽ,
phơi nắng, nếu có điều kiện giặt nước sơi 2-3 lần trên một tuần và tối thiểu thì một lần
trên một tuần. Lau theo trình tự, từng phần của mặt được lau băng những chỗ khăn
sạch khác nhau. Mùa đông lau bằng khăn ẩm, ấm (ngâm vào nước nóng rồi vắt khơ).
Chuẩn bị: khăn mặt ẩm sạch (số khăn nhiều hơn số trẻ vài chiếc); hai chậu (một
chậu đựng khăn sạch, một chậu đựng khăn bẩn); khăn sạch, ẩm vắt trên giá cho trẻ,
rửa tay trước khi rửa mặt
Cách lau: Để trẻ trải khăn lên cả hai bàn tay, tay phải lau mắt phải, tay trái lau
mắt trái. Rồi dịch chuyển khăn lau mũi, sau đó lau miệng. Gấp đơi khăn, cho phần bẩn
vào trong. Góc khăn bên phải lau trán má bên trái. Gập khăn làm tư lau cằm và cổ.
Chú ý:
- Phải hướng dẫn trẻ lau từ chỗ sạch đến chỗ bẩn (lau hai mắt trước).
- Phải dịch khăn để phần nào của mặt cũng được lau bằng chỗ khăn sạch.
- Giáo viên phải hướng dẫn cho trẻ một cách nhẹ nhàng, khéo léo.
3.2. Hướng dẫn trẻ đánh răng, cách súc miệng bằng nước muối
3.2.1. Tác dụng của răng miệng
Giữ gìn răng, miệng là điều quan trọng, trẻ cần có răng lợi tốt, cần có răng chắc để
nhai kỹ thức ăn và giúp tiêu hóa dễ dàng. Giữ gìn răng miệng tốt sẽ ngăn được tình
trạng sâu răng và đau, loét lợi. Răng miệng là cửa ngõ của bộ máy tiêu hóa. Trong
miệng có rất nhiều vi sinh vật cho nên vệ sinh răng miệng là rất cần thiết để giảm bớt
số lượng vi sinh vật ở trong miệng.
Nếu răng sâu, do khơng giữ được vệ sinh, có thể dẫn đến nhiễm trùng nguy hiểm.
Trẻ bị sâu răng thường đau nhức, buốt, kém ăn hay sốt vặt làm sức khỏe giảm sút.
Răng miệng còn giúp cho sự phát âm và tăng thẩm mỹ cho khn mặt. Vì vậy, vệ sinh
răng miệng là rất quan trọng.
3.2.2. Các biện pháp giữ vệ sinh răng miệng
Răng của trẻ lứa tuổi này là thời gian thay răng, men răng mới dễ bị rạn nứt, dễ vỡ
nên dễ bị sún và sâu răng. Nếu răng bị hỏng quá sớm thì ổ nhiễm trùng sẽ tồn tại trong

một thời gian dài, làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa và việc hình thành răng vĩnh
viễn sau này, dễ bị mọc lệch. Muốn cho răng mọc đúng chỗ, trắng, đẹp thì ngay từ nhỏ
trẻ cần được vệ sinh răng miệng thật tốt.
Tập cho trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh răng miệng từ bé. Sau khi ăn phải cho trẻ
uống nước tráng miệng. Buổi tối trước khi đi ngủ hoặc sáng sau khi ngủ dậy cần súc
miệng bằng nước muối. Nhắc nhở trẻ đánh răng, đánh đều các mặt từ mặt ngoài đến
mặt trong và mặt nhai. Chú ý phải chọn kích cỡ bàn chải vừa miệng với trẻ, lông bàn
chải mềm. Không nên cho trẻ ăn quà vặt, nhất là bánh kẹo ngọt ăn vào buổi tối, vì chất
đường đọng lại sẽ bị lên men chua, phá hủy ngà răng. Tránh để trẻ ăn nhiều chất ngọt.


Không nên cho trẻ ăn thức ăn quá lạnh hoặc quá nóng sẽ làm rạn nứt men răng, dễ gây
sâu răng. Không nên cho trẻ cắn những vật quá cứng. Cần tập cho trẻ thói quen thở
bằng mũi. Khơng thở bằng miệng, làm răng không ngấm được nước bọt dễ bị sâu
răng.
Nhà trường và gia đình cùng tạo điều kiện chăm sóc hàm răng của trẻ giúp trẻ có
đầy đủ bàn chải, thuốc đánh răng trẻ em, nước muối. Nhắc trẻ thường xuyên và tạo
cho trẻ thói quen vệ sinh răng miệng tốt. Những trẻ bị sâu răng nên sớm chữa ngay
tránh để khi sưng đau mới chữa để bảo tồn răng sữa đến lúc thay răng.
3.3. Hướng dẫn trẻ vệ sinh mắt
3.3.1. Vệ sinh mắt cho trẻ
Mắt là cơ quan cảm giác, đảm nhiệm chức năng thị giác của cơ thể. Nhờ có mắt mà
con người mới tìm hiểu, nhận biết môi trường xung quanh, tạo điều kiện cho trí tuệ
ngày càng phát triển. Vì thế, đối với trẻ thơ, đơi mắt phải ln được giữ gìn hết sức
cẩn thận để khỏi ảnh hưởng xấu tới cả cuộc đời.
3.3.2. Phịng các bệnh nhiễm khuẩn cho đơi mắt
- Ở trường cần phải có nước sạch cho trẻ sử dụng.
- Khi gội đầu, lau mặt, tránh để nước hay xà phòng gội đầu rơi vào măt trẻ.
- Không để trẻ dụi tay lên mắt.
- Giải quyết tốt các chất thải như: phân, rác, nước thải… Trong trường cần tích cực

diệt ruồi, mũi, nhặng…
- Khi có dịch đau mắt, phải nhỏ thuốc diệt khuẩn mắt cho trẻ. Khi có trẻ đau mắt phải
cách ly ngay và tích cực nhỏ thuốc mắt.
-Giáo dục cho trẻ thói quen vệ sinh, khơng dùng khăn mặt của bạn lau mặt, không rửa
nước bẩn, tay chân luôn giữ sạch sẽ, không đưa tay bẩn dụi vào mắt, không nghịch
bẩn và không ném đất, cát vào mắt nhau, khi qt và lau nhà phải khơng có trẻ.
-Nhà trường cần phối hợp với y tế tổ chức khám bệnh định kì mắt cho trẻ để phát hiện
sớm những trường hợp giảm thị lực, viêm nhiễm để điều trị kịp thời.
3.3.3. Phịng cận thị ở trẻ
Bệnh cận thị có thể do di truyền nhưng chủ yếu là do mắc phải. Trong quá trình
hoạt động, do mắt phải làm việc căng thẳng trong điều kiện thiếu ánh sáng, mắt ln
phải nhìn q gần do bàn ghế khơng đúng kích thước, tư thế ngồi không đúng mà trẻ
bị cận thị. Bị cận thị sẽ giảm thị lực, làm ảnh hưởng tới mọi hoạt động, trẻ dễ bị tai
nạn khi hoạt động, dễ mờ mắt, khả năng tập trung giảm.
Tình hình cận thị ở trẻ Tiểu học xuất hiện ngày càng nhiều. Nguyên nhân chính là
do sinh hoạt chưa đúng cách, xem các thiết bị điện tử trong thời gian dài làm cho mắt
suy yếu. Phụ huynh cần giám sát và hạn chế trẻ xem các thiết bị điện tử, học tập và
sinh hoạt trong mơi trường đủ ánh sáng. Đề phịng cận thị, tại trường Tiểu học cần lưu
ý bàn ghế đúng kích thước, bảo đảm ánh sáng đầy đủ trong lớp học. Đảm bảo cường


độ ánh sáng, tận dụng ánh sáng tự nhiên. Giáo dục học sinh không xem tranh ảnh,
sách… ở chỗ tối, khi học phải ngồi ngay ngắn, chân để xuống sàn, lưng thẳng, ngực
khơng tì vào bàn, mắt cách sách vở, tranh ảnh khoảng 25-30 cm.
3.3.4. Phòng các sang chấn về mắt
Trẻ em thường hiếu động, các động tác vụng về khả năng suy nghĩ còn kém nên
trong lúc chơi đùa dễ gây tổn thương mắt cho bạn. Các tổn thương phần lớn là do đùa
nghịch như chọc que nhọn, bút chì, mũi dao, kéo… vào mắt nhau hoặc xơ đẩy nhau
vào đống gạch, gạch tường, tụi tre, bờ rào, ném đất, cát vào mắt nhau. Vì vậy, nhà
trường cần chú ý các dụng cụ học tập. Giáo viên thường xuyên quan tâm đến các hoạt

động giờ ra chơi ở trường lóp cũng như khi đi dạo chơi ngồi trời.
3.4. Vệ sinh tai, mũi cho trẻ
Tai là cơ quan thính giác phối hợp với các giác quan khác giúp cho con người
hiều biết được các sự vật hiện tượng xung quanh mình. Bình thường khơng nên ngốy
rửa lỗ tai trẻ. Khi bẩn có thể dùng tăm bơng nhỏ, khơ ngốy tai thật nhẹ nhàng. Khơng
dùng vật cứng nhọn để ngốy tai trẻ, dễ làm xước, viêm vành tai, ống tai và có thể
thủng màng nhĩ. Mùa đơng cần giữ ấm tai, khi ra ngoài trời, trẻ cần đội mũ bịt tai. Khi
tắm gội, tránh để nước rơi vào tai trẻ, dễ gây ra viêm tai giữa. Phối hợp với phụ
huynh, giám sát trẻ tránh nghe những âm thanh quá lớn hoặc đeo tai nghe có thể dẫn
đến ảnh hưởng niêm mạc tai gây ra điếc.
Do đặc điểm mũi trẻ ngắn, ống mũi hẹp nên khơng khí đi vào ít được sởi ấm và lọc
sạch bụi. Niêm mạc mũi mỏng, mịn, nhiều mạch máu và bạch huyết, chức năng sát
khuẩn của niêm mạc dịch mũi trẻ cịn kém. Do đó, khi trẻ bị nhiễm khuẩn ở mũi đễ
gây chảy nước mũi, ngạt mũi, ảnh hưởng đến hoạt động hô hấp của trẻ. Vì vậy, để
phịng bệnh viêm mũi, ta cần: cho trẻ sống sinh hoạt nơi thống khí, ít bụi, có nhiệt độ
và độ ẩm thích hợp, tránh để trẻ nhiễm lạnh, nhất là đôi bàn chân.
3.5. Vệ sinh quần áo cho trẻ
Quần áo là trang thiết bị giúp cho cơ thể bảo vệ da khỏi bị nhiễm bẩn và tránh
những va chạm bên ngồi. Do đặc điểm da trẻ cịn mỏng, khả năng điều hịa nhiệt độ
của cơ thể chưa hồn chỉnh nên trẻ dễ bị nóng quá hay lạnh quá, hơn nữa trẻ hay đi đại
tiện nhiều nên quần áo rất mau bẩn. Nên thường xuyên thay quần áo cho trẻ, đặc biệt
là vào mùa hè nóng, trẻ nghịch đùa nên thường ra rất nhiều mồ hôi. Giáo viên cũng có
thể hướng dẫn để trẻ tự mình mặc quần áo khi cần thiết.
Tóm lại: Trẻ em cơ thể cịn rất non yếu nên cần phải biết vệ sinh cá nhân một
cách thường xuyên và đúng cách để phòng tránh các bệnh thường gặp. Vì vậy, nhà
trường và gia đình cần hết sức chăm sóc chu đáo giữ gìn tai, mũi, họng, mắt cho trẻ để
phát hiện kịp thời và chữa trị sớm. Cần giáo dục cho trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh cá
nhân một cách thường xuyên tại trường cũng như ở nhà để phòng tránh bệnh tật.
3.6. Biện pháp tuyên truyền các bậc cha mẹ cách giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ
tại nhà



- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm bắt được tình hình của
trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện chăm sóc giáo dục trẻ tại nhà, bàn
bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
- Hướng dẫn cho phụ huynh các thao tác vệ sinh cá nhân cho trẻ để phụ huynh
biết kết hợp hướng dẫn hàng ngày như: đánh răng, rửa mặt, rửa tay đúng cách vào các
thời điểm trong ngày, biết lâu mặt đúng quy trình.
- Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc
tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên tham gia
vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường để nắm bắt
được tình hình để cùng với nhà trường giáo dục trẻ một cách tồn diện hơn.
Tơi đã đưa ra một số biện pháp giúp trẻ vệ sinh cá nhân tốt hơn đồng thời đưa
ra một số biện pháp lồng ghép trong quá trình giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ bằng
phương pháp sử dụng các bài thơ, bài hát để trẻ dễ tiếp thu và nhớ lâu hơn. Đồng thời,
phối hợp giữa nhà trường với gia đình để phụ huynh cũng có thể nắm bắt các kiến
thức để trẻ dù ở trên trường hay ở nhà cũng đều được giáo dục vệ sinh một cách tốt
nhất. Tôi mong rằng với những phương pháp, biện pháp mà tơi đã đưa ra có thể nâng
cao hiệu quả giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ.
C. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết sức khỏe là vốn quý nhất của con người. Ngoài yếu tố di
truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lí thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc
vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Bao gồm vệ sinh mơi trường và vệ sinh cá nhân. Đối với
việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh
có hành vi văn minh và phịng chống bệnh tật. Mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng đều
có vai trị quan trọng trong việc chăm sóc giáo dục hình thành ở trẻ một số nề nếp thói
quen vệ sinh, hành vi văn minh và kĩ năng sống đơn giản ban đầu, góp phần tạo cơ hội
cho trẻ sống, phát triển một cách khoẻ mạnh. Nếu được chăm sóc tốt và hình thành
những thói quen vệ sinh cá nhân cần thiết từ nhỏ thì sẽ tạo thành nền móng vững chắc
về sau này.

Dựa vào đặc điểm đó mà việc đưa giáo dục vệ sinh cá nhân một cách phù hợp
để giáo dục cho trẻ là rất cần thiết, trẻ có kĩ năng rửa tay bằng xà phịng, đánh răng
đúng cách, biết rửa mặt như thế nào cho sạch…Hơn nữa các bệnh liên quan đến vấn
đề vệ sinh thường xuyên xảy ra nhất là bệnh “Tay, chân, miệng”, “ đau mắt đỏ”. Do
đó vệ sinh cá nhân sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự pháp triển tồn diện của
trẻ, việc giữ gìn vệ sinh cá nhân tốt, thường xuyên là rất quan trọng và cần thiết. Để
trẻ có được những thói quen vệ sinh tốt thì địi hỏi cơ giáo phải ln tìm tịi, học hỏi,
tìm ra những phương pháp mới để trẻ dễ tiếp thu.
Qua bài viết này tôi đã làm rõ được những khái niệm có liên quan đến đề tài, đã
tìm hiểu được một số đặc điểm tâm lý trẻ từ 6 đến 11 tuổi, hiểu được ý nghĩa, một số
tầm quan trọng của việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ và hậu quả của việc vệ sinh
cá nhân không tốt cho trẻ sẽ dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng như thế nào.
Những vấn đề lí luận nêu trên có vai trị vơ cùng quan trọng nhằm giúp trẻ có một sức
khỏe tốt thông qua việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ Tiểu học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Giáo viên: Võ Thị Thanh Lương, bài giảng Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường
xuyên.
[2]. Giáo viên: La Vĩnh Lộc, giáo trình Tâm lý trẻ em.
[3]. Đinh Văn Vang NXB Giáo dục 2009, Giáo dục học mầm non.
[4]. Bộ giáo dục và đào tạo –năm 2007, Hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sócgiáo dục trẻ em.
[5]. />[6]. />[7]. Tài liệu của trung tâm y tế dự phòng, Một số biện pháp vệ sinh cá nhân cho trẻ
Tiểu học.



×