Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động giám sát việc phòng chống tham nhũng ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.24 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: PHÁP CHẾ TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài: Vai trị của các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt
động giám sát việc phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội


Mục Lục
LỜI NÓI ĐẦU

1

NỘI DUNG

2

Chương 1. Tổng quan về tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động giám sát

2

1.1. Khái quát chung về tổ chức xã hội

2

1.2. Khái quát chung về tổ chức chính trị - xã hội

4

1.2.1. Khái niệm về tổ chức chính trị - xã hội

4


1.2.2. Tổ chức chính trị - xã hội bao gồm những tổ chức nào?

4

1.3. Khái niệm và đặc tính của hoạt động giám sát

8

1.3.1. Khái niệm của hoạt động giám sát

8

1.3.2. Đặc tính của hoạt động giám sát

9

Chương 2. Vai trị của các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động giám sát việc
phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội
9
Chương 3. Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị
trong hoạt động giám sát việc phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội
13
3.1. Thực trạng vai trị của các tổ chức chính trị trong hoạt động giám sát việc
phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội
13
3.2. Giải pháp nâng cao vai trị các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động
giám sát việc phòng, chống tham nhũng
19
KẾT LUẬN


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

23

2


LỜI NÓI ĐẦU
Thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức Đảng đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
các cơ quan chức năng tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước các quan
điểm, chủ trương, đường lối, quy định về Phòng chống tham nhũng, lãnh đạo,
chỉ đạo việc tổ chức thực hiện các quy định về Phịng chống tham nhũng; góp
phần làm cho cơng tác Phịng chống tham nhũng có những chuyển biến tích
cực cả trong nhận thức và hành động; trong phòng ngừa, phát hiện, xử lý
tham nhũng. Kết quả trên khẳng định quyết tâm cũng như khả năng của cả hệ
thống chính trị và tồn xã hội trong Phịng chống tham nhũng.
Tuy nhiên, với tinh thần nghiêm túc và thẳng thắn cho thấy sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với cơng tác Phịng chống tham
nhũng thời gian qua vẫn còn những hạn chế, thể hiện: Kết quả cơng tác Phịng
chống tham nhũng vẫn chưa tương xứng với quyết tâm chính trị của Đảng,
Nhà nước; cơng tác thơng tin, tun truyền về Phịng chống tham nhũng chưa
đầy đủ, nên xã hội chưa thấy hết được ý nghĩa, kết quả tích cực của cơng tác
Phịng chống tham nhũng; cơng tác xây dựng và hồn thiện cơ chế, chính
sách, pháp luật trên nhiều lĩnh vực vẫn chưa theo kịp sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội; các cơ chế chính sách cịn sơ hở, bất cập, dễ bị lợi dụng để
thực hiện hành vi tham nhũng; một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn
nhiều bất cập trong thực hiện nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung; việc tự phát
hiện hành vi tham nhũng, lãng phí trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị còn

hạn chế; số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện và xử lý còn thấp, chưa
tương xứng với tình hình tham nhũng đang diễn ra; một số vụ việc, vụ án
tham nhũng xử lý chậm, kéo dài, gây tâm lý hồi nghi trong nhân dân về tính
nghiêm minh của pháp luật; nạn sách nhiễu, “tham nhũng vặt” còn phổ biến,
gây bức xúc trong xã hội… Với những lý do trên, tơi chọn đề tài “Vai trị của
các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động giám sát việc phòng chống
tham nhũng ở Hà Nội” để làm rõ vai trị của các tổ chức chính trị trong hoạt
1


động giám sát việc phòng, chống tham nhũng, đồng thời tìm hiểu thực trạng
và tìm ra giải pháp nâng cao vai trị của cac tổ chức chính trị xã hội.

2


NỘI DUNG
Chương 1.

Tổng quan về tổ chức chính trị xã hội trong hoạt

động giám sát
1.1.

Khái quát chung về tổ chức xã hội

Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của cơng dân, tổ chức
Việt Nam có chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều
lệ, khơng vì lợi nhuận nhằm đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và
tham gia vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội.

Cùng với quá trình dân chủ hố, các quyền con người ở Việt Nam được
pháp luật bảo vệ ngày càng toàn diện hơn. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy
định: Công dân Việt Nam có quyền lập hội theo quy định của pháp luật. Đây
là cơ sở pháp lí vững chắc để các tổ chức xã hội ra đời, tồn tại và phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến hành cơng cuộc “cồng
nghiệp hố, hiên đại hố” xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì
quyền tự do, dân chủ của công dân càng được chú trọng mở rộng và bảo vệ.
Bên cạnh đó, xu thế hội nhập quốc tế đang là tác nhân thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các tổ chức xã hội ở Việt Nam.
Sự ra đời, tổn tại và phát triển của tổ chức xã hội có ý nghĩa quan trọng
đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hơi của đất nước. Về chính trị, tổ chức
xã hội là chỗ dựa của chính quyền nhân dân. Với vai trị hội tụ sức mạnh đoàn
kết toàn dân, tăng người khác phải tham gia hay không được tham gia vào các
tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên, mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những tiêu
chuẩn nhất định đối với người muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội
đó.
Yếu tố tự ngun cịn biểu hiện trong việc kết nạp hay khai trừ các
thành viên của tổ chức xã hội hồn tồn do tổ chức xã hội đó và những người
muốn tham gia quyết định. Nhà nước không can thiệp và cũng không sử dụng
3


quyền lực nhà nước để chi phối hoạt động đó. Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp
những thành viên có cùng chung dấu hiệu đặc điểm.
Các tổ chức xã hội nhân danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt
động quản lí nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ
chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước. Đặc điểm này của tổ chức xã
hội thể hiện tổ chức xã hội không phải là bộ phận trong cơ cấu của bộ máy
nhà nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội
được trái pháp luật và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn.

Việc Nhà nước phê chuẩn điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội là kiểm tra,
đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của các điều lệ đó, cho phép các tổ chức xã
hội tổn tại và hoạt động theo điều lệ. Điều lệ của các tổ chức xã hội không
phải là vãn bản pháp luật, các quy định trong điều lệ khơng mang tính pháp lí,
chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nội bộ của tổ chức xã hội đó và
chỉ có hiệu lực đối với các thành viên trong tổ chức. Mặt khác, điều lệ hoạt
động của các tổ chức xã hội cũng không quy định quyền và nghĩa vụ pháp lí
của các tổ chức xã hội, không xác định năng lực chủ thể của các tổ chức xã
hội trong các quan hệ quản lí nhà nước.
Năng lực chủ thể của các tổ chức xã hội để tham gia vào các quan hệ
pháp luật do Nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật về quản lí hội và
các văn vản pháp luật có liên quan, Tổng thể các quy phạm pháp luật quy
định về quyền và nghĩa vụ pháp lí của tổ chức xã hội trong lĩnh vực hành
chính nhà nước tạo thành quy chế pháp lí hành chính của tổ chức xã hội.
Trong quá trình hoạt động, các tổ chức xã hội tự giải quyết các cơng việc nội
bộ của mình, Nhà nước sẽ không can thiệp nếu hoạt động của các tổ chức xã
hội không trái pháp luật.
- Các tổ chức xã hội hoạt động khơng nhằm mục đích lợi nhuận mà
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.

4


Đặc điểm này phân biệt tổ chức xã hội vói các tổ chức kinh tế như:
công ti cổ phần, công ti trách nhiệm hữu hạn, các hợp tácÃíi tiểu thủ cơng
nghiệp, dịch vụ ...
-

Các tổ chức xã hơi có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý


thức pháp luật cho nhân dân, trước hết là cho các thành viên trong tổ chức đó.
Thơng qua những quy định trong điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội, thông
qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các
thành Tổ chức phi chính phủ có hai loại: Tổ chức phi chính phủ mang tính
quốc gia và tổ chức phi chính phủ mang tính quốc tế. Tổ chức phi chính phủ
mang tính quốc gia có các thành viên cùng mang một quốc tịch. Tổ chức phi
chính phủ mang tính quốc tế có các thành viên mang nhiều quốc tịch khác
nhau. Các tổ chức này hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, phải tuân thủ
pháp luật của tất cả các nước có thành viên hợp tác.
-

Các tổ chức tôn giáo không thuộc các tổ chức xã hội theo khái

niệm về tổ chức xã hội trong Chương này. Tuy khơng có ranh giới rõ ràng
nhưng hầu hết các quốc gia đều theo cách gọi độc lập và trực tiếp đối với các
tổ chức tôn giáo, không xếp các tổ chức tôn giáo thuộc tổ chức xã hội. Mỗi
tôn giáo đều được tạo nên bởi một cộng đồng có chung nhu cầu tín ngưỡng.
Tổ chức tơn giáo là tập hợp người có mối hên hệ thứ bậc với các chức sắc nội
bộ, hoạt động vói các quy định và chuẩn mực riêng của tơn giáo nhằm duy trì,
phát triển và truyền bá giáo lí với các nghi lễ đảm bảo sự tồn tại phát triển của
chính bản thân tơn giáo.
1.2.

Khái quát chung về tổ chức chính trị - xã hội

1.2.1. Khái niệm về tổ chức chính trị - xã hội
Nhà nước là cơ quan quyền lực chung được thiết lập và có sức mạnh
cưỡng chế nhằm múc đích duy trì trật tự, hịa bình và cơng lý trong xã hội,
đảm bảo các quyền, tự do của công dân. Các hệ thống chính trị là một tổng
thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội được liên kết lại với nhau

5


trong một hệ thống nhất định do pháp luật quy định cụ thể nhằm thực thi các
quyền lực chính trị của Nhà nước. Tổ chức chính trị – xã hội là một trong
những tổ chức xã hội có những vai trị quan trọng góp phần vào việc xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đây là những tổ chức được thành lập
đại diện cho ý chí của các tầng lớp trong xã hội trong hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Tổ chức chính trị trong Tiếng anh là “Political organizations”.
Hiểu một cách đơn giản thì các tổ chức chính trị – xã hội là các tổ chức
được thành lập bởi những thành viên mà những thành viên đó đại diện cho
một lực lượng xã hội nhất định tham gia vào thực hiện các hoạt động xã hội
rộng rãi và có ý nghĩa chính trị nhưng các hoạt động này khơng nhằm tới mục
đích giành chính quyền.
Căn cứ vào quy mơ và tính chất hoạt động của các tổ chức chính trị –
xã hội mà các tổ chức này thường hay tồn tại và hoạt động bên cạnh các tổ
chức chính trị với tính chất hỗ trợ các hoạt động của các tổ chức chính trị của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hiện nay, các tổ chức chính trị – xã hội thường hay hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được chia thành
nhiều cấp để hoạt động trong phạm vi cả nước.
Các tổ chức chính trị – xã hội cịn có điều lệ hoạt động do đại hội toàn
thể hoặc đại hội đại biểu các thành viên thông qua. Các tổ chức chính trị – xã
hội đóng vai trị quan trọng trong hệ thống chính trị và đã trở thành một cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân.
1.2.2. Tổ chức chính trị - xã hội bao gồm những tổ chức nào?
Theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam quy định cho phép công dân có quyền hội họp, lập hội theo
quy định của pháp luật. Ở nước ta, căn cứ vào quy định nêu trên đã có nhiều

tổ chức khác nhau được hình thành và phát triển. Tuy nhiên, không phải tất cả
6


các tổ chức này đều có thể là thành viên của hệ thống chính trị mà hiện nay
chỉ có những tổ chức chính trị – xã hội lớn, có ảnh hưởng sâu rộng đến sự
phát triển của đất nước cụ thể như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Cơng đồn
Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam mới được
pháp luật quy định là các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị Việt Nam.
Như đã phân tích cụ thể bên trên thì tổ chức chính trị – xã hội là các tổ
chức được thành lập một cách tự nguyện và được tổ chức, hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa
phương. Các tổ chức xã hội này đều có điều lệ hoạt động riêng do hội nghị
toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua. Hiện nay, nước ta
có những tổ chức chính trị – xã hội sau đây:
-

Thứ nhất: Mặt trận tổ quốc Việt Nam:

Mặt trận tổ quốc Việt Nam là một liên minh chính trị – tổ chức liên
hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các
giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo ở trên toàn đất nước ta. Mặt
trận tổ quốc Việt Nam luôn được xem là tổ chức đại diện cho ý chí đại đồn
kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân các tầng lớp trên toàn đất nước.
Đây là nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất
hành động giữa các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện
nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam cịn có vai trị quan trọng trong việc giám sát, bảo
vệ, tham gia xây dựng Nhà nước, quản lí xã hội.

Hiện nay, mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập theo cơ chế bầu cử
dân chủ được phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Như vậy, ta
nhận thấy, mặt trận tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã
hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, dân tộc,
tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngồi. Thơng qua những phân tích
7


được nêu cụ thể bên trên thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí và vai trị
hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của đất nước ta.
Theo Điều 9 Hiến pháp năm 2013 được ban hành cũng đã ghi nhận nội
dung sau đây: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân Mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của Mặt trận là đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám
sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối
ngoại nhân dân góp phần bảo vệ Tổ quốc.”
-

Thứ hai: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam:

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là một tổ chức chính trị – xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự
nguyện lập ra tuân theo đúng các quy định của pháp luật.
Chính bởi vì thế mà Tổng Liên đồn lao động Việt Nam có tính chất
quần chúng và tính chất giai cấp cơng nhân. Do đó, Tổng Liên đồn lao động
Việt Nam có chức năng sau đây:
+ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam sẽ đại diện và bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng nhân viên chức lao động.

+ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước, quản
lý kinh tế – xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế,
+ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có chức năng giáo dục, động viên
cơng nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện
nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-

Thứ ba: Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh:

Ðồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức chính trị – xã hội tập
hợp tầng lớp thanh niên. Khơng những thế đây cịn là đồn thể của các thanh
niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng.

8


Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước và có mặt ở hầu hết
các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến địa phương nhằm mục đích để
thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh thơng qua đó
giáo dục ý thức tơn trọng pháp luật cho đồn viên thanh niên trên phạm vi cả
nước.
Khơng những thế, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng là nơi
đào tạo ra các viên chức, cán bộ có phẩm chất trong bộ máy nhà nước, hoặc
giữ những chức vụ trọng trách trong các tổ chức chính trị xã hội, ví dụ như
Ðảng, cơng đồn.
-

Thứ tư: Hội liên hiệp Phụ nữ:


Hội liên hiệp phụ nữ là một trong số những tổ chức chính trị – xã hội
của riêng giới nữ. Hội liên hiệp phụ nữ có chức năng đại diện cho quyền bình
đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý
Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
Hội liên hiệp phụ nữ ln đồn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ
nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-

Thứ năm: Hội Nông dân Việt Nam:

Hội Nông dân Việt Nam là một trong số những tổ chức chính trị – xã
hội của giai cấp nơng dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là một
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội Nông dân Việt Nam được thành lập nhằm mục đích chính là động
viện, tổ chức nơng dân lao động trong cả nước hăng hái tham gia sản xuất,
giáo dục tinh thần yêu nước. Mặt khác, hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt
Nam- một bộ phân dân cư lớn nhất ở nước ta.
Hội Nơng dân Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông
dân Việt Nam, là một trong số những thành viên có vị trí, vai trò quan trọng
9


trong hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong
phạm vi chức năng của mình, Hội nơng dân Việt Nam có nhiệm vụ sau:
+ Tập hợp, vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm
chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt.
+ Đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và

khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Chức năng chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của nông dân.
+ Tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong sản
xuất, kinh doanh và đời sống.
-

Thứ sáu: Hội Cựu chiến binh Việt Nam:

Hội Cựu chiến binh Việt Nam là một đồn thể chính trị – xã hội và là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội Cựu chiến binh Việt Nam
hiện là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân và là một tổ chức trong hệ
thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và
Điều lệ của Hội.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập với mục đích chính là tập
hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát
huy bản chất, truyền thống của bộ đội, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính
quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh,
chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống của các chiến
sĩ.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị – xã hội, là một
thành viên có vị trí, vai trị quan trọng trong hệ thống chính trị của đất nước
ta. Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều mang trong mình
những nếp sống, văn hố truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

10



Hội cựu chiến binh Việt Nam tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng và động
viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản chất cách mạng, tham gia xây
dựng và bảo vệ chính quyền, phát huy dân chủ từ đó đã góp phần giữ ổn định
chính trị, tăng cường quốc phịng và an ninh. Không những thế, Hội cựu chiến
binh Việt Nam còn tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hố, xã hội; góp phần tích cực vào việc giáo dục thế hệ trẻ và còn tham gia
vào hoạt động nhân dân, thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
đem đến những giá trị to lớn cho đất nước.
Ngoài các tổ chức được nêu cụ thể bên trên hiện vẫn còn nhiều tổ chức
xã hội khác cũng được coi là tổ chức chính trị – xã hội như là: Liên hiệp các
hội khoa học kĩ thuật Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam,…
1.3.

Khái niệm và đặc tính của hoạt động giám sát

1.3.1. Khái niệm của hoạt động giám sát
Giám sát là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, mà trong bộ
máy Nhà nước chỉ có Quốc hội và Hội đồng nhân dân mới có chức năng giám
sát việc thực hiện pháp luật. Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân được
cụ thể hóa qua các hoạt động giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được quy định rõ trong
nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân là giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết Hội đồng nhân
dân; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Ban Hội đồng nhân
dân cấp mình; giám sát văn bản Quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân
cùng cấp và văn bản của Hội đồng nhân dân cấp huyện.
1.3.2. Đặc tính của hoạt động giám sát
Giám sát là hành vi, hoạt động của chủ thể thực hiện việc theo dõi đối

tượng bị giám sát trong một khoảng thời gian nhất định( quá trình theo dõi đối
11


tượng bị giám sát) từ đó xem xét, đánh giá hoạt động của đối tượng bị giám
sát tuân thủ những mục tiêu, quy định đã đặt ra;
+ Giám sát có chủ thể thực hiện việc giám sát và đối tượng bị giám sát
+ Giám sát là việc xem đối tượng bị giám sát có thực hiện đúng nội
dung và mục tiêu( Tiêu chí, quyết định định trước) hay khơng.

Chương 2.

Vai trị của các tổ chức chính trị xã hội trong hoạt

động giám sát việc phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội
Giám sát, phản biện xã hội là một hoạt động cơ bản của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội, có vai trị và ý nghĩa quan
trọng đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống tham nhũng,
bảo vệ thể chế chính trị, góp phần vào thành cơng sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay. Thể hiện ở một số kết quả sau:
*Giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp
Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2016-2021, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ ban hành
Quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những nguời ứng cử đại biểu Quốc
hội và những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Quy trình
hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
các cấp tuân thủ triệt để, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã lựa chọn, giới
thiệu những nguời ứng cử đảm bảo đúng cơ cấu, thành phần, số lượng, không

đưa vào danh sách những người ứng cử có dấu hiệu tham những, khơng trung
thực trong kê khai tài sản hoặc vi phạm pháp luật về bầu cử. Những nguời
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp sau khi Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú của người ứng cử
mà có số phiếu tín nhiệm thấp đều khơng được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp hiệp thương đưa vào danh sách chính thức người ứng cử (loại khỏi
12


danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp). Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức 15 Đồn giám sát
cơng tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 tại 37 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Một số tổ chức thành viên cũng chủ động tiến hành tổ chức các cuộc giám sát
về cơng tác bầu cử góp phần đảm bảo các cuộc bầu cử diễn ra dân chủ, đúng
luật, đảm bảo cơ cấu, thành phần, lựa chọn được những ứng cử viên và “giàu
tâm, xứng tầm" đại diện cho nhân dân.
*Giám sát việc thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch trong
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp
ln quan tâm góp phần đảm bảo thơng tin cho Nhân dân thông qua tham gia
xây dựng thể chế, pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tới
nhân dân. Bên cạnh việc bảo đảm quyền được cung cấp thông tin cho nhân
dân còn giám sát việc thực hiện pháp luật về minh bạch tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức, đảng viên, những người có quyền lực trong các cơ quan
nhà nước theo quy định tại Nghị định số 37-2007/NĐ-CP ngày 09/03/2007
nay là Nghị định số 78/NĐ-CP ngày 17/07/2013.
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
phối hợp tiến hành giám sát việc công khai kết luận thanh tra tại một số bộ,

ngành (Thanh tra Chính phủ, Bộ Giao thơng vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Y tế) và một số tỉnh (Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đắc Lắk). Qua giám sát, các đoàn giám
sát đã chỉ ra được ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong
việc công khai kết luận thanh tra của các cơ quan hữu quan và các địa phương
là cơ sở để Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
kiến nghị tới Quốc hội, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ có giải pháp thực
hiện tốt việc cơng khai các kết luận thanh tra theo quy định.
13


Thực hiện các nội dung Quy chế phối hợp giữa Ban Nội chính Trung
ương với Đảng đồn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; trong đó, Đảng đồn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện thí điểm giám sát việc “công khai, minh
bạch và trách nhiệm người đứng đầu cấp huyện, cấp xã trong lãnh đạo, chỉ
đạo cơng tác Phịng chống tham nhũng tại một số dự án kinh tế - xã hội trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Phước. Tại các địa phương, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh cũng chủ động phối hợp với Ban Nội chính
cùng cấp triển khai các nội dung về cơng tác Phịng chống tham nhũng, xác
định những nhiệm vụ cụ thể về cơng tác Phịng chống tham nhũng trong năm.
*Tổ chức thực hiện các chương trình giám sát việc chấp hành chính
sách, pháp luật trong những lĩnh vực còn gây nhiều bức xúc với nhân dân
Thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội, Ban Thường trực Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức
thành viên và các cơ quan hữu quan thực hiện nhiều hoạt động giám sát trong
nhiều lĩnh vực mà nhân dân và cử tri cả nước quan tâm, đã và đang gây nhiều
bức xúc cho Nhân dân và cũng là những lĩnh vực có thể xảy ra tham những
như: Giám sát và nâng cao hiệu qủa việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở;
việc công khai kết luận thanh tra; việc chấp hành pháp luật của các cơ sở y tế;
việc thực hiện hỗ trợ của Nhà nước đối với nhân dân 04 tỉnh miền Trung khắc

phục thiệt hại do thủy hải sản chết hàng loạt; phối hợp vận động và giám sát
bảo đảm an toàn thực phẩm giai đoạn 2016 - 2020; phối hợp giám sát việc
thực hiện pháp luật về sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp giai đoạn
2014-2020; phối hợp giám sát việc thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia trong lĩnh vực thuế và hải quan; phối hợp triển khai xác định chỉ số
hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính
nhà nước; phối hợp với Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao kiểm sát việc thi
hành án dân sự và thi hành án hình sự; thực hiện một số vụ việc giám sát về
14


trách nhiệm của người đứng đầu cấp xã, huyện trong Phòng chống tham
nhũng; việc triển khai và tổ chức thực hiện các quy định về cán bộ, đảng viên
và công tác cán bộ... đã và đang nhận được sự ủng hộ của các cơ quan nhà
nước và nhân dân.
*Việc triển khai các hoạt động kiểm tra, giám sát của các tổ chức
chính trị - xã hội và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp
Các tổ chức chính trị - xã hội chủ động thực hiện các hoạt động kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đồn viên, hội viên, chức năng, nhiệm vụ của đoàn thể.
Qua tổng hợp báo cáo của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam các địa
phương cho thấy, các cuộc giám sát năm sau nhiều hơn năm trước. Từ năm
2014 đến đầu năm 2019, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp ở địa
phương đã chủ trì phối hợp giám sát được 492.784 cuộc tập trung vào việc
thực hiện chế độ, chính sách bồi thường, giải tỏa; bố trí tái định cư và tạm cư
cho người dân có nhà, đất bị thu hồi; thực hiện quy hoạch, dự án còn để kéo
dài nhiều năm; đảm bảo an tồn vệ sinh thực phẩm; cơng tác tiếp dân và giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; phối hợp thực hiện và giám sát

tổng rà sốt chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; thực hiện
đưa người cai nghiện ma túy không nơi cư trú ổn định trên địa bàn vào cơ sở
xã hội; công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp; cung cấp nước sạch và nước hợp
vệ sinh...
Đối với công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các
cấp cần quan tâm và đầu tư hơn nữa về mọi mặt cho hoạt động giám sát đối
với việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của các
cơ quan Đảng, nhà nước. Hiện nay, hoạt động này mới bước đầu được quan

15


tâm, còn được thực hiện chưa nhiều, chưa thường xuyên và nhất là hiệu quả
còn thấp do nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát trong Phòng chống
tham nhũng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội các cấp cần đặc biệt chú trọng sử dụng hình thức
giám sát văn bản (nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền)
và giám sát thường xuyên đối với công tác tổ chức cán bộ và giám sát đối với
cán bộ, đảng viên. Việc giám sát văn bản (nghiên cứu, xem xét văn bản của
cơ quan có thẩm quyền) của Mặt trận Tổ quốc các cấp nếu được quan tâm tổ
chức thực hiện nghiêm túc sẽ góp phần rất có hiệu quả trong việc phát hiện,
kiến nghị các cơ quan ban hành văn bản xử lý và khắc phục những hạn chế
của văn bản chính sách, pháp luật, đề án, chương trình đang được thực hiện,
nhất là đối với những “khoảng trống", "kẽ hở", những yếu tố “lợi ích nhóm"
trong các chính sách, quy định có thể bị lợi dụng để tham nhũng.
Việc giám sát thường xuyên đối với công tác tổ chức cán bộ và giám
sát đối với cán bộ, đảng viên có ý nghĩa rất quan trọng để góp phần Phịng

chống tham nhũng trong một lĩnh vực vốn được đánh giá là dễ và xảy ra
nhiều tham nhũng nhất nhưng lại cũng là khó phịng, chống nhất. Trong lĩnh
vực giám sát này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần chú trọng phát huy vai trị
của tổ chức cơng đồn giám sát đối với việc thực hiện công tác cán bộ và cán
bộ, đảng viên tại các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và vai trò của Mặt trận
Tổ quốc cấp xã, của các Ban công tác Mặt trận, Ban Thanh tra nhân dân và
các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở để giám sát đối với cán bộ, đảng viên
sinh sống hoặc làm việc tại địa bàn địa phương. Các cán bộ làm công tác Mặt
trận ở cơ sở cần được trang bị tốt kiến thức về chính sách, pháp luật về Phịng
chống tham nhũng, về cơng tác cán bộ (chính sách, các quy định về tiêu
chuẩn, điều kiện tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng, quy hoạch, đề bạt, khen
thưởng, kỷ luật) và nhất là về kỹ năng, quy trình thực hiện công tác giám sát

16


để bảo đảm thực hiện giám sát đúng quy định, khơng xảy ra sai sót và có hiệu
quả thiết thực.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các
cấp cần thường xuyên quan tâm giám sát công tác cải cách thể chế, đơn giản
hóa các thủ tục hành chính, cơng khai, minh bạch thông tin của các cơ quan
nhà nước, chú trọng tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu
quả thực hiện hai chương trình giám sát chuyên đề mà Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã và đang chủ trì phối hợp với
các cơ quan, tổ chức thực hiện là Chương trình giám sát việc đo lường và
đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của các cơ
quan hành chính nhà nước hàng năm và Chương trình giám sát việc thực hiện
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực thuế, hải quan.


Chương 3.

Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trị của các tổ

chức chính trị trong hoạt động giám sát việc phòng, chống tham
nhũng ở Hà Nội
3.1.

Thực trạng vai trị của các tổ chức chính trị trong hoạt động giám

sát việc phòng, chống tham nhũng ở Hà Nội
Kiểm tra, giám sát là những hoạt động quan trọng trong cơng tác đấu
tranh phịng, chống tham nhũng. Từ khi ra đời đến nay, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra, giám sát và từng bước xây
dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát; nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân trong việc phát hiện, đấu tranh phịng, chống
tham nhũng, nhằm bảo đảm kiểm sốt quyền lực nhà nước, đấu tranh đẩy lùi
tệ tham nhũng, lãng phí.
Đấu tranh phịng, chống tham nhũng - từ “ý Đảng” đến ”lòng dân”
Tham nhũng là một vấn đề lịch sử, xuất hiện rất sớm từ khi có sự phân
chia quyền lực và hình thành nhà nước. Nhà nước ln ln có xu hướng lạm
17


quyền, vi phạm đến các quyền lợi của cá nhân1, quyền lực có xu hướng tham
nhũng; quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng càng tuyệt đối2. Tham nhũng xuất
hiện ở mọi nơi, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của từng quốc gia, xâm
phạm đến quyền tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hạn chế tham nhũng là yêu
cầu đặt ra đối với bất kỳ quốc gia nào, để thực hiện được yêu cầu đó, trước
hết, cần phải nhận diện được thế nào là tham nhũng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng sử dụng từ “tham nhũng”, nhưng Người
thường nói đó là tham ơ, biểu hiện đặc trưng nhất của tham nhũng. Trong các
tác phẩm của mình, Người khẳng định: “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội
lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công
làm của tư”3.
Hiện nay, ở nước ta, “nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng và kéo dài
gây bất bình trong nhân dân, là nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và
chế độ”4. Ngồi ra, “một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau
về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy
tiện, vơ ngun tắc…”5.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định, tham nhũng là một trong
những nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của đất nước. Theo
đó, Cương lĩnh nêu: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Quan
liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối
với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”6.
Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác
định: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,

18



×