Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

HAI QUAN điểm XEM xét, NGHIÊN cứu sản XUẤT và HẠCH TOÁN nền KTQD TRONG THỐNG kê KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170 KB, 11 trang )

CHUYÊN ĐỀ 2:
HAI QUAN ĐIỂM XEM XÉT, NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT VÀ HẠCH TOÁN NỀN KTQD
TRONG THỐNG KÊ KINH TẾ
1. Khái niệm về sản xuất:
Có nhiều quan niệm về sản xuất, theo quan điểm thu nhập thì sản xuất là hoạt động của con
người nhằm mục đích tạo ra thu nhập, theo quan điểm hệ thống thì sản xuất là quá trình biến đổi
đầu vào thành đầu ra, ví dụ đầu vào là lao động, vốn, đầu ra là các sản phẩm phục vụ tiêu dùng…
Theo định nghĩa là SNA-1993 thì “Sản xuất là quá trình sử dụng lao động và máy móc thiết bị của
các đơn vị thể chế để chuyển những chi phí là vật chất và dịch vụ thành sản phẩm là vật chất (hàng
hóa) và dịch vụ khác. Các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra phải có khả năng bán trên thị
trường hoặc có khả năng cung cấp cho đơn vị thể chế khác có thu tiền hoặc không thu tiền”.
Như vậy, phạm trù sản xuất trong SNS không chỉ bao gồm các hoạt động tạo ra hàng hóa và
dịch vụ bán trên thị trường, mà còn gồm cả các sản phẩm vật chất và dịch vụ của chính phủ và các
tổ chức không vị lợi cấp không cho tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình và toàn xã hội.
Phạm trù sản xuất không bao gồm các quá trình tự nhiên không có con người tham gia, chịu
trách nhiệm dưới khía cạnh kinh tế, ví dụ sự tăng trưởng của sinh vật trong tự nhiên. Phạm trù sản
xuất cũng không bao gồm các hoạt động tự phục vụ trong nội bộ hộ gia đình ví dụ: các công việc
nội trợ của các thành viên trong hộ gia đình, các công việc tự phục vụ cá nhân, dạy con em học
tập…
Tuy nhiên các hoạt động sau đây của hộ gia đình được tính vào phạm trù sản xuất: tự sản xuất
ra các sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản để tiêu dùng; tự sản xuất ra các hàng hóa khác để tiêu
dùng: tự xây dựng, chế biến lương thực thực phẩm…
Phạm trù sản xuất còn bao gồm cả những hoạt động bất hợp pháp tạo ra sản phẩm mà mang
lại thu nhập cho người sản xuất bất hợp pháp đó. Ở khía cạnh này SNA đồng nhất với quan điểm
thu nhập, nghĩa là hoạt động sản xuất bao gồm tất cả các hoạt động có mục đích của con người tạo
ra thu nhập, trừ hoạt động tự phục vụ bản thân. Tuy ở Việt Nam, ngành thống kê có khái niệm về
sản xuất tương đồng với SNA những có điểm khác là sản xuất không bao gồm các hoạt động bất
hợp pháp.
2. Quan điểm Vật chất và Quan điểm Tài chính khi nghiên cứu quá trình sản xuất:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ công tác tổ chưc và quản lý trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các hoạt động này chịu sự chi phối bởi các quy


luật kinh tế khách quan, đồng thời cũng chịu sự tác động của các nhân tố bên trong, đó là tình hình
sử dụng các yếu tố sản xuất, tình hình sản xuất, tiêu thụ, giá cả, các chính sách tiếp thị… và các yếu
tố bên ngoài của doanh nghiệp như sự thay đổi về cơ chế chính sách thuế, tỷ giá ngoại tệ, chính
sách ưu đãi đầu tư… Do vậy khi xem xét quá trình sản xuất trong nghiên cứu thống kê thì ta cần
phải xem xét quá trình đó một cách tổng thể toàn bộ các yếu tố tác động, cấu thành nên quá trình
sản xuất. Đồng thời, chúng ta cần và có thể xem xét quá trình sản xuất trên hai quan điểm: Quan
điểm Vật chất và quan điểm Tài chính.
Xem xét quá trình sản xuất theo Quan điểm Vật chất có nghĩa là xem quá trình sản xuất như
là quá trình vận động về mặt vật chất. Trong trường hợp này, khi tiến hành sản xuất một loại sản
phẩm ta cần đặt ra và trả lời các câu hỏi như: cần phải sử dụng nguyên liệu gì, nguyên liệu đó là sản
phẩm của những ngành nào, cần bao nhiêu? Với một lượng đầu vào như vậy thì có thể tạo ra được
bao nhiêu đầu ra? Kết quả sản xuất đó được sử dụng như thế nào, bao nhiêu sản phẩm được dùng
cho sản xuất, bao nhiêu cho tiêu dùng, bao nhiêu cho tích lũy… Khi xem xét quá trình sản xuất vật
chất theo quan điểm này thì ta chỉ quan tâm đến việc sử dụng nguyên vật liệu gì, với số lượng bao
nhiêu để sản xuất ra sản phẩm. Và như vậy, trong nghiên cứu quá trình sản xuất cũng như hạch toán
Thống kê kinh tế 1
nền kinh tế quốc dân ta sẽ sử dụng đơn vị đo lường là cái, con, đơn vị đo chiều dài, trọng lượng…
Trong trường hợp sản xuất ra cùng một loại sản phẩm nhưng sử dụng các nguyên vật liệu khác nhau
thì việc có nhiều đơn vị để đo lường như vậy sẽ gây ra khó khăn trong việc so sánh hiệu quả sản
xuất.
Xem xét quá trình sản xuất theo Quan điểm Tài chính có nghĩa là xem quá trình sản xuất như
là quá trình vận động về tài chính, tức là trong quá trình sản xuất ta cần đặt ra và trả lời các câu hỏi
như: Cần bao nhiêu chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm? Với chi phí đó thì có thể tạo ra thu
nhập là bao nhiêu? Thu nhập đó được phân phối như thế nào để hình thành các loại thu nhập: thu
nhập lần đầu, thu nhập do phân phối lai, tổng thu nhập và thu nhập cuối cùng của các nhóm dân cư
trong khu vực thể chế? Thu nhập cuối cùng đó được sử dụng như thế nào, chi cho tiêu dùng bao
nhiêu, để tiết kiệm bao nhiêu? Khi nghiên cứu quá trình sản xuất, hạch toán nền kinh tế theo quan
điểm này ta sẽ sử dụng đơn vị đo lường thống nhất là đơn vị tiền tệ.
3. Yêu cầu kết hợp hai quan điểm vật chất và tài chính khi nghiên cứu sản xuất:
Do hoạt động sản xuất kinh doanh là một hoạt động chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế

khách quan, các nhân tố bên trong cũng như các yếu tố bên ngoài nên khi nghiên cứu quá trình sản
xuất ta cần phải quan tâm đến cả mặt số lượng cũng như chất lượng của quá trình đó. Khi nghiên
cứu phải xác định rõ đang xem xét quá trình sản xuất từ góc độ nào để có tư duy kinh tế logic, hợp
lý rõ ràng, không lẫn lộn. Việc nghiên cứu cần phải giải quyết được các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Xác định được khái niệm sản phẩm của từng ngành kinh tế và phân loại các sản phẩm đó
theo các tiêu thức phù hợp để có thể xác định đúng kết quả sản xuất của từng doanh nghiệp, từng
ngành, tránh tình trạng xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trùng lắp hoặc bỏ sót kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Xác định kết quả quá trình sản xuất qua những mục tiêu, kế hoạch như chất lượng sản phẩm
sản xuất, số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ.
- Đánh giá quá trình sản xuất qua các thời kỳ và các chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị.
Từ đó có thể thấy rằng ta cần kết hợp chặt chẽ hai quan điểm vật chất và tài chính như sự liên
hệ vốn có giữa hai mặt vật chất và tài chính của sản xuất ví dụ như ta có vốn nhưng không có
nguyên vật liệu, trang thiết bị, không có lao động thì quá trình sản xuất sẽ không thể thực hiện được
và ngược lại ta có lao động, có nguồn cung cấp nguyên vật liệu nhưng không có vốn thì cũng không
thể thực hiện được quá trình sản xuất. Từ đó có thể thấy rằng việc tách rời hai quan điểm này trong
quá trình nghiên cứu sẽ dẫn việc xem xét quá trình sản xuất một cách riêng lẻ, không có mỗi liên hệ
với quá trình sản xuất khac từ đó sẽ dẫn đến các nhận xét, kết luận siêu hình và cuối cùng là sẽ đưa
ra những giải pháp phi thực tế hoặc rất khó để có thể thực hiện được.
Tóm lại, để tính toán và phân tích đúng các chỉ tiêu thống kê nhằm mô tả khách quan quá
trình sản xuất cần hiểu đúng và quán triệt hai quan điểm vật chất và tài chính trong khi xem xét quá
trình này.
4. Đặc điểm vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính ở Việt Nam từ trước đến nay,
đặc biệt là gắn với các chỉ tiêu đánh giá quá trình sản xuất (chỉ tiêu hiện vật, chỉ tiêu giá trị):
Để xét đến đặc điểm vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính ở Việt Nam ta cần phải tìm
hiểu những đặc điểm chụ yếu của hệ thống bảng cân đối sản phẩm vật chất (MPS) và hệ thống tài
khoản quốc gia (SNA)
Như tên gọi của nó, hệ MPS chỉ đưa vào hệ thống kế toán sản phẩm của các ngành sản xuất
vật chất. Khu vực thương mại và dịch vụ của nền kinh tế không tồn tại vì được cho là không làm ra
của cải vật chất cho xã hội và vì thị trường không được thừa nhận. Sức hút của khu vực ba, thương

mại dịch vụ, đối với khu vực hai, công nghiệp và chế biến, và khu vực một khai thác tài nguyên,
của nền kinh tế là một khái niệm thừa và xa lạ vì sản xuất là theo kế hoạch, nên chỉ có lưu thông và
phân phối sản phẩm được làm ra theo kế hoạch quyết định từ Trung ương.
Thống kê kinh tế 2
Một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa SNA và MPS là đối với SNA, phạm trù sản xuất
bao gồm cả sản xuất ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Như vậy, SNA có phạm vi nghiên cứu rộng
hơn MPS, do đó SNA phản ánh đầy đủ hơn quá trình tái sản xuất bao gồm: sản xuất, phân phối và
sử dụng sản phẩm.
Hai hệ thống còn có điểm khác biệt nhau về phạm vi lãnh thổ. Trong MPS, lãnh thổ của một
quốc gia chính là lãnh thổ địa lý của quốc gia đó. Đó là vùng đất, vùng trời, thềm lục địa nằm trong
lãnh hải mà quốc gia đó có chủ quyền. Trong SNA, quan điểm về lãnh thổ kinh tế của một quốc gia,
ngoài lãnh thổ địa lý còn có phần lãnh thổ nằm ở nước ngoài được quốc gia đó sử dụng cho mục
đích quân sự (Căn cứ quân sự), mục đích ngoại giao (đại sứ quán, lãnh sự quán), hãy nghiên cứu
khoa học (các trạm nghiên cứu).
Việc vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính ở Việt Nam có thể xem xét trên các giai
đoạn lịch sử chủ yếu sau:
Trong thời kỳ 1954 - 1975, Việt Nam chia thành hai miền nam bắc với hai chế độ chính trị
khác nhau. . Ở miền Bắc, ngành Thống kê áp dụng phương pháp luận “Hệ thống các bảng cân đối
vật chất - MPS”. Còn ở miền Nam, Viện Thống kê thuộc chính quyền Sài Gòn áp dụng “Hệ thống
các tài khoản quốc gia - SNA”.
Thời kỳ 1976-1988 đất nước thống nhất, ngành Thống kê áp dụng MPS cho phạm vi cả nước.
Từ năm 1989 đến nay, ngành Thống kê Việt Nam áp dụng SNA trên phạm vi toàn quốc. Ngày
25 tháng 12 năm 1992, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 183/TTg về việc chính thức áp dụng hệ
thống SNA trên phạm vi cả nước thay cho hệ thống MPS trước đây.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy rằng giai đoạn ngành Thống kê áp dụng MPS thì Việt
Nam đã vận dụng quan điểm vật chất trong nghiên cứu sản xuất và hạch toán nền kinh tế quốc dân.
Việc vận dụng quan điểm này được biểu hiện rõ nét nhất trong việc giao kế hoạch hàng năm của
Nhà nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Trong cơ chế này, kế hoạch cần phải được giao đầy
đủ, chi tiết và trở thành pháp lệnh của các ngành, các địa phương. Việc sản xuất và cả phân phối lưu
thông đều được thực hiện theo kế hoạch do Trung ương lập ra và các chỉ tiêu kế hoạch đặc trưng

của cơ chế này là chỉ tiêu hiện vật, xác định mặt vật chất của nền kinh tế. Kế hoạch chỉ tính đến sản
xuất vật chất đã dẫn đến sản xuất chú trọng đến trọng lượng, càng nặng cân càng “hiệu quả”, không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế, đến cải tiến mẫu mã, cải tiến công nghệ. Hệ quả là năng suất lao
động bị kìm hãm, khoa học kỹ thuật không thâm nhập được vào sản xuất, hàng tồn kho ứ đọng
nhưng vẫn được hạch toán nguyên giá trị, lời giả nhưng lỗ thật, nền kinh tế ngày càng kiệt quệ.
Ngoài việc đề ra kế hoạch chỉ tính đến sản xuất vật chất, việc tính toán, xác định các kết quả của
quá trình sản xuất cũng chỉ quan tâm đến các chỉ tiêu hiện vật như việc hàng năm thống kê xem
ngành nông nghiệp đã nuôi được bao nhiêu con lợn, thu hoạch được bao nhiêu tấn lúa, hoa màu;
ngành công nghiệp sản xuất được bao nhiêu cái xe đạp, bao nhiêu tấn sắt… Trên thực tế do việc áp
dụng phương pháp luận “Hệ thống các bảng cân đối vật chất – MPS nên việc vận dụng quan điểm
vật chất trong nghiên cứu sản xuất của Việt Nam trong giai đoạn trước năm 1989 là hoàn toàn phù
hợp với nội dung của MPS, cụ thể:
Việc xây dựng MPS dựa vào lý luận của Marx cho rằng hoạt động vật chất là hoạt động tạo ra
của cải vật chất và các ngành trực tiếp phục vụ cho sản xuất và lưu thông sản phẩm. Trong hệ thống
MPS sử dụng hai chỉ tiêu tổng hợp: Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để đo tăng trưởng
kinh tế theo đó:
- Tổng sản phẩm xã hội ở đây được hiểu là toàn bộ của cải vật chất do các ngành sản xuất vật
chất sản xuất ra trong thời gian một năm, về mặt hiện vật bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và vật
phẩm tiêu dùng, về mặt giá trị bao gồm (c+v+m).
- Thu nhập quốc dân là phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi trừ đi hao phí vật chất
cho quá trình sản xuất tức là bằng bộ phận tư liệu sản xuất dùng để tích lũy và toàn bộ vật phẩm tiêu
dùng, về mặt giá trị bao gồm (v+m). Về thực chất, thu nhập quốc dân là giá trị mới sáng tạo.
Thống kê kinh tế 3
MPS là hệ thống chỉ tiêu kinh tế tổng hợp được trình bày dưới dạng bảng cân đối, phản ánh
hoạt động của toàn bộ nền kinh tế bao gồm các yếu tố, kết quả của hoạt động sản xuất, quá trình
phân phối, sử dụng sản phẩm và các mối quan hệ cân đối của quá trình tái sản xuất.
Như vậy, hệ thống các chỉ tiêu của MPS quan tâm chủ yếu đến tổng sản phẩm được sản xuất
ra bởi các ngành sản xuất vật chất, việc phân tích, đánh giá các kết quả của quá trình sản xuất cũng
chỉ dựa vào kết quả của các ngành sản xuất vật chất còn các ngành sản xuất vật chất không được
tính đến.

Kể từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu áp dụng Hệ thống các tài khoản quốc gia – SNA. Do
điểm khác nhau cơ bản giữa MPS và SNA như đã nêu ở trên nên có thể thấy rằng từ năm 1989, đặc
biệt là từ năm 1992, Việt Nam đã vận dụng kết hợp cả hai quan điểm vật chất và tài chính trong
nghiên cứu sản xuất và hạch toán nền kinh tế quốc dân. Đặc điểm nổi bật nhất chứng minh cho việc
vận dụng kết hợp hai quan điểm này là việc xây dựng kế hoạch hàng năm và dài hạn của Việt Nam.
Một trong những nội dung đổi mới kế hoạch hóa của Việt nam là chuyển trung tâm từ kế hoạch hóa
bằng hiện vật sang kế hoạch hóa bằng các chỉ tiêu giá trị, đề cao vai trò của các tổ chức tài chính,
ngân hàng nói riêng và khu vực thương mại và dịch vụ nói chung. Khác với chỉ tiêu hiện vật, đưa ra
khả năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa khối lượng sản xuất với khối lượng nhu cầu sản xuất
sản phẩm, các chỉ tiêu giá trị đo lường kết quả tổng hợp của quá trình tái sản xuất như: GDP,GNP,
lợi nhuận, tiền công, giá trị vốn sản xuất. Mặt khác, sự liên kết giữa các phần của mục tiêu vĩ mô
cũng được thể hiện bằng các chỉ tiêu giá trị như tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu trong cân
đối vĩ mô, xu hướng phát triển của các ngành, vùng, khả năng chuyển dịch cơ cấu. Trong việc đánh
giá kết quả của quá trình sản xuất, Việt Nam vẫn thực hiện thống kê theo chỉ tiêu hiện vật. Tuy
nhiên, việc thống kê theo chỉ tiêu hiện vật chỉ là nền tảng, cơ sở để từ đó có thể tính toán các chỉ
tiêu tổng hợp đo tăng trưởng kinh tế được sử dụng trong SNA: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), và tổng thu nhập quốc dân (GNI). Theo đó:
- GO là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra do kết quả họa động kinh tế
trên phạm vi lãnh thổ của một nước trong thời gian một năm.
- GDP là toàn bộ giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ được tao ra do kết quả hoạt
động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ một nước trong thời gian một năm.
- GNI là toàn bộ giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra do kết quả hoạt
động kinh tế của công dân một nước trong thời gian một năm.
SNA là một hệ thống biểu được thiết kế mang đặc trưng tài khoản để phản ánh hoạt động kinh
tế xã hội ở tầm vĩ mô bao gồm các điều kiện, các kết quả của quá trình hoạt động sản xuất; quá trình
phân phối – sử dụng sản phẩm và mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành của nền
kinh tế.
Như vậy, các chỉ tiêu tổng hợp đo tăng trưởng kinh tế được sử dụng trong SNA ngoài việc xét
đến sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất thì đã xét đến sản phẩm của khu vực thương mại và
dịch vụ. Và việc tính toán, xem xét các sản phẩm sản xuất ra không chỉ dừng lại ở việc đánh giá số

lượng đạt được mà đã thực hiện quy đổi, biểu hiện các sản phẩm đó theo giá trị (đơn vị tính toán
không còn khác biệt mà đã có một đơn vị chung đó là tiền tệ).
5. Quán triệt hai quan điểm trong thống kê kinh tế:
5.1. Phân biệt hai nhóm chỉ tiêu nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất:
- Nguồn lực tài chính:
- Nguồn lực vật chất:
5.2. Phân biệt hai nhóm chỉ tiêu Tài sản sản xuất và Vốn sản xuất:
- Tài sản sản xuất là toàn bộ tư liệu lao động, đối tượng lao động được sử dụng trong quá trình
sản xuất ra sản phẩm. Tài sản sản xuất bao gôm: Tài sản cố định và tài sản lưu động
Thống kê kinh tế 4
- Vốn sản xuất: là phần vốn được dùng để hình thành lên tài sản sản xuất. Nói cách khác, vốn
sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản sản xuất.
5.3. Phân biệt hai chỉ tiêu Tài sản cố định và Vốn cố định:
- Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài, có
hình thái hiện vật tự nhiên không thay đổi, tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất, giá trị giảm
dần và chuyển vào sản phẩm qua khấu hao. Quy mô tài sản cố định là chỉ tiêu thời điểm và có thể
tính theo đơn vị hiện vật hoặc giá trị. Theo mục đích khác nhau, tài sản cố định có thể được phân tổ
theo các tiêu thức sau:
+ Theo hình thái vật chất được phân thành hai nhóm: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
TSCĐ hữu hình bao gồm nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật truyền
dẫn, thiết bị và dụng cụ quản lý, cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm, các TSCĐ khác.
TSCĐ vô hình bao gồm: chi phí thăm dò khoáng sản, phần mềm vi tính và cơ sở dữ liệu, bản gốc
của các tác phẩm văn học nghệ thuật giải trí và các TSCĐ phi vật chất khác như quyền sở hữu công
nghiệp, phát minh, sáng chế…
+ Theo các tiêu thức khác như: theo nguồn hình thành gồm TSCĐ tự có và đi thuê, theo vai
trò trong quá trình sản xuất gồm TSCĐ tích cực và thụ động…
- Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận vốn được sử dụng để hình thành tài
sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp. Nói cách khác, vốn cố định của
doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn của
doanh nghiệp.Đặc điểm của vốn cố định:

+ Vốn cố định luân chuyển qua nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do tài sản
cố định và các khoản đầu tư dài hạn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
+ Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bộ phận vốn cố định đầu
tư vào sản xuất được phân ra làm hai phần, một bộ phận vốn cố định tương ứng với giá trị hao mòn
của tài sản cố định được dịch chuyển vào chi phí kinh doanh hay giá thành sản phẩm dịch vụ được
sản xuất ra, bộ phận giá trị này sẽ được bù đắp và tích lũy lại mỗi khi hàng hóa hay dịch vụ được
tiêu thụ. Bộ phận còn lại của vốn cố định nằm ở tài sản cố định dưới hình thức giá trị còn lại của
của tài sản cố định.
5.4. Phân biệt hai chỉ tiêu Tài sản lưu động và Vốn lưu động:
- Tài sản lưu động là đối tượng lao động chỉ dùng được trong một chu kỳ sản xuất. Đó là tổng
thể nói chung tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và những khoản có thể chuyển ngay thành tiền mặt, như
thương phiếu… Tài sản lưu động của doanh nghiệp thường gồm 2 bộ phận: Tài sản lưu động trong
sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông. Tài sản lưu động trong sản xuất là những vật tư dự trữ
như nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu … và sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. Tài sản lưu
động trong lưu thông bao gồm: Sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong
thanh toán, các khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước…
- Vốn lưu động Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của doanh
nghiệp. Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, thông thường vốn lưu động được phân loại
theo các tiêu thức khác nhau:
+ Phân loại theo hình thái biểu hiện: Theo tiêu thức này, vốn lưu động được chia thành:
• Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán: Vốn bằng tiền gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi
ngân hàng, tiền đang chuyển, kể cả kim loại quý (Vàng, bạc, đá quý …). Vốn trong thanh
toán: Các khoản nợ phải thu của khách hàng, các khoản tạm ứng, các khoản phải thu khác
• Vốn vật tư hàng hóa (hay còn gọi là hàng tồn kho) bao gồm nguyên, nhiên vật liệu,
phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
Thống kê kinh tế 5
• Vốn về chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên
quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều chu
kỳ kinh doanh như: chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí

nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván
khuôn, giàn giáo, phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản …
+ Phân loại vốn theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Theo
cách phân loại này vốn lưu động được chia thành 3 loại:
• Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản nguyên, vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ lao động nhỏ.
• Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và vốn về chi
phí trả trước.
• Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, các
khoản đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn …) các khoản vốn
trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng …)
5.5. Phân biệt hai chỉ tiêu Chi phí trung gian và Tiêu dùng trung gian:
- Chi phí trung gian: phản ánh giá trị hàng hóa và dịch vụ được sử dụng hết trong quá trình
sản xuất để tạo ra sản phẩm mới trong một thời kỳ nhất định, gồm cả chi phí sửa chữa nhỏ và duy tu
tài sản cố định dùng trong sản xuất. Chi phí trung gian được tính theo ngành kinh tế và toàn bộ nền
kinh tế, theo giá thực tế và giá so sánh. Chi phí trung gian chia thành hai nhóm chủ yếu:
+ Nhóm chi phí vật chất gồm: nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, điện, nước, khí
đốt, chi phí công cụ sản xuất nhỏ, vật rẻ tiền mau hỏng và chi phí sản xuất vật chất khác;
+ Nhóm chi phí dịch vụ gồm: vận tải, bưu điện, bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ pháp lý,
dịch vụ quảng cáo và các dịch vụ khác.
- Tiêu dùng trung gian: là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ làm đầu vào cho quá trình sản
xuất và được dùng hết trong một chu kỳ kế toán. Giá trị của lượng hàng hóa dịch vụ đó không mất
đi nhưng hình thái hiện vật của nó thường biến đổi và chuyển vào sản phẩm. Ví dụ vải chuyển
thành áo, điện, xăng dầu và các dịch vụ thì được tiêu dùng hết nhưng giá trị của nó giữ nguyên và
chuyển vào giá thành của áo. Theo quan điểm tài chính thì giá trị của tiêu dùng trung gian được gọi
là chi phí trung gian. Tiêu dùng trung gian không bao gồm tiêu dùng tài sản cố định và tài sản quý
hiếm.
5.6. Phân biệt hai chỉ tiêu Tiêu dùng cuối cùng và chi cho Tiêu dùng cuối cùng:
- Tiêu dùng cuối cùng là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu cuối cùng của
hộ gia đình và xã hội (bao gồm tiêu dùng cuối cùng của dân cư và tiêu dùng cuối cùng của chính

phủ). Tiêu dùng cuối cùng của dân cư không bao gồm tiêu dùng tài sản cố định dưới dạng nhà ở và
tích lũy tài sản quý hiểm.
- Chi cho tiêu dùng cuối cùng là toàn bộ chi phí bằng tiền mà hộ gia đình, xã hội phải bỏ ra để
sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu cuối cùng của mình. Nói cách khác, chi cho tiêu
dùng cuối cùng là biểu hiện về mặt giá trị của tiêu dùng cuối cùng.
5.7. Phân biệt luồng sản phẩm trong xuất nhập khẩu và luồng thu chi:
- Luồng sản phẩm trong xuất nhập khẩu là toàn bộ hàng hóa (vật chất và dịch vụ) tham gia
vào quá trình xuất nhập khẩu như mua bán, trao đổi, chuyển giao với nước ngoài thông qua các hợp
đồng thương mại, hợp đồng đổi hàng gia công, thông qua trao đổi trực tiếp giữa dân cư thường trú
của Việt Nam và dân cư không thường trú qua các đường biên giới, các cửa khẩu; những hàng hóa
là quà tặng, biếu, các đồ dùng và phương tiện, tài sản của dân cư thường trú Việt Nam chuyển ra
nước ngoài hoặc ngược lại.
Thống kê kinh tế 6
- Luồng thu chi trong xuất nhập khẩu là luồng tiền ra vào do các nguyên nhân khác nhau,
không chỉ do xuất nhập khẩu hàng hóa mà còn do phân phối và chuyển nhượng (thu chi nhân tố sản
xuất với nước ngoài, quan hệ chuyển nhượng với nước ngoài như cho, biếu, tặng, viện trợ…).
5.8. Phân biệt tài khoản sản xuất theo hai quan điểm:
5.9. Vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính trong tài khoản I - O:
Trong SNA, bảng I/O được coi là trung tâm của hệ thống và có ý nghĩa quan trọng, tổng hợp
quá trình sản xuất. Bảng I/O phản ánh toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ, toàn bộ các chi phí cho
sản xuất cũng như tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế. Bảng I/O cũng phản ánh mối liên hệ giữa
các ngành trong quá trình sản xuất và sử dụng sản phẩm, mối liên hệ được thể hiện qua việc sử
dụng sản phẩm lẫn nhau để sản xuất. Bảng I/O là cơ sở để xác định phương hướng chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế, xây dựng các định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu hợp lý và đề xuất chính
sách phân phối sản phẩm xã hội cho chi phí trung gian và tiêu dùng cuối cùng.
Từ ý nghĩa trên có thể thấy rằng trong tài khoản I/O, hai quan điểm vật chất và tài chính đã
được vận dụng một cách linh hoạt để có thể vừa phản ánh được toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch
vụ, toàn bộ các chi phí cho sản xuất cũng như tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế. Có nghĩa là cần
phải xem xét đến sự vận động về mặt vật chất và mặt tài chính của quá trình sản xuất cũng như tiêu
dùng cuối cùng, từ đó mới có thể xây dựng được tài khoản I/O.

Ví dụ như cách xác định nội dung bảng I/O theo các ô vuông lớn:
Bảng I/O được chia theo 3 ô vuông lớn.
-Ô vuông I phản ánh: chi phí trung gian trong quá trình sản xuất, nêu lên việc chu chuyển sản
phẩm giữa các ngành. Đó là các x_ij. Phản ánh sản phẩm của ngành I cung cấp cho ngành j trong
quá trình sản xuất.
-Ô vuông II phản ánh sản phẩm dùng để sử dụng cuối cùng của các ngành, bao gồm:
Y
i
= C
i
+ G
i
+ I
j
+ (E
j
- M
i
)
Trong đó:
C
i
: Tiêu dùng cuối cùng của cá nhân
G
i
: Tiêu dùng cuối cùng của xã hội
I
i
: Đầu tư của ngành i
E

i
: Giá trị xuất khẩu của ngành i
M
i
: Giá trị nhập khẩu của ngành i
-Ô vuông III: Phản ánh giá trị gia tăng của các ngành, đó cũng là kết quả của phân phối lần
đầu:
V
j
= D
j
+ w
j
+ T
j
+ S
j
Trong đó:
D
j
: Giá trị khấu hao
w
j
: Thu nhập của người lao động
T
j
: Thuế sản xuất, kinh doanh
S
j
: Thặng dư sản xuất

5.10. Vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính trong tài khoản quan hệ quốc tế với nước
ngoài:
Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài hay Tài khoản phần còn lại của thế giới phản ánh
mối quan hệ kinh tế của nền kinh tế trong nước với nước ngoài. Theo quan điểm thường trú thì tài
Thống kê kinh tế 7
khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài phản ánh các giao dịch giữa các đơn vị thường trú với các
đơn vị không thường trú.
Sơ đồ nguyên tắc tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài:
Chi ra nước ngoài Thu từ nước ngoài
A. TK giao dịch thường xuyên
–––––––––––––––––––––––
1. Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ 1. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
2. Chi trả nhân tố tham gia hoạt động sản
xuất
2. Thu từ nhân tố tham gia hoạt động sản xuất
3. Chi chuyển nhượng thường xuyên 3. Thu chuyển nhượng thường xuyên
B. TK giao dịch vốn
––––––––––––––––
1. Chuyển nhượng vốn ra nước ngoài 1. Chuyển nhượng vốn từ nước ngoài
2. Đầu tư vốn ra nước ngoài 2. Đầu tư vốn của nước ngoài
3. Cho vay dài hạn 3. Vay nợ thương mại
4. Chi tài sản tài chính khác 4. Thu tài sản tài chính khác
1. Cán cân thương mại
2. Cán cân giao dịch thường xuyên
3. Cán cân vốn
4. Tổng cán cân thanh toán
a) Tài khoản giao dịch thường xuyên với nước ngoài
Tài khoản giao dịch thường xuyên còn được gọi là tài khoản vãng lai, phản ánh các thanh toán
ngắn hạn trong giao dịch với nước ngoài. Tài khoản này bao gồm các giao dịch:
-Xuất nhập khẩu hàng hóa

-Xuất nhập khẩu dịch vụ
-Thu chi từ các nhân tố tham gia hoạt động sản xuất
-Thu chi chuyển nhượng thường xuyên
* Các chỉ tiêu chủ yếu
- Xuất nhập khẩu hàng hóa: Xuất, nhập khẩu hàng hóa là sự mua bán, trao đồi, chuyển giao
các loại sản phẩm hàng hóa vật chất giữa Việt Nam với nước ngoài hay còn gọi là chuyển quyền sở
hữu về hàng hóa vật chất từ các đơn vị thể chế thường trú sang đơn vị thể chế không thường trú, và
như vậy nó sẽ làm tăng hoặc làm giảm nguồn sản phẩm vật chất của Việt Nam.
- Xuất nhập khẩu dịch vụ: Xuất nhập khẩu dịch vụ là sự mua bán, trao đổi các sản phẩm do
hoạt động dịch vụ tao ra trên các lĩnh vực giao thông vận tải, thông tin liên lạc, bảo hiểm, du lịch,
tài chính, ngân hàng, văn hóa và các hoạt động dịch vụ khác do các đơn vị, dân cư thường trú cung
cấp cho các đơn vị, dân cư không thường trú và ngược lại.
- Thu chi từ nhân tố tham gia hoạt động sản xuất:
+ Tiền công của người lao động với nước ngoài.
Thống kê kinh tế 8
+ Thu nhập và chi trả lợi tức đầu tư từ sản xuất, kinh doanh.
+ Thu nhập và chi trả lãi tiền gửi, tiền cho vay.
+ Thu nhập và chi trả lợi tức từ cho thuê hoặc đi thuê đất đai, vùng biển, vùng trời.
- Thu chi chuyển nhượng thường xuyên: là chuyển nhượng hiện hành là quá trình trao đổi thu
nhập giữa các đơn vị, thường trú và không thường trú với mục đích cho tiêu dùng cuối cùng. Gồm:
+Thuế đánh vào thu nhập cá nhân, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và các loại lệ phí
đánh vào của cải và tiêu dùng khác.
+ Các khoản chuyển nhượng khác bao gồm: đóng (hoặc chi trả) bảo hiểm rủi ro, viện trợ, quà
biếu, tặng của các tổ chức Chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và quà biếu, kiều hối
của cácc hộ gia đình, đóng góp vào các tổ chức quốc tế.
b) Tài khoản giao dịch vốn với nước ngoài
Tài khoản giao dịch vốn với nước ngoài phản ánh mối quan hệ với nước ngoài về tài chính,
tiền tệ nhằm mục đích để đầu tư tăng tích lũy tài sản hoặc sử dụng vốn tài chính để tích lũy.
* Nội dung các chỉ tiêu chủ yếu
- Chuyển nhượng vốn: Đây là các khoản vốn chuyển nhượng liên quan đến đầu tư sản xuất.

+ Các khoản viện trợ cho đầu tư bằng tiền hoặc bằng hàng hóa như máy móc, thiết bị và các
dự ánh hình thành vốn cố định.
+ Xóa nợ: là những khoán vay nợ trước đây, nay được các nước cho vay xóa nợ, không phải
hoàn lại.
- Đầu tư vốn của nước ngoài:
+ Đầu tư trực tiếp bao gồm: đầu tư 100% vốn vào các doanh nghiệp mới thành lập, vốn cổ
phần, thu nhập tái đầu tư.
+ Đầu tư vào các giấy tờ có giá bao gồm: các khoản nợ (vay nợ) ngắn hạn và dài hạn, các trái
phiếu, tín phiếu, chứng khoán, cổ phần.
- Tài sản tài chính khác: Bao gồm các khoản vay không bảo lãnh, các khoản vay được thanh
toán bằng các công cụ tài chính và các chứng từ không chuyển nhượng được như tín dụng cho
những người tiêu dùng, sử dụng tín dụng của quỹ các khoản vay từ quỹ, các hợp đông thuê mua tài
chính
Từ kết cấu của Sơ đồ nguyên tắc tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài và nội dung các chỉ
tiêu chủ yếu ta thấy việc xây dựng và phân tích tài khoản quan hệ quốc tế với nước ngoài được kết
hợp cả hai quan điểm vật chất và quan điểm tài chính. Tài khoản quan hệ quốc tế gồm hai phần, một
phần biểu thị tổng lượng hàng hóa tham gia vào quá trình xuất nhập khẩu (tài khoản giao dịch
thường xuyên) và một phần biểu thị tổng lượng vốn tham gia vào quá trình xuất nhập khẩu (tài
khoản giao dịch vốn). Đồng thời ngoài việc biểu thị tổng lượng hàng hóa, trong tài khoản giao dịch
thường xuyên còn biểu thị việc thu – chi trong hoạt động xuất nhập khẩu.
5.11. Vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính trong các phương pháp tính GDP:
Tổng sản phầm quốc nội GDP là toàn bộ giá trị gia tăng của các ngành sản xuất vật chất và
dịch vụ được tạo ra do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ một nước trong một khoảng
thời gian nhất định. Ta có thể vận dụng hai quan điểm vật chất và tài chính để thực hiện việc tính
toán chỉ tiêu GDP.
Khi xét theo quan điểm vật chất, ta sẽ xem xét có bao nhiêu sản phẩm mới được tạo ra?
Chúng được sử dụng như thế nào? Công thức tính GDP theo phương pháp sủ dụng trong trường
hợp này là:
GDP (Y) = Quỹ tiêu dùng + Quỹ tích lũy + Chênh lệch XNK
Thống kê kinh tế 9

Trong công thức trên, các chỉ tiêu được hiểu như sau:
- Tiêu dùng trong là tiêu dùng sản phẩm (sản phẩm được tiêu dùng). Nó gồm tiêu dùng cá
nhân và tiêu dùng xã hội. Tiêu dùng này được xét theo người sử dụng và được xét theo sản phẩm
các ngành được sử dụng bao gồm cả tiêu dùng sản phẩm vật chất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ.
- Quỹ tích lũy là xét xem có bao nhiêu sản phẩm được sản xuất ra được dùng cho tích lũy, làm
tăng tài sản quốc dân, xét sản phẩm của các ngành được sử dụng như thế nào.
- Chênh lệch xuất nhập khẩu: được xét trên quan điểm vật chất, cân đối sản phẩm các ngành,
xét luồng sản phẩm. Vì vậy xuất nhập khẩu ở đây là xuất nhập khẩu hàng hóa, là toàn bộ hàng hóa
(vật chất và dịch vụ) tham gia vào quá trình xuất nhập khẩu như mua bán, trao đổi, chuyển giao với
nước ngoài.
Như vậy, theo quan điểm vật chất thì khi tính toán GDP ta sẽ quan tâm đến số lượng hàng
hóa, dịch vụ được tiêu dùng, tích lũy và tham gia vào quá trình xuất nhập khẩu.
Cũng theo phương pháp sử dụng, khi xét theo quan điểm tài chính, GDP sẽ được tính toán:
GDP (Y) = Chi cho tiêu dùng gồm hộ chi (C) và Chính phủ chi (G) + Tiết kiệm (S) + Chênh
lệch xuất nhập khẩu (NX)
Trong công thức trên, các chỉ tiêu được hiểu như sau:
- Chi tiêu cho tiêu dùng: có nghĩa là thu nhập được chi (sử dụng) cho tiêu dùng. Nó gồm tiêu
dùng do hộ chi trả (tiêu dùng do mua và coi như mua) và tiêu dùng do chính phủ chi trả (tiêu dùng
cho không và coi như cho không). Các chỉ tiêu này được xác định trên cơ sở phân tích tài liệu điều
tra thu chi các hộ gia đình và phân tích quyết toán ngân sách nhà nước. Có thể nói tiêu dùng ở đây
được xét theo người chi trả và được xét theo thu nhập cuối cùng của các khu vực thể chế được sử
dụng.
- Tiết kiệm: là phần thu nhập có thể sử dụng không được chi vào tiêu dùng. Cần phân biệt tiết
kiệm (S) và đầu tư (I). Không phải tất cả tiết kiệm đều được đầu tư. Chỉ ở một số nước có hai chỉ
tiêu này xấp xỉ nhau, khi đó mới có thể dùng chỉ tiêu đầu tư (I) thay cho tiết kiệm (S) được. Hai chỉ
tiêu tiết kiệm và đầu tư được xác định trên cơ sở phân tích thu chi và được dùng để nghiên cứu thu
chi, lập và phân tích tài khoản thu chi và thưởng được xét theo các khu vực thể chế. trong một nền
kinh tế khép kín, tiết kiệm bằng đầu tư.
- Xuất nhập khẩu được hiểu là luồng tiền ra vào do các nguyên nhân khác nhau, không chỉ do
xuất nhập khẩu hàng hóa mà còn do phân phối và chuyển nhượng (thu chi nhân tố sản xuất với

nước ngoài, quan hệ chuyển nhượng với nước ngoài như cho, biếu, tặng, viện trợ…).
Công thức trên được xây dựng từ cách xem xét sản xuất theo quan điểm tài chính có nghĩa là
xem xét sản xuất trong kỳ tạo ra bao nhiêu thu nhập? nó được phân phối như thế nào? Thu nhập
cuối cùng được hình thành ra sao và được sử dụng như thế nào?
Ngoài ra còn có các phương pháp tính GDP khác như:
* Phương pháp sản xuất: GDP = GO – IC
GO: là tổng giá trị sản xuất, là toàn bộ giá trị của các ngành sản xuất và dịch vụ được tạo ra
do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ một nước trong khoảng thời gian nhất định. Về
nguyên tắc, giá trị sản xuất là tổng giá trị hàng hóa thực hiện được trong năm. Dưới giác độ chi phí
sản xuất, tổng giá trị sản xuất bao gồm chi phí trung gian và giá trị gia tăng.
IC: là chi phí trung gian, gồm toàn bộ chi phí về sản phẩm vật chất và dịch vụ cho sản xuất và
không bao gồm khấu hao tài sản cố định.
Như vậy phương pháp tính GDP như trên đã kết hợp cả hai quan điểm vật chất và quan điểm
tài chính. Một mặt ta cần xác định nhu cầu về nguyên vật liệu để sản xuất, xác định được tổng sản
lượng sản phẩm được sản xuất ra, trên cơ sở đó sẽ tính toán được về mặt giá trị của sản phẩm vật
Thống kê kinh tế 10
chất và dịch vụ cho sản xuất và tổng giá trị hàng hóa thực hiện được trong năm. Từ đó, ta sẽ tính
toán được chỉ tiêu GDP theo phương pháp sản xuất.
* Phương pháp phân phối: theo phương pháp này, GDP bao gồm các khoản thu nhập hình
thành từ sản xuất:
GDP = D
p
+ W + M
x
+ T
i
+ S
p

D

p
: Khấu hao máy móc thiết bị
W: Tiền công, tiền lương trả cho người lao động
M
x
: Thu nhập hỗn hợp
T
i
: Thuế sản xuất – kinh doanh
S
p
: Thặng dư sản xuất
Phương pháp tính GDP này dựa trên quan điểm tài chính.

Thống kê kinh tế 11

×