Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

tiểu luận thực trạng của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.62 KB, 51 trang )

Tiểu luận: Thực
trạng của các Ngân
hàng Thương mại
Việt Nam
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Mục lục 2
Nội dung: thực trạng và giải pháp 5
I. Vốn và các vấn đề về vốn 5
1. Vốn tự có 5
1.1. Tổng quan 5
1.2. Thực trạng 6
1.3. Giải pháp 11
1.3.1. Đối với NHTM 11
1.3.2. Đối với ngân hàng nhà nước 11
2. Vốn pháp định 12
2.1. Khái niệm 12
2.2. Thực trạng 12
2.3. Ứng xử NHTM 13
3. Huy động vốn và lãi suất huy động vốn 13
3.1. Thực trạng 13
3.2. Nguyên nhân 17
3.3. Giải pháp 18
4. Cổ phiếu và trái phiếu 19
4.1. Cổ phiếu 19
4.1.1. Thực trạng 19
4.1.2. Giải pháp 20
4.2. Trái phiếu 20
4.2.1. Khái niệm trái phiếu 20
4.2.2. Thực trạng 21


4.2.3. Giải pháp 21
II. Hoạt động tín dụng của ngân hàng 22
1. Rủi ro tín dụng 22
1.1. Khái niệm chung 22
1.1.1. Tín dụng, tín dụng ngân hàng 21
2
1.1.2. Rủi ro tín dụng 21
1.2. Rủi ro gắn với hoạt động của ngân hàng thương mại 22
1.2.1. Các hình thức rủi ro tín dụng 22
1.2.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 23
1.2.2.1 Nguyên nhân từ phía khách hàng 23
a. Khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng 23
b. Khách hàng không gian lận 23
1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 23
1.2.2.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh 24
a. Môi trường kinh tế 24
b. Môi trường pháp lý 24
1.2.2.4. Nguyên nhân từ môi trường xã hội 25
1.3. Giải pháp hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng 25
1.3.1. Nghiên cứu khách hàng 25
1.3.2. San sẻ rủi ro 26
1.3.3. Thực hiện bảo đảm rủi ro tín dụng 26
1.3.4. Giám sát và cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế 27
1.3.5. Hạn chế tín dụng 27
1.3.6. Đa dạng hóa đầu tư 27
2. Lợi nhuận thu được của các ngân hàng thương mại 27
III. Dịch vụ chăm sóc khách hàng 28
1. Dịch vụ ngân hàng qua Internet 29
2. Dịch vụ thẻ ATM 30
IV. Mạng lưới 31

1. Mạng lưới NHTM ở Việt Nam 31
2. Giải pháp cho hệ thống NHTM ở Việt Nam 38
V. NHTM VN cạnh tranh với NHTM nước ngoài 39
1. Việt Nam gia nhập WTO: cơ hội và thách thức 39
2. Cạnh tranh với NHTM NNg: thách thức lớn đối với NHTM VN 41
2.1. Năng lực tài chính 41
2.2. Năng lực công nghệ 43
3
2.3. Nguồn nhân sự 43
2.4. Năng lực quản lý điều hành 44
2.5. Mạng lưới hoạt động 44
2.6 Mức độ đa dạng hóa sản phẩm 44
3. Giải pháp cạnh tranh 45
3.1. Tiếp tục tăng cường năng lực tài chính 45
3.2. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng 46
3.3. Chú trọng chiến lược phát triển nguồn nhân lực 47
3.4. Tăng cường năng lực quản trị điều hành theo tiêu chuẩn quốc tế 47
3.5. Mở rộng mạng lưới ngân hàng, đa dạng hóa sản phẩm 48
3.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ NH và dịch vụ NH 48
Kết luận…………………………………………………………………….50
4
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại( NHTM) là một chủ đề hiện đang được rất nhiều người
quan tâm nghiên cứu trong thời gian qua. Nhưng trước tiên chúng ta cần hiểu NHTM
là gì? Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của
Ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa
các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu.
Ngân hàng thương mại là loại hình Ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến
nhất hiện nay. Hơn 20 năm sau khi đổi mới đất nước, hệ thống Ngân hàng Thương mại
đã góp vai trò không nhỏ trong sự phát triển nền kinh tế nước nhà:

Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng
bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi
trường đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và
hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng
kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục.
Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp
phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững.
Thứ năm, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát
triển bền vững.
Tuy nhiên, các Ngân hàng Thương mại nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó
khăn trong hoạt động cũng như trong quản lý. Do đó chúng có những thực trạng đáng
buồn mà không ít người quan tâm. Đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới
hiện nay.
Nhận thấy tầm quan trọng cũng như những hạn chế của các Ngân hàng Thương
mại Việt Nam, chúng em quyết định chọn đề tài “Thực trạng của các Ngân hàng
Thương mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
Thực tế có nhiều sinh viên cũng như những chuyên gia kinh tế đã nghiên cứu về
vấn đề này. Đây là thuận lợi cho chúng em trong quá trình tìm kiếm, thu thập thông tin;
kế thừa những kinh nghiệm trong việc nghiên cứu khoa học. Nhưng đó cũng chính là
khó khăn khi thời gian có hạn mà trình độ, kiến thức tích lũy cũng như kinh nghiệm
nghiêm cứu của chúng em chưa nhiều. Cho nên, bài tiểu luận của chúng em sau đây
chắc chắn sẽ còn thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được lời góp ý của cô và các bạn
để bài làm được hoàn thiện hơn.
Tiểu luận của nhóm 1 sẽ góp phần hữu ích đối với các bạn sinh viên, đặc biệt là
lớp Tài chính Ngân hàng K09 để có được một góc nhìn trước hoạt động của các Ngân
hàng Thương mại nước nhà. Đồng thời bổ sung thêm nguồn tài liệu học tập cho các
bạn học tốt hơn môn học này.
5

NỘI DUNG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I. THỰC TRẠNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Vốn tự có
1.1. Tổng quan
Thực tế cho thấy, trong khoảng thời gian những năm gần đây, khối Ngân hàng
Thương mại cổ phần (NHTM CP) đã có những bước tiến ngoạn mục, đóng một vai trò
không nhỏ vào sự phát triển chung của ngành Ngân hàng và nền kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, khi mà cánh cửa hội nhập đang đến “gõ cửa” từng doanh nghiệp và lộ trình của
nó đang ngày một rút ngắn về thời gian thì các NHTM nói chung và khối các NHTM
CP nói riêng đang phải đối mặt với những thách thức nhất định. Trong đó vấn đề năng
lực tài chính là vấn đề trọng tâm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN VN) đã đưa
ra nhiều biện pháp để thực hiện những chủ trương, chỉ đạo của Nhà nước nhằm giúp
các NHTM mở rộng quy mô hoạt động, hiệu quả kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh
tranh và hòa nhập tốt với nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những giải pháp
để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM CP Việt Nam trong thời gian tới là
tăng vốn tự có.
Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ sở hữu đóng
góp và nó còn được tạo ra trong qúa trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại.
Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ (vốn ngân sách cấp, vốn cổ phần thường,
vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn), quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia và các
khoản khác (các tài sản nợ khác theo qui định của NHNN).
Với nền kinh tế thị trường, vốn tự có là cơ sở hình thành pháp lý kinh doanh cho
các doanh nghiệp, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm
bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vốn tự có còn là
yếu tố có ý nghĩa quyết định sống còn đến sự hình thành và phát triển lâu dài của Ngân
hàng. Giai đoạn từ năm 2006 cho đến nay đã chứng kiến việc đua nhau tăng vốn của
các Ngân hàng cổ phần, nhất là khối các NHTMCP trong nước.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, mặc dầu vốn tự có bình quân của các NHTMCP
có tăng nhưng kết quả việc tăng vốn vẫn chưa đáp ứng hết được những mong đợi của
các Ngân hàng. Việc tăng vốn tự có nhanh trong một khoảng thời gian ngắn mà không

kèm theo những thay đổi chưa chắc đã giúp các NHTMCP nâng cao vị thế và tạo ra
những ảnh hưởng tốt đến các quyết định của thị trường, ngược lại có thể tạo thêm
nhiều nguy cơ rủi ro tiềm ẩn lớn hơn. Để rõ hơn về thực trạng nguồn vốn tự có của
doanh nghiệp, dưới đây là một số kết quả đã đạt được của các NHTM trong thời gian
qua, bên cạnh đó là những mặt còn hạn chế, nguyên nhân và giải pháp để từng bước
khắc phục những hạn chế đó.
1.2. Thực trạng
Điểm đáng nổi bật trên thị trường tài chính thời gian qua là Nghị định
141/2006/NĐ-CP, đến cuối năm 2010 vốn điều lệ của các NHTM CP phải đạt 3.000 tỷ
6
đồng. Các tổ chức tín dụng (TCTD) đều rất nỗ lực để hoàn thành việc tăng vốn điều lệ
theo đúng lộ trình quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã
chịu tác động của một số nguyên nhân khách quan như bối cảnh nền kinh tế thế giới
sau khủng hoảng chưa có dấu hiệu thực sự khả quan.
Bên cạnh đó, việc Chính phủ có chủ trương hạn chế các Tổng công ty, doanh
nghiệp Nhà nước góp vốn ra ngoài lĩnh vực chính cũng là một khó khăn lớn cho các
TCTD cổ phần có cổ đông hiện hữu là các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước khi
thực hiện tăng vốn điều lệ. Ngoài ra, một số TCTD cổ phần đã niêm yết cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán cũng gặp phải một số quy định về thời gian khi phát hành cổ
phiếu ra công chúng mà không thể hoàn tất việc tăng vốn điều lệ đúng thời hạn quy
định.
Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận đề xuất giãn lộ trình tăng vốn điều lệ lên
3.000 tỉ đồng đối với các ngân hàng thương mại đến 31-12-2011 theo như đề xuất
của ngân hàng Nhà nước.
Cho đến thời điểm có quyết định gia hạn, có khoảng 17 trên tổng số hơn 40
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng vẫn chưa thể hoàn thành mục tiêu tăng vốn điều lệ
theo Nghị định 141. Mặc dù lộ trình tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng đã được Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận ngay từ cuối tháng 9, vẫn có khá nhiều nguyên nhân khiến
việc thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn ở một số Ngân hàng.
Để tăng vốn điều lệ, các Ngân hàng chủ yếu huy động từ 3 nguồn chính: phát

hành ra công chúng qua thị trường chứng khoán, phát hành cho các cổ đông hiện hữu
và phát hành cho các cổ đông chiến lược nước ngoài.
Tuy nhiên, bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước khiến thị trường chứng khoán trong
năm trồi sụt và ảm đạm, các cổ đông hiện hữu là các tổng công ty, doanh nghiệp nhà
nước hay Ngân hàng lớn của nhà nước bị hạn chế góp vốn cho các hoạt động ngoài
lĩnh vực chính, thậm chí còn bị yêu cầu thoái vốn từ các tổ chức tài chính, trong khi
kinh tế thế giới phục hồi chậm lại khiến sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài không
còn mặn mà.
Các nguồn huy động này còn đặc biệt khó khăn hơn nữa đối với các Ngân hàng
nhỏ, chưa có thương hiệu và còn đang gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Ước tính
còn khoảng 10 nghìn tỷ đồng mà các Ngân hàng này cần phải huy động thêm nếu
muốn thực hiện đúng quy định, điều mà khó có thể hoàn thành trong khoảng thời gian
ngắn ngủi còn lại của năm 2010.
Rõ ràng, việc giãn thời gian tăng vốn điều lệ là không thể tránh khỏi, nếu Ngân
hàng Nhà nước không muốn những biến động khó kiểm soát trong hệ thống tài chính
trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước năm 2010 vẫn chưa ổn định.
Ví dụ, ở thời điểm hiện tại, việc sát nhập những Ngân hàng nhỏ và năng lực
điều hành kém có thể sẽ là giải pháp mang lại nhiều xáo trộn, Ngân hàng Nhà nước
khó giám sát phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro.
7
Vậy, việc gia hạn thêm thời gian cho các NHTM hoàn thành lộ trình tăng vốn
điều lệ theo Nghị định là một việc làm mang lại lợi ích hay gây khó khăn cho các
NHTM? Để trả lời cho câu hỏi đó, ta cần xét đến tác động của nó trong ngắn hạn và dài
hạn.
Trước hết, trong ngắn hạn, tác động dễ thấy nhất của quyết định gia hạn trên thị
trường chứng khoán là do không còn áp lực tăng vốn, hiện tượng phát hành ồ ạt thêm
cổ phiếu hoặc trả cổ tức bằng cổ phiếu của các Ngân hàng và áp lực bán tháo cổ phiếu
Ngân hàng để cổ đông có tiền cho những đợt tăng vốn sẽ không còn.
Ngoài ra, những dòng vốn từ công chúng hay cổ đông hiện hữu, thay vì phải
được huy động vào hệ thống Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu tăng vốn điều lệ, thì nay

có thể tìm đến thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Cộng với tâm lý không
còn quá bi quan với cổ phiếu ngành Ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói
chung, thị trường chứng khoán trong ngắn hạn sẽ hưởng lợi từ việc hoãn hạn chót tăng
vốn.
Mặc dù các Ngân hàng vẫn phải tăng vốn cho đến 31/12/2011, nhưng với số vốn
bổ sung thêm chỉ còn 10 nghìn tỷ đồng, hiện tượng cổ phiếu ngành Ngân hàng bị pha
loãng có thể sẽ không tái diễn, khi các Ngân hàng có tới một năm để thu xếp các nguồn
vốn cần thiết, trong kỳ vọng chính sách tiền tệ có thể không còn quá thắt chặt vào quý
2 năm 2011.
Trong khi đó, các Ngân hàng quy mô nhỏ có thể quẳng gánh lo tăng vốn điều lệ
trong ngắn hạn để tập trung khả năng và nguồn lực để giải quyết những vấn đề nội tại
như đảm bảo các điều kiện an toàn theo Thông tư 13, đảm bảo thanh khoản cho thời
điểm cuối năm và giáp Tết, hoàn thành các chỉ tiêu tín dụng và lợi nhuận và củng cố
khả năng cạnh tranh trong bối cảnh lãi suất gia tăng.
Một phần nguồn tiền của các cổ đông hiện hữu, bên cạnh đầu tư vào thị trường
chứng khoán, cũng có thể tìm đến hệ thống Ngân hàng như những khoản đầu tư tiết
kiệm, và theo đó, sức ép thanh khoản đáp ứng nhu cầu vốn cuối năm của hệ thống sẽ
được giảm nhẹ, cuộc đua lãi suất có thể vì thế mà bớt đi căng thẳng.
Tuy nhiên, việc hoãn tăng vốn điều lệ đến một năm có thể phải trả giá trong dài
hạn. Không phải vô cớ mà Ngân hàng Nhà nước muốn các Ngân hàng thương mại tăng
vốn điều lệ năm 2010 là 3.000 tỷ đồng, và có lộ trình tăng lên 5 nghìn tỷ (năm 2012) và
10 nghìn tỷ (năm 2015).
Một hệ thống tài chính gồm quá nhiều Ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực tài
chính yếu luôn là một rủi ro đến an toàn hệ thống. Những hiện tượng như cuộc đua lãi
suất bắt nguồn từ những Ngân hàng nhỏ do tình trạng khát vốn, cho vay lãi suất cao
trong khi khả năng quản trị điều hành kém, vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân
hàng để cho vay dài hạn và đẩy lãi suất liên Ngân hàng tăng cao là những ví dụ cho
thấy việc tồn tại song song những Ngân hàng có quy mô khác biệt lớn có thể gây bất
ổn đến hệ thống như thế nào.
8

Việc trì hoãn tăng vốn trong vòng 1 năm tới cũng đồng nghĩa với việc những
hiện tượng trên nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục tái diễn, và theo đó, nỗ lực giảm lãi suất
và bình ổn thị trường vốn sẽ còn gặp rất nhiều cam go.
Ngoài ra, quy định hệ số an toàn vốn CAR trong Thông tư 13 sẽ tiếp tục là cản
trở các Ngân hàng không thể tăng mạnh được tài sản đã điều chỉnh rủi ro, nếu phần tử
số - vốn tự có - vẫn ở quy mô thấp.
Do đó, mức lãi suất đầu ra ở các Ngân hàng, đặc biệt các Ngân hàng nhỏ, sẽ tiếp
tục gặp khó trong quá trình điều chỉnh giảm. Hơn nữa, động thái gia hạn thêm với thời
gian tương đối dài là không cần thiết, khi các Ngân hàng nhỏ đã có rất nhiều nỗ lực để
tăng vốn điều lệ trong suốt năm qua, và số vốn mà các Ngân hàng còn thiếu thực ra
không quá lớn, nếu có với quy mô và khả năng của cả hệ thống tài chính.
Và cuối cùng nhưng chắc chắn chưa phải là hồi kết, những quan ngại “kinh
niên” về tính nhất quán và hiệu lực của các quy định hay chính sách của Ngân hàng
Nhà nước tiếp tục ám ảnh thị trường. Niềm tin, điều tối quan trọng để điều hành chính
sách tiền tệ có hiệu quả và theo đó ảnh hưởng đến ổn định trong dài hạn, vẫn tiếp tục là
điều phải chờ đợi.
Vấn đề cơ bản của quy định về vốn điều lệ của một Ngân hàng không hẳn ở chỗ
một nền kinh tế có quá nhiều hay quá ít Ngân hàng, hay Ngân hàng quá nhỏ. Mấu chốt
của vấn đề vốn điều lệ là đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, nên việc tăng vốn
theo quy định cần thực hiện đồng bộ với các giải pháp như phân loại và quản lý nợ
theo chuẩn mực quốc tế thì mới đạt mục đích đề ra.
Một hệ thống tài chính an toàn khi các Ngân hàng có hệ số an toàn vốn (CAR –
capital adequacy ratio) cao, nói cách khác có đủ vốn để “chịu trận” khi lỗ. Nếu vốn
thấp mà lỗ nặng, Ngân hàng sẽ phá sản và vì đặc thù của loại hình kinh doanh này sẽ
rất dễ kéo toàn hệ thống sụp đổ theo, liên luỵ cho cả nền kinh tế.
Hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, capital adequacy ratio –
CAR) là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các Ngân hàng. Chỉ
tiêu này được dùng để xác định khả năng của Ngân hàng trong việc thanh toán các
khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận
hành.

Điều quan trọng là hệ số này phụ thuộc vào hai yếu tố: tử số là vốn điều lệ và
mẫu số là tổng tài sản. Như vậy để tăng độ an toàn cho một Ngân hàng hay toàn bộ hệ
thống, nhà quản lý hoặc chặn không cho Ngân hàng tăng tổng tài sản quá cao hoặc yêu
cầu Ngân hàng phải tăng vốn. Việc NHNN yêu cầu các Ngân hàng tăng vốn tối thiểu
lên 3.000 tỉ đồng có thể coi là một vế của kế hoạch tăng hệ số an toàn vốn cho toàn hệ
thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ tối thiểu là không đủ và có thể còn làm tăng
rủi ro.
+ Thứ nhất, nếu Ngân hàng tăng vốn điều lệ đồng thời tăng tổng tài sản thì hệ số
an toàn vốn có thể không tăng. Đây là khả năng rất dễ xảy ra vì một Ngân hàng khi đi
huy động vốn điều lệ họ không thể nói tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
9
của Ngân hàng này sẽ giảm, như thế không ai bỏ tiền mua cổ phiếu của Ngân hàng đó.
Để ROE không giảm trong khi hệ số an toàn vốn tăng, Ngân hàng buộc phải tăng tỷ
suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), một điều không dễ trong hoàn cảnh hoạt động
Ngân hàng ở Việt Nam còn rất khó khăn như hiện nay. Liệu có ai tin một Ngân hàng
không mấy tên tuổi có ROA cao hơn hẳn mặt bằng chung của toàn hệ thống? Ngược
lại, để thu hút nhà đầu tư trong khi hàng loạt Ngân hàng đang phải cạnh tranh nhau huy
động vốn, các Ngân hàng nhỏ sẽ phải quảng cáo ROE cao, cổ tức cao, bằng cách âm
thầm giảm bớt hệ số an toàn vốn (tăng đòn bẩy – leverage). Nghĩa là cuộc chạy đua
tăng vốn điều lệ sẽ làm hệ thống Ngân hàng rủi ro hơn.
+ Thứ hai, vấn đề phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu
đó của các Ngân hàng vẫn còn khoảng cách so với chuẩn mực quốc tế. Cứ giả sử
NHNN thành công trong việc tăng hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống, nhưng nếu nợ
xấu vẫn được giấu kỹ ở đâu đó thì hệ số an toàn vốn mà các Ngân hàng báo cáo chỉ là
số ảo, con số thực sẽ thấp hơn nhiều và rủi ro tiềm ẩn cao hơn nhiều. Tạm thời bỏ qua
các khoản nợ xấu trong lịch sử, việc yêu cầu tăng vốn điều lệ sẽ buộc các Ngân hàng
phải chạy đua tăng ROE/ROA như đề cập ở trên để cạnh tranh thu hút vốn. Trường
hợp này rủi ro nợ xấu sẽ tăng lên, do vậy không giải quyết được vấn đề phân loại và
theo dõi nợ xấu. Yêu cầu tăng vốn điều lệ (để tăng hệ số an toàn vốn) do đó không giải
quyết được bài toán an toàn cho hệ thống.

+ Thứ ba, khi các Ngân hàng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn điều lệ, thì
buộc phải sáp nhập. Về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai Ngân hàng có hệ số
an toàn vốn thấp sau khi sáp nhập hệ số này không thể tăng dù vốn điều lệ tăng. Kể cả
nếu bỏ qua hệ số an toàn vốn, liệu rủi ro hệ thống có giảm đi khi các Ngân hàng nhỏ
sáp nhập lại với nhau không? NHNN lập luận rằng với số Ngân hàng ít đi họ sẽ giám
sát chặt chẽ hơn và bản thân các Ngân hàng sẽ cẩn thận hơn và điều hành tốt hơn là
những Ngân hàng nhỏ manh mún hiện nay. Trước hết cần xác định, Ngân hàng càng
lớn thì hoạt động và sản phẩm càng phức tạp, NHNN sẽ càng khó giám sát và kiểm tra
để phòng ngừa hay ngăn chặn rủi ro. Ngoài vấn đề quá lớn để thất bại (too-big-to-fail),
nhiều nhà kinh tế như Krugman, Johnson đã cảnh báo hiện tượng “quá lớn để quản lý”
(too-big-to-regulate). Nghĩa là Ngân hàng lớn sẽ có nhiều cách để “lách luật”, hoặc tệ
hơn nữa là tìm cách ảnh hưởng tới quá trình làm luật và các chính sách để có lợi cho
mình.
Lập luận cho rằng các Ngân hàng nhỏ hiện nay thiếu chuyên môn và hoạt động quá
liều lĩnh có một phần chính xác. Tuy nhiên giải pháp sáp nhập các Ngân hàng nhỏ
và/hoặc buộc tăng vốn điều lệ không giải quyết được nguyên nhân căn bản. Chuyên
môn và nghiệp vụ Ngân hàng không phải là điều quá khó để các Ngân hàng nhỏ có thể
học được (với sự giúp đỡ của NHNN). Việc điều hành những Ngân hàng nhỏ có 1 – 2
chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với một Ngân hàng lớn có chi nhánh toàn quốc và cả
ở nước ngoài. Việc tăng chuyên môn phụ thuộc vào sự đào tạo, giúp đỡ, giám sát của
NHNN nhiều hơn là vào việc sáp nhập. Các Ngân hàng nhỏ sau khi sáp nhập với nhau
không có nghĩa đội ngũ nhân viên và lãnh đạo tự nhiên có trình độ chuyên môn tăng
lên.
10
+ Thứ tư, điểm cuối cùng và không kém phần quan trọng, cần phải xác định đâu
là nguyên nhân chính khiến các Ngân hàng nhỏ hoạt động quá rủi ro (ví dụ chạy đua lãi
suất hay vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng để cho vay dài hạn). Đó không
phải là vì họ nhỏ và thiếu chuyên môn mà đó là hậu quả tất yếu của việc các Ngân
hàng quốc doanh và một vài Ngân hàng lớn được hưởng nhiều ưu đãi (vô tình hay cố
ý) nên các Ngân hàng nhỏ không còn cách nào khác là phải liều lĩnh hơn để đạt được

ROE như đã hứa với các cổ đông.
Tỷ trọng vốn tự có/tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại nhìn chung còn
thấp chỉ đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và đảm bảo
phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thì các Ngân hàng thương mại nên tăng tỷ lệ này
lên khoảng từ 8% - 10 % là hợp lý.
Mặt khác vốn tự có/ nợ phải trả cho ta biết được cán cân vốn_nợ của Ngân
hàng. Khi các Ngân hàng sử dụng các biện pháp tăng vốn, huy động vốn sẽ gây ra sự
mất cân đối cán cân này.
Nếu tỷ lệ vốn tự có/nợ phải trả quá cao thì tức là Ngân hàng đang kinh doanh
phần lớn bằng nguồn vốn của mình, khá độc lập với thị trường vốn, nhưng nếu như vậy
lại dẫn đến chi phí sử dụng vốn cao vì không tận dụng được vốn của người khác để
kinh doanh.
Nếu vốn tự có/nợ phải trả thấp tức là Ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào thị
trường vốn dẫn đến sức ép của nợ nần, tăng rủi ro cho hoạt động kinh doanh. Song nếu
quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn vay thì sẽ mang lại khoản lợi nhuận lớn.
1.3. Giải pháp
1.3.1. Đối với từng Ngân hàng thương mại
Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn (phát hành cổ phiếu, trái phiếu ) một cách
hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi Ngân hàng trong từng giai đoạn nhằm phát
huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn chế các nhược điểm của từng biện
pháp.
Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ sung, kết
hợp với việc cải cách Ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành,
năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho Ngân hàng làm tăng
lợi nhuận cho Ngân hàng dẫn đến tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại.
Các Ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh (thế
mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường
công tác tiếp thị; Các Ngân hàng thương mại Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản
phẩm dịch vụ Ngân hàng. Tất cả nhằm mục đích làm tăng uy tín của Ngân hàng - điều
này rất quan trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo.

1.3.2. Đối với Ngân hàng nhà nước
Quản lý thật tốt thị trường chứng khoán vì đây là một kênh huy động vốn hiệu
quả cho các doanh nghiệp nói chung và cho các Ngân hàng TMCP nói riêng. Thị
11
trường chứng khoán phát triển sẽ rất thuận lợi cho các NHTMCP phát hành thêm cổ
phiếu mới để tăng vốn tự có và nâng cao năng lực tài chính của mình. Việc cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các Ngân hàng thương mại trong nước (tối
đa 30%) cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN.
Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM VN, cải cách Ngân hàng theo
hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và
năng lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập đoàn tài chính -Ngân hàng đủ
lớn, mạnh dạn sắp xếp lại NHTMCP theo hướng thanh lý, giải thể những Ngân hàng
yếu kém, sáp nhập những Ngân hàng nhỏ không đủ vốn pháp định vào những Ngân
hàng lớn (vốn pháp định NHTM đô thị cần điều chỉnh trên 200 tỷ đồng).
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng theo
hướng hội nhập. Hai luật Ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi sao
cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tất cả nhằm tạo cơ chế
thông thoáng, môi trường pháp lý ổn định, chặt chẽ cho các Ngân hàng cạnh tranh công
bằng và cùng nhau phát triển.
Nếu các giải pháp trên đây được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại VN trong tiến trình hội nhập
quốc tế.
2. Vốn pháp định
2.1. Khái niệm
Theo quy định tại Điều 4 Luật Doanh nghiệp (2005) thì khái niệm vốn pháp
định được hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập
doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là Nhà nước sẽ đặt ra mức sàn tối thiểu về vốn đối
với một số ngành nghề cụ thể và nhà đầu tư phải đáp ứng số vốn đó từ bằng hoặc lớn
hơn mức mà nhà nước đặt ra thì mới được thành lập doanh nghiệp và hoạt động trong
ngành nghề đó.

Quy định về vốn pháp định là việc làm cần thiết để nhằm tạo ra sự an toàn cho
xã hội và đảm bảo trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp trước đối tác và chủ nợ. Vì
thực chất những ngành nghề như kinh doanh tiền tệ – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm,
kinh doanh chứng khoán trên thế giới nhiều quốc gia cũng đã và đang áp dụng mức
vốn pháp định, cho nên ở Việt Nam cũng không là ngọai lệ.
2.2. Thực trạng
Theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành Danh mục mức vốn
pháp định của các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép
thành lập và hoạt động sẽ phải có biện pháp bảo đảm số vốn điều lệ thực góp hoặc
được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp định theo quy định, chậm nhất vào ngày
31/12/2011, thay cho quy định cũ thời hạn này là ngày 31/12/2010.
12
Với các Ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2011
là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với Ngân hàng
chính sách, Ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng hợp
tác và quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500
tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng.
Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, các NHTM có thời gian 4 năm để thực hiện
việc tăng vốn điều lệ với 2 giai đoạn cụ thể (giai đoạn 1 kết thúc 31/12/2008 và giai
đoạn 2 kết thúc 31/12/2010).
Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân
khách quan, khiến việc tăng vốn điều lệ từ các nguồn khác nhau của nhiều NHTM
trong nước gặp phải một số khó khăn.
Vì vậy, việc gia hạn thời gian tăng vốn điều lệ cho các NHTM đến 31/12/2011
là một trong những chủ trương đúng đắn. Bởi sẽ giảm bớt áp lực về thời gian tăng vốn
cho các NHTM chưa thể tăng đủ ngay mức vốn pháp định, nhưng đảm bảo có sự công
bằng đối với những NHTM thời gian qua đã nỗ lực tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn
pháp định theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
2.3 Ứng xử của NHTM

Dù được gia hạn việc nâng vốn pháp định lên 3.000 tỉ đồng thêm một năm nữa
nhưng kết thúc năm 2010 (31-12), nhiều Ngân hàng thương mại vẫn nâng vốn pháp
định đảm bảo quy định pháp luật.
Như Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VIETBANK) đến ngày 30-12
mới chính thức hoàn thành các thủ tục pháp lý tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng.
VIETBANK cho biết việc tăng vốn điều lệ này được thực hiện theo công văn
chấp thuận tăng vốn lên 3.000 tỉ đồng của Ngân hàng Nhà nước ngày 21-9 và nằm
trong kế hoạch của Ngân hàng theo đúng lộ trình. Không chỉ có VIETBANK mà Đại Á
và Tiên Phong cũng nâng vốn đúng thời hạn.
Các Ngân hàng trên cho biết dù được gia hạn thời gian thêm 12 tháng nhưng có
ít Ngân hàng ỉ lại và nhiều Ngân hàng vẫn hoàn thành việc tăng vốn theo đúng lộ trình
(31-12-2010). Việc tăng vốn như quy định nhằm nâng cao năng lực tài chính cũng như
vị thế cạnh tranh trong những năm tới.
Và quan trọng, là vẫn đảm bảo tiếp tục duy trì mục tiêu tăng vốn điều lệ để nâng
cao năng lực tài chính của các NHTM, tiếp tục khuyến khích các NHTM tăng vốn điều
lệ để sớm đạt được mức vốn pháp định.
13
3. Huy động vốn và lãi suất huy động vốn
3.1. Thực trạng
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Hầu
hết các Ngân hàng thương mại chỉ có từ 20-30 % là vốn tự có, còn lại là vốn đi vay.Vì
vậy, việc thu hút vốn là vấn đề hàng đầu của các Ngân hàng thương mại và vốn cũng là
một câu hỏi lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam.
Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đầu tư khá cao, tuy nhiên tỷ
trọng nguồn vốn trung và dài hạn lại thấp, mà chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
Có nhiều hạn chế gây khó khăn trong việc huy động vốn của cac NHTM, trước hết
là về phía bản thân các NHTM.
Thứ nhất, mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao.

Việc huy động vốn của các NHTM phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác như
tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ phiếu,
trái phiếu trên thị trường tài chính.
Thứ hai, nội lực của chính các Ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực
hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Công nghệ Ngân hàng hiện đại và dịch vụ tuy đã có bước phát triển, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hệ thống dịch vụ Ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao,
chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ Ngân hàng truyền thống.
Các Ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn
huy động.
Chưa có sự phân đoạn thị trường để có những sản phẩm huy động vốn, sản
phẩm dịch vụ riêng cho từng nhóm khách hàng riêng biệt. Một chính sách Marketing
tốt phải đưa ra chiến lược quản lý khách hàng, trong đó việc thực hiện phân đoạn thị
trường theo các tiêu chí như vùng địa lý, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý,
các yếu tố thuộc thói quen hành vi… Không phải mọi khách hàng đều có nhu cầu như
nhau đối với các dịch vụ Ngân hàng và mang lại lợi nhuận như nhau cho Ngân hàng,
nên cần có sự phân đoạn để có những chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp. Các
sản phẩm hiện nay mà các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cung cấp ra thị
trường mang tính chất đại trà cho tất cả các khách hàng, không có sự phân biệt tới từng
nhóm đối tượng.
Thứ ba, dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên,
công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định.
14
Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Ngân hàng đã khiến các Ngân
hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút
khách hàng
Lãi suất là một trong những công cụ để các NHTM thu hút vốn, tuy nhiên, công
cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định. Sức ép cạnh tranh đã khiến các
Ngân hàng gần như đồng loạt công bố tăng lãi suất huy động vốn. Đáng lo ngại trước

tình trạng lãi suất đang chạm sát với giới hạn sinh lãi, khả năng an toàn các các Ngân
hàng và tác động tới tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh trong việc thu hút vốn đã tạo ra
cuộc chạy đua lãi suất trên thị trường nhằm giảm bớt những nguy cơ rủi ro thanh khoản
đang có chiều hướng gia tăng.
Nhiều NHTM đã liên tục tăng lãi suất với tần suất thay đổi có khi tới 3 đến 4
lần/tuần, và không chỉ diễn ra ở các NHTM cổ phần nhỏ mà còn đối với cả các NHTM
cổ phần hàng đầu và các NHTM Nhà nước.
NHNN cho biết, thời gian gần đây lãi suất huy động của các NHTM CP có mức
điều chỉnh tăng từ 0,2-0,5%/năm. Các NHTM Nhà nước cũng có mức điều chỉnh tăng
từ 0,1-0,3%/năm. Lãi suất huy động USD tăng khoảng từ 0,2-0,4%/năm, tập trung chủ
yếu ở nhóm NHTM cổ phần.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, hiện lãi suất huy động vốn mà các NHTM
đang áp dụng là quá cao, ngay cả khi lạm phát ở mức 10%. Thông thường các NHTM
chỉ nên đưa ra mức lãi suất huy động bảo đảm nguyên tắc lãi suất dương, có lợi cho
người gửi tiền là được.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là nguyên tắc lãi suất dương cần được thực hiện phù
hợp với thực tế thị trường để tạo cơ sở bảo đảm cho thị trường tín dụng tăng trưởng
trong thế ổn định. Đó chính là lý do vì sao Hiệp hội Ngân hàng đã đưa ra và kêu gọi
đồng thuận với mức lãi suất trần huy động là 12%/năm vào những tháng đầu năm
2010. Nhưng diễn biến lãi suất, cả huy động và cho vay hiện nay, lại không theo cái "lẽ
phải thông thường" đó. Biểu hiện bất thường, ẩn chứa nhiều bất ổn của lãi suất có thể
thấy ở hai khía cạnh lớn của vấn đề. Thứ nhất là nhiều NHTM, tuy chỉ niêm yết mức
lãi suất huy động 12%/năm, nhưng cộng thêm các chi phí khuyến mãi (bằng cả thưởng
tiền "nóng", thưởng lãi suất…) khiến lãi suất huy động trong thực tế đã vượt xa niêm
yết. Có Ngân hàng thực hiện ghi lãi suất huy động trên sổ chỉ 12%/năm, nhưng lại kèm
theo cam kết bằng văn bản trả thêm 3% lãi suất cho món tiền gửi đó khi đáo hạn. Tình
trạng khuyến mãi huy động không chỉ diễn ra đối với NHTM nhỏ, mà ở cả các NHTM
lớn. Thứ hai là có một số NHTM công khai "vượt trần" lãi suất huy động 12%/năm.
Trường hợp “xé rào" đầu tiên là NHTM CP Sài Gòn (SCB). Từ ngày 7/4/2008,
SCB đã triển khai kế hoạch phát hành 3.000 tỷ đồng kỳ phiếu kéo dài cho tới 4/6/2008.

Kỳ phiếu có thời hạn 270 ngày và 360 ngày, với lãi suất trả trước là 1%/tháng, tương
đương 12%/năm. Như vậy lãi suất thực khách hàng được trả khi mua kỳ phiếu lên tới
trên 13%/năm. Đặc biệt là khách hàng còn được khuyến mại thông qua tham gia
chương trình quay số dự thưởng của SCB với tổng trị giá giải thưởng là 2,5 tỷ đồng;
15
trong đó có giải đặc biệt là 2kg vàng SJC trị giá hơn 1 tỷ đồng, kèm theo rất nhiều giải
khác có giá trị.
NHTM CP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) cũng triển khai chương trình tiết kiệm
nhận ngay tiền lãi, với 7 loại gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn từ 1 tháng đến 6
tháng trả lãi trước là 10,5%/năm; các kỳ hạn từ 7 đến 13 tháng cũng trả lãi trước, với
lãi suất 11,0%/năm. Nhìn bề ngoài thì lãi suất của SHB thực hiện theo đúng thoả thuận
giữa các NHTM thành viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì, nhưng do lãi trả trước nên
tính thực ra lãi suất khách hàng được hưởng lên tới 12%/năm.
Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ khác, hay NHTM CP nông thôn, NHTM
CP nông thôn mới chuyển lên thành NHTM CP đô thị cũng cho biết đang chuẩn bị
điều chỉnh lãi suất huy động vốn đồng Việt Nam lên trên 11%/năm. Các NHTM CP
này kêu ca rằng họ đang ở vào thế bất lợi so với các NHTM NN và NHTM CP quy mô
lớn, quy mô khá, do đó vốn huy động từ khi áp dụng trần lãi suất thỏa thuận không
tăng, thậm chí cá biệt có Ngân hàng còn giảm.
NHTM CP nào cũng vì lợi ích kinh doanh của mình, của cổ đông. Thêm vào đó,
lãi suất trần huy động vốn tối đa chỉ mang tính thỏa thuận giữa các thành viên do Hiệp
hội Ngân hàng, không mang tính ràng buộc, không phải là quy định của cơ quan quản
lý Nhà nước, tức là không có tính pháp lý và không có chế tài xử phạt. Nên việc thực
hiện đúng các thỏa thuận đó là điều khó có thể đảm bảo.
Thực tế đã chứng minh, trong quá trình hoạt động cũng đã nảy sinh nhiều diễn
biến phức tạp như đã trình bày, khiến 2 tháng cuối năm hoạt động của thị trường tín
dụng dường như đã có lúc nằm ngoài tầm với của chính sách kinh tế. Lại một lần nữa
vấn đề lãi suất thực dương đã được các chuyên gia kinh tế đưa ra.
Việc các NHTM đồng loạt tăng lãi suất đang gây ra nhiều lo ngại. Đại diện một
NHTM phân tích, lãi suất huy động USD tăng cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào

của cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Bởi khi lãi suất huy động tăng thì lãi suất cho vay
khách hàng cũng phải tăng. Điều này sẽ khiến chi phí của doanh nghiệp đội lên cao,
gây áp lực tăng giá, một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Cứ như thế, lạm
phát tăng buộc các Ngân hàng lại phải tăng lãi suất huy động để đảm bảo thực dương.
Đồng thuận với việc cần đảm bảo lãi suất thực dương là câu hỏi: Vậy lãi suất thực
dương ở mức nào thì hợp lý? Lo ngại lớn nhất sau khi lãi suất huy động USD lên cao
chính là việc tỷ giá VND/USD sẽ chịu nhiều áp lực. Bởi khi lãi suất USD tăng cũng
đồng nghĩa với việc USD lên giá, khi đó VND bị coi là giảm giá so với USD. Điều này
sẽ gây ra nhiều phản ứng tiêu cực trên thị trường tiền tệ đặc biệt là trong bối cảnh kinh
tế đang có nhiều biến động hiện nay.
Lãi suất là giá cả của đồng vốn trong nền kinh tế. Một khi lãi suất huy động vốn
cao sẽ dẫn đến lãi suất cho vay cao làm hạn chế nhu cầu vay vốn của các đối tượng sản
xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới tăng trưởng chung của nền kinh tế và tạo thêm việc làm
mới trong xã hội. Mặt khác lãi suất cho vay vốn của NHTM ở mức cao làm tăng chi
phí đầu vào, tăng chi phí sử dụng vốn vay của DN, hộ sản xuất kinh doanh, tăng giá
16
thành của sản phẩm và dịch vụ, tăng giá bán trên thị trường, tác động ngược chiều đến
kiềm chế lạm phát.
Sau những ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống kinh tế của cuộc chay đua lãi suất,
cuối năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng
với các biện pháp điều hành tiền tệ linh hoạt lãi suất huy động và cho vay VND của các
Ngân hàng thương mại giảm dần (mức giảm khoảng 1%). Hiện nay, các Ngân hàng đã
thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá 14%/ năm.
Thứ tư, những NHTM trong nước hiện đang nắm giữ khoảng gần 90% thị phần.
Nhưng đây không phải là lợi thế của chúng ta mà chỉ là kết quả tất yếu của sự bảo hộ
trong suốt thời gian qua.
Bên cạnh những hạn chế của bản thấn các NHTM, cũng phải kể đến những hạn
chế khách quan từ môi trường vĩ mô.
Chính sách nhà nước về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (trong đó có
NHTMNN) còn chậm và nhà nước còn can thiệp vào hoạt động kinh doanh của Ngân

hàng.
Yếu tố giá cả tăng mạnh trong 2 năm gần đây gây ra tâm lý e ngại gửi tiền:
Người dân e ngại gửi tiền VND dài hạn vào hệ thống Ngân hàng, dẫn đến việc người
dân chuyển sang đầu tư vào bất động sản, hoặc tích trữ dưới dạng USD và vàng.
Về phía khách hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao trong
nhiều năm nhưng thu nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và
tích lũy trong dân cư tuy đã tăng nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực
sự tin tưởng khi gửi tiết kiệm.
Chẳng hạn như: Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng chỉ tập trung ở đô thị.
Trong khi đó, thị trường nông thôn còn bỏ ngỏ, nhưng nơi đây nguồn vốn có nhiều
tiềm năng, nhất là mấy năm gần đây nông thôn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều trang
trại, các hộ nuôi thủy sản, trồng cây ăn trái đặc sản, chăn nuôi mỗi năm thu nhập
hàng trăm triệu đồng và thậm chí cả tỷ đồng.
Có khoản tiền lớn trong tay, họ xây dựng nhà, mua sắm phương tiện sinh hoạt,
mua vàng cất trữ, không gởi tiền vào Ngân hàng nhưng đến khi cần vốn đầu tư cho sản
xuất lại tiếp tục vay Ngân hàng. Như tỉnh Trà Vinh có hơn 2.300 trang trại vay Ngân
hàng gần 200 tỉ đồng, có nhiều trang trại lãi ròng hàng trăm triệu nhưng hỏi ra không
có mấy trang trại gởi tiền tiết kiệm Ngân hàng. Không chỉ riêng Trà Vinh mà là thực
trạng chung của các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Các tỉnh địa bàn nông thôn sâu lại
càng khó huy động vốn. Nhiều xã vùng sâu, vùng xa thì nhu cầu vay vốn lớn, nhưng
ngược lại huy động vốn rất ít.
Qua thực tế trên cho thấy hiện nay, các Ngân hàng chưa tiếp cận các nguồn vốn
ở nông thôn, chưa hướng người dân thay đổi tập quán cất vàng chuyển sang gởi tiền
tiết kiệm tại các Ngân hàng.
3.2. Nguyên nhân
17
Có nhiều nguyên nhân của thực trạng lãi suất cao. Phải kể đến những biến động
tăng đột biến của giá vàng thế giới đã khiến giá vàng trong nước tăng vọt trong thời
gian qua. Bên cạnh đó, biến động tỷ giá ngoại tệ. Không thể phủ nhận chính những
biến động của giá vàng và tỷ giá đã làm nảy sinh tâm lý lo sợ lạm phát cao khiến một

phần tiền gửi bị hút đầu tư vào vàng và đôla, khiến nguồn huy động của các NHTM
cũng bị ảnh hưởng. Người ta cũng nói đến một nguyên nhân nữa, các NHTM phải thực
hiện Thông tư 13 và Thông tư 19 về việc chỉ được cho vay ra tối đa 80% vốn huy động
đầu vào. Chỉ tiêu pháp định về an toàn thanh khoản này đã khiến các NHTM phải gia
tăng nguồn huy động nhằm cân đối với nhu cầu mở rộng tín dụng. Đó cũng là áp lực
khiến phải tăng lãi suất huy động.
Ngoài ra, phải kể đến thực trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn tại nhiều
NHTM hiện nay. Đây là hệ quả của một thời gian khá dài các NHTM tập trung huy
động kỳ hạn ngắn, đến mức đã kéo thẳng đường cong lãi suất. Phần vốn ngắn hạn buộc
phải đáp ứng nhu cầu cho vay trung - dài hạn đó đã tạo áp lực đẩy lãi suất huy động
tăng cao nhằm bù đắp thiếu hụt thanh khoản vốn ngắn hạn đáo hạn. Chính hiện tượng
lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng tăng đột biến vào trung tuần tháng 11 mới đây
đã cho thấy hệ lụy khó lường của tình trạng mất cân đối kỳ hạn về nguồn vốn nói trên.
Cũng lại nhờ có sự can thiệp kịp thời bơm vốn giải quyết thanh khoản qua thị trường
mở nên lãi suất thị trường liên Ngân hàng đã giảm hẳn và đang vận hành ổn định. Cuối
cùng, theo các chuyên gia, lãi suất huy động vốn vẫn giữ xu hướng tăng được cho là
bởi kỳ vọng lạm phát vẫn tăng. Theo Tổng cục Thống kê tháng 11 đã tăng tới 1,86% so
với tháng 10, đưa CPI 11 tháng tăng tới 9,58%.
Bên cạnh đó, NHTM cổ phần quy mô nhỏ có mạng lưới hẹp, năng lực tài chính
hạn chế, uy tín và thương hiệu chưa được nhiều người biết. Do đó cùng lãi suất huy
động vốn như nhau, các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần có mạng lưới rộng, có
thương hiệu và uy tín, có năng lực tài chính mạnh, có điều kiện tăng chi phí cho quảng
bá, tiếp thị… sẽ huy động được nhiều vốn hơn.
Nên cuối cùng các NHTM cổ phần nhỏ lại phải đi vay lại vốn của các NHTM
khác trên thị trường liên Ngân hàng với lãi suất cao. Đây cũng là lý do tại sao sau hơn
2 tuần thực hiện trần lãi suất của Hiệp hội Ngân hàng nhưng lãi suất trên thị trường liên
Ngân hàng thì vẫn nóng vào những tháng đầu năm 2010. Lãi suất cho vay qua đêm vẫn
lên tới 10% - 14%, lãi suất cho vay kỳ hạn 1 tuần và 2 tuần lên tới 15% -
16%/năm.Trong khi đó thoả thuận trần lãi suất huy động vốn tối đa giữa các NHTM
thành viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì không có tính ràng buộc, không phải là quy

định của cơ quan quản lý Nhà nước, tức là không có tính pháp lý và không có chế tài
xử phạt.
NHTM cổ phần nào cũng vì lợi ích kinh doanh của mình, của cổ đông. Sau hơn
2 tuần thực hiện thoả thuận nhưng một số NH thành viên nhận ra sự bất lợi trong cạnh
tranh nên đã tự ý phá vỡ thỏa thuận, đẩy mức lãi suất huy động lên cao hơn rất nhiều so
với thỏa thuân ban đầu.
3.3. Giải pháp
18
Các NHTM có kinh nghiệm có thể hạn chế sự chuyển dịch tiền gửi của khách
hàng vì mục tiêu tìm kiếm lãi suất cao bằng các giải pháp khác thay vì tăng lãi suất.
Người gửi tiền thực chất đang thực hiện hành vi đầu tư, điều này chỉ ra rằng lợi nhuận
cao cũng đi liền với rủi ro cao.
Để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, Nhà nước đã có chính sách bảo hiểm
tiền gửi. Theo đó, hạn mức chi trả ngay tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền hiện
nay tối đa là 50 triệu đồng đã được quy định rõ tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của
Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, phần tiền gửi vượt hạn mức chi trả sẽ được thanh toán
tiếp cho người gửi tiền theo quy định về giải quyết các nghĩa vụ nợ của Luật phá sản.
Với quy định này, bản thân người gửi tiền cũng phải có trách nhiệm trong việc lựa
chọn ngân hàng để gửi tiền và việc tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách
bảo vệ quyền lợi người gửi tiền cũng cần được các NHTM thực hiện một cách đầy đủ,
tích cực.
Bên cạnh đó, để nâng cao niềm tin của công chúng, các NHTM có thể minh
bạch hóa tối đa hoạt động của mình, nhằm chỉ ra độ an toàn trong hoạt động đối với
khách hàng gửi tiền.
Mặt khác, cũng nên đưa ra các khuyến cáo về mức lãi suất mất an toàn trong
huy động vốn đối với hoạt động ngân hàng, khi mà đầu ra đã được chốt chặt bởi lãi
suất cơ bản đã được Ngân hàng Nhà nước công bố.
Trước diễn biến căng thẳng của thị trường lãi suất cũng như giải quyết một số
mâu thuẫn nói trên đòi hỏi việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô cần linh hoạt và sát
thực tiễn hơn, phù hợp với những diễn biến của thị trường, đảm bảo lợi ích chung của

nền kinh tế, của người gửi tiền và cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM.
4. Cổ phiếu và trái phiếu
4.1. Cổ phiếu
4.1.1. Thực trạng
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành.
Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác
nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ đông của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ
phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành.
Thực tế không chỉ những cổ đông cá nhân thoái vốn, các NHCP lớn trước đây
đã mạnh tay đầu tư vốn vào các Ngân hàng nhỏ cũng đang tìm cách thoái vốn để đảm
bảo chỉ tiêu an toàn vốn (CAR) theo quy định tại Thông tư 13 của NHNN (có hiệu lực
1-10-2010).
Sức cung cổ phiếu ngày càng tăng trong khi tỷ suất cổ tức của các Ngân hàng
nhỏ vẫn ở mức thấp so với lãi suất Ngân hàng, dù cổ tức ngành này tương đối ổn định.
19
Nhưng thực tế từ đầu năm 2010 đến nay các NHTM đang phải nỗ lực chạy đua
trước hàng loạt chỉ tiêu cơ quan quản lý quy định, đã tác động không chỉ đến hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng mà còn ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu
ngành này.
Cổ phiếu ngành Ngân hàng lình xình trong một thời gian dài đã khiến thị trường
chứng khoán (TTCK) Việt Nam chưa thể có một đợt sóng lớn trong năm 2010. Nhiều
số liệu cho thấy cổ phiếu Ngân hàng (CPNH) đang được giao dịch ở mức giá hấp dẫn
nhưng vẫn không thuyết phục nhà đầu tư mua vào.
TTCK Việt Nam hiện tại vẫn chưa phản ánh hết toàn bộ giá trị của các Ngân
hàng vì nhiều CPNH vẫn chưa niêm yết đầy đủ.
Với một thị trường mà nhà đầu tư, các công ty chứng khoán và quỹ đều chấp
nhận chơi ngắn hạn sẽ rất khó để CPNH được ưa chuộng. Khối lượng cổ phiếu lưu
hành quá lớn khiến cho những yếu tố đầu cơ rất khó “đụng” đến CPNH.
4.1.2. Giải pháp.
Từ thực trạng trên, nhiều chuyên gia khẳng định không nên tìm cách “kích”

CPNH trong ngắn hạn. CPNH có sức ì cũng tốt, nó là một cái đáy, cái nền của TTCK
và trở thành của để dành cho nhà đầu tư.
Các Ngân hàng sẽ phải nỗ lực hơn nếu muốn cổ phiếu của mình tăng trưởng,
không thể cứ mãi tìm cách mở rộng mạng lưới, gia tăng tổng tài sản mà đi vào chiều
sâu, tìm kiếm nguồn thu từ dịch vụ, không tiêu tốn quá nhiều vốn hoặc đòi hỏi chênh
lệch giữa đầu vào đầu ra
Cũng với những con người, hạ tầng đó nhưng nếu năng động hơn, chuyên
nghiệp hơn, nguồn thu sẽ được cải thiện đáng kể. Những Ngân hàng nào sớm tái cấu
trúc được mô hình hoạt động của mình sẽ có lợi thế cạnh tranh, gia tăng lợi nhuận đột
biến.
4.2. Trái phiếu
4.2.1. Khái niệm trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
(người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản
tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản
cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay
vốn, và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái
phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời
hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
20
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của Ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân
sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn
chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
4.2.2. Thực trạng

Trong quá trình cổ phần hóa NHTMNN hiện nay sự thiếu minh bạch trong quá
trình phát hành trái phiếu tăng vốn gây rủi ro cho các nhà đầu tư và làm ảnh hưởng đến
uy tín của Ngân hàng trong tiến trình cổ phần hóa.
Hiện tượng phát hành trái phiếu không minh bạch như trên có nhiều lí do.
Về phía Ngân hàng, do sức ép tài chính và yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa mà
phải tăng vốn càng nhanh càng tốt, lãi suất huy động càng thấp càng tốt. Về phía nhà
đầu tư, do chưa tìm hiểu kĩ về cơ chế phát hành cũng như tâm lí đầu tư theo đám đông
mua trái phiếu của Ngân hàng.
Cách thức phát hành trái phiếu huy động vốn như vậy có thể giúp cho
NHTMNN đạt được mục tiêu tăng vốn một cách nhanh chóng với lãi suất thấp. Nhưng
về lâu về dài mà nói thì nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới uy tín của Ngân hàng.
4.2.3. Giải pháp
Việc phát hành trái phiếu tăng vốn là rất cần thiết nhằm nâng cao năng lực tài
chính của NHTMNN để thực hiện chương trình cổ phần hóa. Tuy nhiên, trong quá
trình phát hành trái phiếu tăng vốn như đã trình bày ở trên có nhiều hạn chế khiến cho
các nhà đầu tư phải gánh chịu nhiều rủi ro, gây ảnh hưởng xấu đối với uy tín của
NHCP. Để khắc phục tình trạng đó, cần bổ sung quy định khi các NHTMNN phát hành
trái phiếu tăng vốn thì cần phải có văn bản nói rõ về những đặc điểm của loại trái phiếu
này. Các thông tin về trái phiếu phải được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trên trang web chính thức của Ngân hàng cũng như trong bản cáo bạch.
Mặt khác, cần quy định rõ về việc phát hành trái phiếu tăng vốn của Ngân hàng
thương mại nhà nước theo hướng xích lại gần hơn với các thông lệ quốc tế cả về chuẩn
mực lẫn cách thức phát hành. Các Ngân hàng thương mại nhà nước phải có các giải
pháp hỗ trợ đảm bảo tính thanh khoản của trái phiếu như ủy quyền cho các công ty
chứng khoán mua hoặc bán trái phiếu làm tăng giao dịch tại thị trường, thành lập một
bộ phận tại công ty chứng khoán có chức năng hỗ trợ, chắp nối các nhà đầu tư có nhu
cầu mua và bán trái phiếu. Các trái phiếu này sẽ được lưu kí và giao dịch trên thị
trường chứng khoán và sẽ trở thành cơ hội đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Việc
phát hành trái phiếu tăng vốn thành công trái phiếu tăng vốn sẽ giúp cho các Ngân
hàng thương mại cổ phần nâng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn, đảm bảo khả năng

cân đối nguồn vốn để đầu tư trung và dài hạn.
21
Tóm lại, trái phiếu là một hàng hoá phổ biến và không thể thiếu của thị trường
chứng khoán và thị trường tài chính. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu hiện nay chưa
tương xứng với tiềm năng của nó. Những giải pháp trên đã tập trung vào những vấn đề
nổi cộm nhất hiện nay cần tập trung giải quyết ở tầm vĩ mô.
II. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
1. Rủi ro tín dụng
Trong nền kinh tế xuất hiện nhu cầu cần vốn và “nhu cầu” cho vay vốn. Hai nhu
cầu này đều giống nhau ở chỗ để thu lợi nhuận và mang tính chất tạm thời. Nhưng
chúng khác nhau về chiều vận động và quyền sở hữu. Do đó, trong nền kinh tế tất yếu
tồn tại quan hệ tiêu dùng và tín dụng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng có ý
nghĩa to lớn đối với NHTM (NHTM) trong chiến lược huy động vốn và phát triển.
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Tín dụng, tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng
hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng
được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng
hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật -
hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.
Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài
chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên
cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt động này
làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con
nợ. Do đó, Tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một bên là người cho vay, và
một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa
thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả,
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế
và các cá nhân. Trong thực tế hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng nhưng bất

kỳ hình thức tín dụng nào cũng có hai giai đoạn: người cho vay chuyển giao vốn cho
người đi vay sử dụng trong một thời gian nhất ịnh, và sau khi đến thời hạn do hai bên
thoả thuận người đi vay sẽ trả lại cho người cho vay một khoản giá trị lớn hơn, phần
tăng thêm gọi là tiền lãi.
1.1.2. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản
vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân hàng, gây tổn
thất cho Ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn
cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của
NHTM như:
22
- N xu v t l n xu trờn tng d n.
- T l n xu trờn vn s hu.
- T l n xu trờn qu d ch phũng tn tht.
- N ỏng nghi ng (n cú vn ) cú kh nng chuyn thnh n xu cao.
- N khụng cú ti sn m bo.
Khụng mt loi hỡnh doanh nghip no m khụng phi i u vi nguy c ri
ro trong quỏ trỡnh hot ng kinh doanh . Nhng vi cỏc dc im , c thự ca NHTM
cú th kt lun hot ng kinh doanh trong lnh vc tin t tớn dng ca Ngõn hng
gp phi nguy c ri ro cao hn c.
1.2 Ri ro gn vi hot ng tớn dng ca NHTM
Tớn dng Ngõn hng tham gia vo ton b quỏ trỡnh sn xut lu thụng hng
hoỏ, ngay c nhng hot ng phi sn xut cng khụng th thiu s h tr ca tớn dng
Ngõn hng. Chớnh vỡ tớn dng Ngõn hng tham gia vo mi doanh nghip, mi ngnh,
mi lnh vc ca nn kinh t, m mi ngnh mi lnh vc kinh doanh li cú tớnh c
thự, cú s phc tp riờng, cú nhng ri ro riờng nờn ri ro tớn dng ca Ngõn hng
mang tớnh tng hp v kh nng xut hin l ln hn cỏc ngnh khỏc.
NHTM khụng ch chu ri ro trong vic la chn khỏch hng m cũn chu ri ro
ca khỏch hng ri ro tớn dng xy ra khi bờn vay trong giao dch khụng thc hin
c theo thi gian v iu kin hp ng lm ngi cho vay phi chu tn tht ti

chớnh.
1.2.1. Cỏc hỡnh thc ca ri ro tớn dng
23
Lãi treo
phát sinh
Nợ quá
hạn phát
sinh
1. Lãi treo
đóng băng
2. Miễn
giảm lãi
1. Nợ không
có khả năng
thu hồi
2. Xóa nợ
Không
thu đ ợc
lãi đúng
hạn
Không
thu đ ợc
vốn đúng
hạn
Không
thu đủ lãi
Không
thu đủ
vốn
(Mất vốn)

Rủi ro tín dụng
1.2.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay (khách hàng) thì nguyên
nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làn hai trường hợp lớn:
Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận.
a. Khách hàng gian lận, cố ý lừa Ngân hàng
Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ ,quyền sở hữu tài
sản. Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác, cố ý đưa ra số liệu sai
sự thật, phản ánh không đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của
đơn vị. Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro
cho Ngân hàng. Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản, doanh nghiệp
có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều Ngân hàng khác nhau. Khi không thu được nợ,
các NHTM phát mãi tài sản thì mới biết bị lừa.
Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận Ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn
vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án
đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể
vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất động sản. Việc giá
nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng
không thể trả được nợ Ngân hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng
không đủ khoản cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đất nên cũng giảm giá trị.
b. Khách hàng không gian lận
Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt Ngân hàng mới gặp rủi ro mà ngay cả
khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, Ngân hàng vẫn có thể gặp
rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có
đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả,
không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ Ngân
hàng là rất khó khăn.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của
doanh nghiệp gặp rủi ro thì Ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn.

Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có
thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng cho Ngân
hàng.
1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ hở về
thủ tục trong nội bộ Ngân hàng. Đây được gọi là các hoạt động cho vay không hoàn
hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây:
24
- Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn
diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đến sự
sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả
của khách hàng.
- Trình độ chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng
nói riêng còn hạn chế.
Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng Ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông tin tín
dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích
thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhều khi
cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không.
- Ngân hàng quá chú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn các
khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh với các Ngân hàng khác để mong muốn có tỷ
trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng Ngân
hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng,
đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng.
- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên
tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường
tín dụng của nền kinh tế nên hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các khoản cho
vay có vấn đề.
1.2.2.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
a. Môi trường kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai
trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ, tín dụng của các NHTM nói riêng.
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài
chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách
trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
và người chịu tác động trực tiếp là các NHTM và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
khác nhau luôn gắn bó mật thiết với hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu
chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp
phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả, nhưng ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh
làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản.
b. Môi trường pháp lý
Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật nghiệp
vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu tư tài chính tín
dụng Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn tiến hành dựa trên các
quy định pháp luật, hay noí cách khác bị giới hạn trong khuôn khổ pháp luật.
25

×