Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.1 KB, 13 trang )

CHUYÊN ĐỀ 15: “Viếng lăng Bác” – Viễn Phương
* Khái quát về tác giả, tác phẩm:
- Viễn Phương là nhà thơ trưởng thành trong phong trào văn nghệ giải phóng ở miền
Nam.
- Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khốc
liệt của chiến trường.
- Bài thơ “Viếng lăng Bác” được viết năm 1976. Đây là thời điểm miền Nam vừa giải
phóng, đất nước thống nhất, công trình lăng Chủ t ịch Hồ Chí Minh c ũng vừa được hoàn
thành. Ước mong được ra Hà Nội, đư ợc viếng lăng Bác Hồ của đồng bào miền Nam đã
có thể thực hiện. Nhà thơ Viễn Phương c ũng là một trong số những đồng bào chiến s ĩ từ
miền Nam sau giải phóng được ra Hà Nội viếng lăng thiêng liêng ấy. Dù ra đ ời muộn, khi
đã xuất hiện nhiều bài thơ được coi là đ ỉnh cao trong mảng sáng tác viết về đề tài lãnh t ụ
Hồ Chí Minh, nhưng “Viếng lăng Bác ” vẫn được đánh giá là một trong những tác phẩm
thành công xuất sắc và nhanh chóng chiếm được cảm tình của người đọc.
* Nghệ thuật:
Về nghệ thuật, bài thơ có giọng điệu vừa trang trọng, phù hợp với đề tài viết về lãnh tụ lại
vừa tha thiết, sâu lắng, phù hợp với chủ đề tư tưởng của tác phẩm (cảm xúc khi được vào
lăng viếng Bác). Giọng thơ cũng có sự thay đổi linh hoạt để diễn tả các cung bậc cảm
xúc. Khi thì hồi hộp, náo nức(trên đường vào lăng viếng Bác); khi thì tự hào, thành kính
(đứng trước lăng);khi thì nghẹn ngào đau xót (vào trong lăng); có lúc lại xúc động thiết
tha(nghĩ tới cảnh chia xa). Để tạo nên giọng điệu ấy, tác giả đã dùng kết hợp nhiều yếu tố
như thể thơ tự do (linh hoạt số chữ trong từng câu), gieo vần không cố định (có khi liền,
có khi cách), nhịp thơ biến đổi (lúc nhanh lúc chậm, lúc dàn trải, lúc dồn dập)…
Ngoài ra, bà i thơ còn sử dụng một hệ thống hình ảnh đặc sắc,kết hợp một cách hài hòa
giữa những hình ảnh thực (hàng tre xanh quanh lăng,mặt trời đi qua trên lăng, dòng người
vào lăng) với những hình ảnh có nghĩa ẩn dụ, tư ợng trưng mang tính khái quát ( mặt trời
trong lăng, vòng hoa dâng bày mươi chín mùa xuân, vầng trăng, trời xanh). Chính hệ
thống hình ảnh ấy đã góp phần phác họa thành công chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đề bài: Cảm nhận bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
I. M ở bài:
Bác Hồ là tên gọi thân yêu vang âm trong trái tim bao người, là niềm tin, là sức mạnh, là


phẩm giá của con ngư ời Việt Nam, một người bạn lớn đối với tâm hồn mỗi con người,
đối với thiên nhiên tạo vật Sự vĩ đại, vẻ đẹp của Bác, lòng kính yêu với Bác đã trở
thành cảm hứng cho các các nghệ sĩ sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Đến sau
trong đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở
ngoài tiền tuyến nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ "Viếng lăng Bác" độc đáo, có
sức cảm hóa sâu sắc bởi tình đẹp, bởi lời hay.
II. Thân bài:
1
Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất
nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh
thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác.
Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở
chiến trư ờng Nam Bộ xa xôi. C ũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong
mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể
thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông
sáng tác bài thơ này.
1. Cảm xúc c ủa nhà thơ khi đến lăng Bác: Cảm xúc của một người con đã đi từ một
nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác đã được
diễn tả sâu sắc trong khổ thơ này:
- Nhà thơ kể: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ mở đầu như một lời thông
báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa, Nhà thơ nói
mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như
vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng
trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông
trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi
khen.
- Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân
loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này
thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng
liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của ngư ời con ra thăm cha sau bao

nhiêu năm xa cách.
- Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:
+ “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người chết.
+ “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.
-> Cách nói giảm, nói tránh -> giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát -> khẳng định Bác vẫn
còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân
mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi
Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
=> Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén
biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc
cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không
chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ
này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính
yêu.
- Cái hay của khổ thơ không chỉ ở từ ngữ bình dị mà còn ở hình ảnh cây tre vô cùng thân
thuộc. Chắc nhà thơ phải đến xếp hàng từ rất sớm mới thấy đư ợc hàng tre trong sương
như vậy. Những “hàng tre xanh xanh Việt Nam” ấy chính là hình ảnh tư ợng trưng cho
làng quê, cho con người Việt Nam bền bỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Tác giả bật lên
một tiếng “Ôi !” vừa đầy thương cảm vừa mang vẻ tự hào. Thương cảm vì dân tộc ta phải
trải qua bao nhiêu “bão táp mưa sa ”, khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tự hào vì tre vẫn
“đứng thẳng hàng” như người Việt ta luôn kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử
thách. Đức tính cao quý ấy cũng đư ợc thể hiện trong thơ Nguyễn Duy : “Thân gầy guộc,
lá mong manh / Mà sao nên luy nên thành tre ơi”. Nhưng Viễn Phương không chỉ ca
ngợi đất nư ớc, con người Việt Nam mà còn muốn nói đến mối liên kết giữa Bác với quê
2
hương, với người dân. Ngày xưa, Bác từ giã làng quê với hàng tre xanh để ra đi tìm
đường cứu nước, và bây giờ Bác lại trở về giữa vòng tay của quê hương, giữa những con
người cần cù, chịu khó. Những “hàng tre bát ngát” bao quanh lăng như vòng tay của quê
hương, của Tổ quốc đang bao bọc lấy vị lãnh tụ vĩ đại, như hình dáng những người con
của dân tộc đang đứng canh giấc ngủ c ủa Ngư ời. Nghệ thuật ẩn dụ ấy vừa hay vừa tạo sự

kết nối chặt chẽ vì cây tre, Bác và đất nước có mối liên hệ đặc biệt.
=> Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân
thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.
2. Cảm xúc c ủa nhà thơ khi đứng trước lăng Bác:
- Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi
đứng trư ớc lăng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
+ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, là hành
tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn
cội của sự sống, ánh sáng.
+ Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, độc đáo – đó là hình ảnh của
Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt
trời” – Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc
lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi
sinh để đi tới chiến thắng quanh vinh, trọn vẹn. “Mặt trời” – Bác Hồ tỏa hơi ấm tình
thư ơng bao la trong lòng mỗi con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như:
“Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động
mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.
+ Thật ra so sánh Bác Hồ với mặt trời đã được các nhà thơ sử dụng từ rất lâu:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập chạng dưới chân người.
( Tố Hữu – “Sáng tháng năm”)
Nhưng cái so sánh ngầm Bác Hồ nằm trong lăng rất đỏ trong cái nhìn chiêm ngưỡng
hàng ngày của mặt trời tự nhiên( biện pháp nhân hóa “thấy”) là một sáng tạo độc đáo và
mới mẻ của Viễn Phương. Cách ví đó một mặt ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của
Người đối với các thế hệ con người Việt Nam. Mặt khác bộc lộ rõ niềm tự hào của dân
tộc Việt Nam khi có Bác Hồ - có được mặt trời của cách mạng soi đư ờng chỉ lối cũng
như ánh sáng của mặt trời thiên nhiên.

+ Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tục bất biến của tự nhiên vừa
góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên
nhiên vũ trụ.
- Hình ảnh dòng ngư ời vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và
để lại nhiều ấn tượng:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
+ Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ -> diễn tả
cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của co n người Việt
Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp
hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác – “Dòng người đi trong thương nhớ”.
3
+ Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo:
“tràng hoa”.
_ Chúng ta có thể hiểu “tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa tư ơi thắm
kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nư ớc và thế giới về thăm
dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình.
_ “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng
Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm. Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào
lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa
rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất
dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” – 79 năm cuộc đời của Người.
-> Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính, và biết ơn sâu sắc của nhà thơ,
của nhân dân đối với Bác Hồ.
3. Cảm xúc c ủa nhà thơ khi vào trong lăng:
- Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình
ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ,
trong trẻo của không gian trong lăng Bác.
- Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa
vầng trăng sáng dịu hiền.

- Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao
đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.
Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến
để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Ngư ời. -> Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và
yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên
được những ảnh thơ đẹp như vậy!
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn
biết trời xanh là mãi mãi”.
+ “Trời xanh” trước tiên đư ợc hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta
hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.
+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông
đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác sống như trời đất của
ta”, bởi Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc.
- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn
nguôi trước sự ra đi của Bác – “ Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự
cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng
không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con
người Việt Nam.
+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu
thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu
thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã
làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa. Cảm xúc đau đớn này,
vô vọng này đã từng xuất hiện trong bài thơ của Tố Hữu:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…
4
Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niề m đau xót. Nó chính là
nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.

4. Tâm trạng lưu luyến c ủa nhà thơ khi rời xa lăng Bác:
- Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là ngư ời con miền Nam ra thăm Bác thì
trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền
Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà
được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nư ớc mắt” như một lời giã biệt.
+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
+ Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác
nghỉ.
+ Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được
gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp
quá, rộng lớn quá.
- Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải
trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập
vào những cảnh vật quanh lăng để đư ợc luôn ở bên Người trong thế giới của Người:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
+ Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên “con chim”,”đóa
hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả.
+ Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác,
thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
+ Đặc biệt là ư ớc nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre
bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Ngư ời. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng
trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng
tre quanh lăng Bác đư ợc lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu
sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện
lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đườ ng cách
mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và

cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
5. Đánh giá về nghệ thuật:
- Bài thơ thành công bởi Viễn Phương đã chọn đư ợc một hình thức và giọng điệu phù
hợp với nội dung trữ tình. Đó là giọng điều vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau
xót, tự hào, thể hiện rất đúng tâm trạng của nhà thơ và mọi người khi vào lăng viếng Bác.
- Thể thơ tám chữ xen kẽ những dòng thơ bảy hoặc chín chữ. Cách gieo vần khá linh
hoạt, có khi là vần liền, có khi là vần cách. Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả sự trang nghiêm và
cảm xúc thành kính. Riêng ở khổ thơ cuối, nhịp thơ nhanh hơn. Điệp ngữ “muốn làm”
được lặp lại ba lần, thể hiện mong ước thiết tha và nỗi lưu luyến không rời của tác giả.
- Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo. Nhà thơ kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ,
tượng trưng. Đặc sắc nhất là những hình ảnh ẩn dụ có tính chất biểu tư ợng: “mặt trời
trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh”, “vầng trăng” vừa quen thuộc, gần gũi, vừ a trang
nghiêm, sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm rất lớn.
III.Kết bài:
5
“Viếng lăng Bác” là một bài thơ hay bởi nó được tạo ra từ những cảm xúc, rung động
chân thành của trái tim nhà thơ, đồng thời cũng là tiếng lòng của tất cả chúng ta. Cuộc
đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ như một thiên thần thoại của thế kỉ hai mư ơi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất! Nhà thơ Pita Rôđrighết của đất
nước Cu-Ba anh em đã tự hào khẳng định: Hồ Chí Minh – tên Người là cả một niềm thơ.
Đề bài: Phân tích 3 khổ thơ đầu bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
=> Gợi ý: Tác giả: Shireka - />* Khổ 1:
Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Mở đầu bài thơ, tác giả xưng mình là “con”. Lời thơ giản dị nhưng chứa đầy cảm xúc. Từ
“con” ấy gợi nên cảm giác vô cùng gần gũi và thân thương về Bác, như một lời thưa với
người lớn trong nhà. Điều đó làm ta nhớ đến những câu thơ của Tố Hữu : “Bác nhớ miền
Nam nỗi nhớ nhà / Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.” Nhưng Viễn Phư ơng không chỉ

nói thay lời của những người con miền Nam, ông còn bày tỏ tình cảm của cả dân tộc đối
với Bác. Nhà thơ dùng từ “thăm” như thể Bác vẫn còn sông, và đây chỉ là một buổi đến
thăm nói chuyện thông thường. Tình cảm ấy thật xúc động nhưng vẫn rất gần gũi, ấm áp.
Cái hay của khổ thơ không chỉ ở từ ngữ bình dị mà còn ở hình ảnh cây tre vô cùng thân
thuộc. Chắc nhà thơ phải đến xếp hàng từ rất sớm mới thấy đư ợc hàng tre trong sương
như vậy. Những “hàng tre xanh xanh Việt Nam” ấy chính là hình ảnh tư ợng trưng cho
làng quê, cho con người Việt Nam bền bỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Tác giả bật lên
một tiếng “Ôi !” vừa đầy thương cảm vừa mang vẻ tự hào. Thương cảm vì dân tộc ta phải
trải qua bao nhiêu “bão táp mưa sa”, khó khăn gian khổ trong cuộc đời. Tự hào vì tre vẫn
“đứng thẳng hàng” như người Việt ta luôn kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử
thách. Đức tính cao quý ấy cũng đư ợc thể hiện trong thơ Nguyễn Duy : “Thân gầy guộc,
lá mong manh / Mà sao nên luy nên thành tre ơi”. Nhưng Viễn Phương không chỉ ca ngợi
đất nước, con người Việt nam mà còn muốn nói đến mối liên kết giữa Bác với quê
hương, với người dân. Ngày xưa, Bác từ giã làng quê với hàng tre xanh để ra đi tìm
đường cứu nước, và bây giờ Bác lại trở về giữa vòng tay của quê hương, giữa những con
người cần cù, chịu khó. Những “hàng tre bát ngát” bao quanh lăng như vòng tay của quê
hương, của Tổ quốc đang bao bọc lấy vị lãnh tụ vĩ đại, như hình dáng những người con
của dân tộc đang đứng canh giấc ngủ của Ngư ời. Nghệ thuật ẩn dụ ấy vừa hay vừa tạo sự
kết nối chặt chẽ vì cây tre, Bác và đất nước có mối liên hệ đặc biệt. Bằng lời thơ giản dị
và hình ảnh ẩn dụ nhiều ý nghĩa, nhà thơ đã bày tỏ tâm trạng xúc động của mình khi đứng
trước lăng Bác.
* Khổ 2:
Không chỉ vậy, khổ thơ đầu tiên còn mở ra những suy ngẫm và xúc cảm sâu lắng hơn
6
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lắng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Xuyên suốt khổ thơ là nghệ thuật điệp ngữ và ẩn dụ. “Ngày ngày” vốn đã là một từ láy,
lại được dùng điệp ngữ nên càng gợi nên cảm giác thời gian như kéo dài vô tận trong khổ

thơ, đồng thời cũng dùng để miêu tả một chân lí vĩnh hằng – sự vĩ đại của Bác. “Mặt
trời” trong câu thơ thứ nhất là tả thực, còn “mặt trời” trong câu thơ thứ hai chính là ẩn dụ
để chỉ Bác. Bác là người đã mở ra chân lí cách mạng cho cả dân tộc, mang độc lập, tự do
đến cho đất nước. C ũng giống như mặt trời thực đem sự sống đến cho vạn vật, Bác đã
đem lại cho người dân sự ấm no, hạnh phúc. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng viết : “Người
là một mặt trời cách mạng”, nhưng so sánh hình ảnh hai mặt trời như của Viễn Phương
lại là một sáng tạo rất độc đáo. Mặt trời kia chỉ là cái nền, là đòn bẩy để tôn vinh mặt trời
Bác. C ụm từ “rất đỏ” vừa gợi nhớ đến trái tim luôn tràn ngập lòng yêu nước, thương dân
của Bác, vừa gợi ra luồng sáng rực rỡ tỏa ra từ tâm hồn Bác – ánh sáng của lí tưởng cách
mạng. Ánh sáng ấy sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam, giữ mãi tấm lòng
chúng ta dành cho Bác. Lần thứ hai, từ “ngày ngày” được sử dụng, nhưng là dùng để diễn
tả một điều bất diệt như lòng thành kính của nhân dân đối với Bác. Chỉ có tình cảm
thiêng liêng như vậy mới ó thể tạo nên đư ợc “dòng người đi trong thương nhớ” không
bao giờ dứt. C ũng chỉ có tình cảm thiêng liêng ấy mới có thể kết nên được những tràng
hoa đẹp nhất để dâng lên Bác. “Tràng hoa” ấy không chỉ là tràng hoa tươi bình thường,
mà còn là ẩn dụ của dòng người nối tiếp nhau. Phải rất tinh tế và sáng tạo nhà thơ mới có
thể từ đoàn người đi vào lăng, dòng ra sau, qua bên lăng, đi ra nối tiếp thành một vòng
tròn mà liên tưởng đến một tràng hoa. Tràng hoa ấy là tràng hoa đẹp nhất vì được kết nên
từ những bông hoa đất – những con người Việt Nam chăm chỉ, bất khuất, từ tấm lòng của
những con người ấy. Từ “dâng” càng tô đậm thêm tình cảm ấy – một niềm kính yêu trân
trọng sâu sắc nhất và trọn vẹn nhất. Không chỉ có thế, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật
hoán dụ để ví cuộc đời Bác như “bảy mươi chín mùa xuân”. Mùa xuân đư ợc xem là mùa
đẹp nhất trong năm, còn Bác là người Việt Nam đẹp nhất. Hình ảnh ấy cũng từng xuất
hiện trong thơ Tố Hữu : “Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng / Vào cuộc trường sinh nhẹ
cánh bay”. Bác đã hiến dâng những gì đẹp nhất của cuộc đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Và giờ đây, những người con của dân tộc đang dâng lên cho Người lòng
biết ơn sâu sắc nhất. Lời thơ trang trọng nhưng vô cùng tha thiết, gợi ra nhiều suy tưởng
sâu lắng, mênh mông. Có thể nói khổ thơ thứ hai là đẹp nhất trong cả bài, với những hình
ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm nói lên sự vĩ đại của Bác và lòng thành kính của người
dân đối với Người.

* Khổ 3:
Nếu như cái đẹp của khổ hai là ở những phép ẩn dụ đầy sáng tạo và tinh tế thì cái hay của
khổ ba lại nằm ở sự dâng trào cảm xúc trong từng lời thơ
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
7
Hình ảnh Bác hiện lên thật gần gũi. Có cảm giác như Bác không hề ra đi mà chỉ đang
nằm ngủ. “Vầng trăng sáng” có thể hiểu như những ánh đèn dịu nhẹ như ánh trăng tro ng
lăng Bác. Hình ảnh ấy cũng gợi cho ta nhớ đến vầng trăng trong cuộc đời, trong thơ ca
của Bác. Trăng làm bạn với Bác khi Người ngồi tù (Ngắm trăng), trăng theo Bác trong
những năm tháng kháng chiến ở Việt Bắc (Cảnh khuya, Rằm tháng Giêng),… và bây giờ,
ánh trăng lại canh giữ giấc ngủ của Bác. Hay như đọc đến từ “dịu hiền”, ta lại tự hỏi, phải
chăng “vầng trăng sáng” kia cũng có thể hiểu đó là ánh trăng tỏa ra từ tâm hồn thanh cao
của Bác, và nhà thơ khi vào thăm lăng đã cảm nhận được ánh sáng rạng ngời ấ y. Cảnh
lăng Bác hiện lên qua hai câu thơ đầu thật yên bình, tĩnh lăng, càng gợi lên giấc ngủ êm
đềm của Bác. Nghệ thuật tả thực đã diễn tả đư ợc bầu không khí trang nghiêm, lặng yên
trong lăng Bác, làm nền cho cảm xúc thăng hoa trong hai câu thơ cuối. Từ hình ảnh Bác
nằm như đang ngủ, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt của Ngư ời. “Trời xanh” là ẩn dụ để
chỉ Bác và những điều Ngư ời đã làm cho non sông. Bác đã ra đi nhưng lí tư ởng của
Người, tấm gương đạo đức của Người không hề chết. Hình ảnh của Người đã hòa cùng
với trời cao, nhập vào từng thước đất của Tổ quốc. Những công lao của Người cũng mãi
còn đó như một tượng đài sừng sững chạm tới trời. Từ láy “mãi mãi” đã tô đậm và hoàn
chỉnh hình ảnh đó. Hình ảnh “trời xanh” ấy cũng giống như hình ảnh “mặt trời” ở khổ
hai, đều là những hình ảnh mang tính biểu tượng để ca ngợi sự vĩ đại bất diệt của Bác.
Nhà thơ hiểu rằng Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim mình, trong tim mọi ngư ời dân
nước Việt, nhưng vẫn không thể quên đi sự thật đầy đau xót là Ngư ời đã ra đi… Sự thật
ấy hiện lên thật buồn, thật đau qua cặp từ tương phản “vẫn biết” – “mà sao”. Nỗi đau ấy
tràn ngập trong tim và trào lên ở từ “nhói”, như thể xuyên thẳng vào tim ngư ời viết, vào

tim người đọc. Dường như tất cả sự thương tiếc, xót xa của nhà thơ đều gói gọn lại trong
đó, một nỗi đau không thể diễn tả hết được. Nhà thơ Thu Bồn đã có lần viết về nỗi đau ấy
: “Niềm đau vô tận thời gian / Nhớ thương nhưng chớ lệ tràn đầm mi”. Có lẽ Viễn
Phương cũng nghĩ như vậy nên câu thơ cuối bật ra như một tiếng khóc nghẹ n ngào đau
xót. Cả khổ thơ vang lên đầy sâu lắng và tha thiết, và có thể nói câu thơ cuối chính là chìa
khóa thành công của cả khổ. Nó khiến trái tim ta như đập cùng một nhịp, đau chung một
nỗi đau với tác giả. Khổ thơ đã bày tỏ cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác với
giọng thơ bình dị mà tràn đầy cảm xúc.
Đề bài: Cảm nhận hai khổ thơ đầu bài thơ “Viếng lăng Bác” – Viễn Phương.
Tham khảo hai bài viết trên. Chú ý trong phần mở bài, phải giới thiệu được đoạn thơ,
và trích dẫn đoạn thơ.
* Bài tập vận dụng:
Bài tập 1:
a. Chép chính xác bốn câu cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
b. Viết đoạn văn khoảng 8 câu, trình bày những cảm xúc của em khi đọc khổ thơ trên,
trong đoạn có câu văn dùng thành phần phụ chú ( Yêu cầu: gạch dưới phần phụ chú)
=> Gợi ý:
a. Chép chính xác bốn câu thơ kết bài “Viếng lăng Bác”:
8
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bá c
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
b. Viết đoạn văn:
*Về nội dung:
- Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên thể hiện ước muốn tha
thiết, mãnh liệt:muốn đư ợc hóa thân, được hòa nhập vào cảnh vật để được ở mãi bên
Người:
+ Làm con chim cất tiếng hót làm vui lăng Bác.
+ Làm đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.

+ Làm cây tre để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ cho Bác trong giấc ngủ thiên thu.
- Hình ảnh cây tre lặp lại như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tư ợng sâu sắc, làm cho dòng
cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự
trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường Cách mạng mà Người đã
vạch ra.
- Cũng nói về cảm xúc của bản thân khi đọc đoạn thơ, về tình cảm của nhà thơ, của nhân
dân với Bác.
*Về hình thức: trình bày thành đoạn văn, giới hạn 8 câu, có sử dụng thành phần phụ chú.
Bài tập 2: Cho đoạn thơ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
( Viếng lăng Bác – Viễn Phương)
a. Hãy phân tích ý nghĩa hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” ở câu thơ trên.
b. Chép hai câu thơ có hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” trong một bài thơ mà em đã học ( ghi rõ
tên và tác giả bài thơ)
=> Gợi ý:
a. Phân tích để thấy:
- Đứng trước lăng Bác, cảm xúc của nhà thơ được gợi tả bằng hai hình ảnh thực, ẩn dụ
sóng đôi: “mặt trời đi qua trên lăng” và “mặt trời trong lăng”.
- “Mặt trời” trong câu thơ thứ nhất là hình ảnh thực – mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, tuần
hoàn chiếu sáng đem lại sự sống cho muôn loài.
- “Mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo và độc đáo. Bác Hồ chính là mặt
trời của dân tộc Việt Nam,soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giả i phóng dân tộc,
giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
=> Với hình ảnh ẩn dụ này, nhà thơ Viễn Phư ơng đã ca ngợi sự trư ờng tồn, vĩ đại của
Bác; đồng thời thể hiện sự ngưỡng mộ và lòng thành kính của nhân dân với Bác.
b. Hai câu thơ có hình ảnh ẩn dụ mặt trời:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đôi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
( Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm)

Bài tập 3: Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tạo nghệ
thuật. Mở đầu tác phẩm của mình, một nhà thơ viết:
"Con ở miền Nam ra thămlăng Bác
Và sau đó, tác giả thấy:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
9
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
a. Những câu thơ trên trích trong tác phẩm nào? Nêu tên tác giả và hoàn cảnh ra đời của
bài thơ ấy.
b. Từ những câu đã dẫn kết hợp với những hiểu biết của em về bài thơ, hãy cho biết cảm
xúc trong bài đư ợc biểu hiện theo trình tự nào? Sự thật là Người đã ra đi nhưng vì sao
nhà thơ vẫn dùng từ thăm và cụm từ giấc ngủ bình yên?
c. Dựa vào khổ thơ trên, hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu theo phép lập luận quy nạp
(có sử dụng phép lặp và có một câu chứa thành phần phụ chú) để làm rõ lòng kính yêu và
niềm xót thương vô hạn của tác giả đối với Bác khi vào trong lăng.
d. Trăng là hình ảnh xuất hiện nhiều trong thi ca. Hãy chép chính xác một câu thơ khá c
đã học có hình ảnh trăng và ghi rõ tên tác giả, tác phẩm.
=> Gợi ý:
a. Đoạn thơ trên được trích trong bài Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phư ơng. Bài thơ
được viết năm 1976,sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất,
Lăng Hồ Chủ tịch vừa khánh thành. Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác.
b.
- Cảm xúc trong bài thơ được biểu hiện theo trình tự từ ngoài vào trong, rồi lại trở ra
ngoài, hợp với thời gian một chuyến viếng lăng Bác.
- Từ "thăm" thể hiện tình cảm của nhà thơ đối với Bác vừa kính yêu, vừa gần gũi.
- Cụm từ "giấc ngủ bình yên"là một cách nói giảm, nói tránh nhằm miêu tả tư thế ung
dung thanh thản của Bác- vị lãnh tụ cả đời lo cho dân, cho nước, có đêm nào yên giấc nay
đã có được giấc ngủ bình yên.

c. Viết đoạn văn:
*Về nội dung:
- Trước khung cảnh,không khí thanh tĩnh, nhà thơ cảm nhận không gian, thời gian như
ngưng kết và dư ờng như Bác đã thanh thản “trong giấc ngủ bình yên”, giữa ánh sáng dịu
hiền của vầng trăng tri kỉ - vầng trăng đã đồng hành cùng Bác suốt cả cuộc đời ( Liên hệ
thêm với các bài thơ viết về trăng của Bác).
- Cảm nhận về vẻ đẹp sáng trong của tâm hồn Người, nhà thơ biết rằng: Bác đã hóa thân
vào thiên nhiên, đất nước, tên tuổi và sự nghiệp của Bác sống mãi trong lòng dân tộc như
bầu trời xanh hiện hữu trên đầu.
- Dẫu vậy, một cảm giác đau xót vẫn trào dâng – “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Chỉ
một từ “nhói” đã diễn tả mọi cung bậc của cảm xúc, đã gợi một nỗi đau quặn thắt dâng
trào. Niềm tin và nỗi đau, tình cảm và lí trí kìm nén và vỡ òa….
=> Có thể nói, bốn dòng thơ với những ẩn dụ sáng tạo và cách sử dụng ngôn từ độc đáo,
người đọc cảm nhận đư ợc một sự trân trọng, một sự ngợi ca, và cả nỗi đau xót của nhà
thơ miền Nam đối với Bác Hồ.
*Về hình thức: trình bày đoạn văn theo cách lập luận quy nạp, khoảng 10 câu, có sử
dụng phép lặp và có một câu chứa thành phần phụ chú.
d. Câu thơ có hình ảnh trăng: HS có thể trích dẫn câu thơ trong bài “Đồng chí” (Chính
Hữu), “Ánh trăng”(Nguyễn Duy), “Đoàn thuyền đánh cá”(Huy Cận)….
Bài tập 4 : Viết một đoạn văn phân tích hình ảnh hàng tre trong khổ thơ sau:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
10
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
( “Viếng lăng Bác” – Viễn Phương)
=> Gợi ý:
Đến lăng Bác, cảm nhận đầu tiên của tác giả là hình ảnh hàng tre. Đây là hình ảnh thực,
hình ảnh ẩn dụ. Hàng tre xanh xanh là biểu tượng hết sức thân thuộc của làng quê Việt
Nam,biểu tượng cho sức sống bền bỉ của con người Việt Nam,đất nư ớc Việt Nam > Với

hình ảnh hàng tre, lăng Bác tôn nghiêm mà gần gũi, ấp áp trong lòng người đến với viếng
và Bác như đang sống giữa lòng quê hương, đất nước. Đó chính là tấm lòng của nhà thơ
nói riêng và của đồng bào miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung đối với Bác.
Bài tập 5: Xác định và chỉ rõ tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ
sau:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòngngười đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
( “Viếng lăng Bác” – Viễn Phương)
=> Gợi ý: Yêu cầu HS trình bày thành một đoạn văn.
- Hình ảnh ẩn dụ: “mặt trời trong lăng rất đỏ”
- Hình ảnh ẩn dụ: “tràng hoa”
- Hình ảnh hoán dụ : “bảy mư ơi chín mùa xuân”.
- Điệp ngữ “ngày ngày”.
=> Nêu niềm thương nhớ, ngợi ca sự trường tồn, vĩ đại của Bác, đồng thời thể hiện sự
ngưỡng mộ và lòng biết ơn của nhân dân với vị lãnh tụ.
* Tư liệu tham khảo:
PHỎNG VẤN NHÀ THƠ VIỄN PHƯ ƠNG VỀ BÀI THƠ “VIẾNG L ĂN G
BÁC”
Trong hai cuộc kháng chiến, nhà thơ Viễn Phương hoạt động ở Nam Bộ, và
đã sáng tác nhiều bài thơ về Bác Hồ. Có bài tác giả viết khi bị địch giam cầm ở
các trại giam Phú L ợi, Lê Văn Duyệt, không có giấy bút, Viễn Phương sáng tác
thầm trong đ ầu và đọc cho các đồng chí cùng khám nghe. Kỳ diệu thay, Viễn
Phương chỉ đọc một vài lần, mọi người đều thuộc, rồi những khi bị địch bắt đi lao
động, họ lại đọc cho bạn tù ở khám khác nghe, cứ vậy thơ Viễn Phư ơng được lan
truyền trong nhà tù. Phải đến bài thơ Viếng L ăng Bác, Viễn Phương mới thực sự
có một bài thơ hay về Bác. Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa ông và phóng viên
Văn nghệ quân đ ội.
PV: Thưa nhà thơ Viễn Phương, trong một lần nào đó, tôi được đọc một bài

viết c ủa anh Lê Quang Vịnh trên báo Sài Gòn Gi ải phóng, kể rằng: “Lúc tôi 25
tuổi, bị bọn M ỹ – Diệm kết án tử hình rồi chuyển thành trung thân khổ sai và đày
ra Côn Đ ảo. Trong chuồng cọp, địa ngục trần gian của nhà tù ấy, tôi bị bắt buộc
phải nằm dưới hầm suốt ngày… ”. Trên vách chuồng cọp, tôi thấy chi chít những
chữ ghi bằng nhiều cách khác nhau. Có những dòng được khắc trên vôi bằng cái
11
xương cá mắm. Có những chữ bằng máu, có những ghi bằng than. Tôi đọc được
bài thơ dài, chỗ này ghi một đoạn, chỗ khác ghi một khúc ráp l ại rất vần với nhau.
Cha già ơi
Hô m nay mư ời chín tháng năm
Lòng con sáng tựa đêm rằm trung thu
Con đang chúc thọ dưới mồ
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Bay qua lưới sắt con tìm đến cha
Sau này m ới biết là thơ Viễn Phư ơng, bài Chúc thọ dưới mồ. Tôi nghĩ rằng
đó cũng là hạnh phúc lớn của nhà thơ: Góp phần mình vào công cuộc gi ải phóng
đất nước.
Nhà thơ Viễn Phương: Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất c ủa dân tộc ta là nguồn
cảm hứng vô tận của ngư ời sáng tạo văn, thơ, nhac, họa. Trong kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam Bộ đều có những tác phẩm viết về Bác.
Trong nhà tù của gi ặc, tôi luôn luôn nghĩ về Bác. Bác là nguồn động viên, cổ các
chiến sĩ trong nhà tù. Tôi đã viết bài thơ Chúc thọ dưới mồ, được các đồng chí
trong tù thuộc, truyền cho nhau. Tuy lời thơ còn mộc mạc nhưng là t ấm lòng thành
kính c ủa tôi đối với Người.
PV: Phải đến khi đ ất nước thống nhất, ra thăm miền Bắc, anh mới có Viếng
Lăng Bác, đầy đủ độ chín và ngôn từ. Anh có thể cho biết bài thơ ra đời trong
hoàn cảnh nào?
Nhà th ơ Vi ễn Phư ơng: Khi Bác còn sống, nhân dân miền Nam mong
muốn đất nước giải phóng để đón Bác vào thăm. Nhưng rồi, ước mơ ấy không

được toại nguyện. Khi miền Nam gi ải phóng, mọi người đều muốn ra thăm miền
Bắc, viếng l ăng Bác. N ăm 1976, tôi ra Hà Nội, đư ợc đến viế ng Bác.
Sáng hôm ấy m ưa phùn, Hà Nội lây phây trong gió rét, tôi được nối vào
dòng người vào lăng Bác. Chúng tôi đi từ hướng chùa Một Cột. Sương toả mênh
mông, những hàng tre xanh sẫm, những gốc đào hoa đỏ rực… Tất cả đều thiêng
liêng. Đến bên Bác, ai cũng muốn dừng thật lâu. Bác nằm đó, thanh thản, gi ản dị,
hiền t ừ như đang ngủ. Anh sáng dịu dàng to ả xuống như giữa một đêm trăng thanh
miền thôn dã. Tôi không c ầm nổi nước mắt.
Ra khỏi lăng, tôi đi như người mộng du và tứ thơ bật ra:
Con ở miền Nam ra thăm l ăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Lời thơ thật giản dị. Tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn gi ản dị, Người ghét sự
cầu kỳ, làm dáng. Gi ản dị, trong sáng, sâu s ắc cũng là bao quát trong thơ Bác. Tôi
viết như là ý nghĩ của mình. Và, đó cũng là tâm tư c ủa nhân dân và chiến sĩ ở Nam
Bộ với Bác.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Mặt trời c ủa vũ tr ụ đối với m ặt trời trong lăng. Đó cũng là hàm chứa sự
vĩnh cửu c ủa sự nghiệp Bác Hồ tạo dựng và nhân dân ta, Đ ảng ta đã th ực hiện: xây
12
dựng một đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu m ạnh
như di chúc của Bác.
Hoa tươi là nét đẹp của thiên nhiên, hàng ngày dâng lên Bác rất nhiều nhưng tôi
nghĩ đến:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng Bảy mươi chín mùa xuân
Dòng người vây quanh Bác trở thành hoa. Và dâng cho Bảy mư ơi chín mùa
xuân, là hoa tươi c ủa cuộc sống.
Toàn bài Viếng L ăng Bác mang một không khí trang nghiêm, thành kính.
Đoạn kết, tôi muốn nói lên tình c ảm của nhân dân, chiế n sĩ miền Nam hứa với

Bác:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ngu ồn: Báo VNQĐ
13

×