MỤC LỤC
A. LỜI NĨI ĐẦU
4
1.
Tính cấp thiết của đề tài
4
2.
Tình hình nghiên cứu.
5
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
7
3.1.
Mục đích nghiên cứu
7
3.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
7
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
7
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
7
5.
Phương pháp nghiên cứu
8
6.
Kết cấu tiểu luận
8
B. NỘI DUNG
9
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI
9
QUẢN LÝ GIÁO DỤC
9
1.1.
Khái niệm đổi mới
9
1.2.
Khái niệm quản lý
10
1.3.
Khái niệm giáo dục
10
1.4.
Khái niệm quản lý giáo dục
12
1.5.
Khái niệm đổi mới quản lý giáo dục
12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT
NAM ( GIAI ĐOẠN 2016 – 2020)
2.1
14
Một số chủ trương, chính sách của Nhà nước về đổi mới quản lý giáo
dục ở Việt Nam giai đoạn 2016 -2020
14
2.2.
Kết quả trong đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 2016 -
2020
……………………………………………………………………….18
2.2.1. Thành tựu………………………………………………………18
2.2.2 Hạn chế ………………………………………………….……..19
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỔI MỚI QUẢN
LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI QUẢN
LÝ GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2021 – 2025
21
3.1. Một số giải pháp đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam
21
3.2. Phương hướng đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025
23
C. KẾT LUẬN
26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
29
2
A.
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của mỗi
quốc gia bởi lẽ vai trò quan trọng của nó trong sự phát triển trên mọi mặt kinh tế
- xã hội – văn hoá. Sản phẩm giáo dục định hình nên chất lượng phát triển của
mỗi quốc gia nói riêng và trình độ phát triển của xã hội nói chung. Từ tình hình
thực tiễn, ta có thể nhận thấy giáo dục quy định sự phát triển hay tụt hậu của một
quốc gia, nó ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến quốc gia đó. Chính vì điều đó
ta nhận thấy giáo dục đào tạo ngày càng được chú trọng và đầu tư phát triển.
Có lẽ vì thế giáo dục đào tạo có một mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít
với các ngành như kinh tế - văn hố - xã hội, và nếu chỉ riêng giáo dục thì
khơng thể phát triển bền vững và mạnh mẽ được bởi chúng ta đang sống trong
một thế giới có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia trên mặt trận kinh tế,
sự phát triển như vũ bão của của cách mạng khoa học và cơng nghệ. Cũng chính
vì sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã đặt ra những thách
thức và gây khủng hoảng về giáo dục trên tồn cầu, đặt ra bài tốn khiến các
quốc gia phải xem xét lại chương trình và cách thức đào tạo của mình.
Việt Nam chúng ta đang là một quốc gia đang nằm ở vùng trũng trên
thế giới về kinh tế, giáo dục, về khoa học và công nghệ. Mặc dù chúng ta đã có
những sự chuyển mình to lớn và tiến bộ, song so với các nước trong cùng khu
vực và trên thế giới, chúng ta vẫn đang bị tụt hậu. Vậy làm sao chúng ta có thể
thoát khỏi tụt hậu và phát triển sánh ngang các quốc gia khác trên thế giới? Câu
trả lời đó chính là đi lên bằng giáo dục, cần có một sự đổi mới căn bản và toàn
vẹn giáo dục đào tạo. Trong quá trình nàу, đổi mới quản lý giáo dục đóng ᴠai trị
đầu tàu để ᴠận hành cả một hệ thống giáo dục ᴠận hành theo đúng hướng ᴠà đi
đến đích. Để hệ thống nàу được thaу đổi theo hướng tích cực, hiện đại ᴠà hiệu
quả thì phải thaу đổi phương thức hoạt động quản lý giáo dục, đòi hỏi các nhà
chức trách địa phương ᴠà những người quản lý ở các trường học được đầu tư
phát triển các kỹ năng để giúp họ thực hiện một cách có hiệu quả chức năng ᴠà
3
nhiệm ᴠụ của mình. Nếu như quản lý nhà trường theo phương thức truуền thống
tuân thủ những quу định mang tính chất pháp lý được хâу dựng dựa trên cáiâу dựng dựa trên cái
chung nhất để có khả năng áp dụng thực thi trên diện rộng thì quản lý ѕự thaуự thaу
đổi là ѕự thaуự thaу đổi phương thức quản lý để quản lý những con người thực thi ѕự thaуự
thaу đổi đặt ra từ chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong điều kiện ᴠà
hoàn cảnh cụ thể.
Vì những vấn đề thiết yếu trên, nên em chọn đề tài “Đổi mới quản lý
giáo dục ở Việt Nam” cho tiểu luận môn Quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo.
2. Tình hình nghiên cứu.
Những năm gần đây Việt Nam đã chú trọng đến quá trình đổi mới quản
lý giáo dục. nhằm đáp ứng những yêu cầu của đời sống, xã hội. Do tầm quan
trọng đó, đã thu hút nhiều sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, đã có
khơng ít các cơng trình nghiên cứu được cơng bố trên sách, báo, tạp chí nhằm
đưa ra những phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao, cải thiện chất
lượng quản lý giáo dục. Trong đó có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu liên
quan tới giáo dục như:
Những vấn đề cơ bant của khoa học quản lý giáo dục (Trần Kiểm, Nxb.
Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2013). Trình bày khái quát về quản lý giáo dục và
khoa học quản lý giáo dục, quá trình quản lý giáo dục, quản lý nhà nước về giáo
dục, đổi mới quản lý giáo dục, lãnh đạo và quản lý nhà trường, lao động quản lý
giáo dục và nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục
Quản lý nhà nước hệ thống giáo dục Việt Nam trong đổi mới căn bản,
toàn diện và hội nhập quốc tế (Vũ Ngọc Hải, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 2013).
Trình bày về những luận cứ khoa học và hệ thống giáo dục, đặc trưng của hệ
thống giáo dục ở một số nước trên thế giới. Đề xuất những giải pháp giáo dục
quốc dân, đổi mới quản lý nhà nước hệ thống giáo dục trước đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục.
4
Quản lý giáo dục một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Thị Mỹ
Lộc, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2015). Đặt ra những vấn đề chung
về lý luận quản lý giáo dục, các mô hình quản lý, các cách tiếp nhận quản lý,
xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch trong quản lý và tổ chức bộ máy quản lý
lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra trong quản lý các vấn đề trong quản lý giáo dục.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đã đề cập tới cả phương diện lý
thuyết và thực tiễn liên quan tới vấn đề quản lý giáo dục, với nhiều đặc điểm
chung là chú trọng các nghiên cứu, đánh giá về công cụ quản lý giáo dục với
mong muốn tìm ra những giải pháp hồn thiện quản lý giáo dục.
Các cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra u cầu cấp thiết của đổi mới quản
lý giáo dục hiện nay ở Việt Nam. Nó được coi như địn bẩy để phát triển về mọi
mặt kinh tế - chính trị - xã hội, tuy nhiên đặt trong tình hình phát triển hiện nay,
trong thời kỳ Việt Nam đang tiến hành quá trình cơng nghiệp hố – hiện đại hố,
cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Việc đổi
mới quản lý giáo dục ít nhiều cũng có sự biến động để phù hợp với tình hình
chung của đất nước. Vì vậy, bài tiểu luận sẽ phần nào sẽ khai thác được quá
trình đổi mới giáo dục trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ quá trình đổi mới quản lý giáo dục tại Việt Nam hiện
nay, từ đó có thể đề xuất ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý
giáo dục nhằm đáp ứng những đòi hỏi, u cầu của q trình cơng nghiệp hố –
hiện đại hố đất nước và q trình hội nhập chung.
3.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận thực tiễn về đổi mới quản lý giáo dục.
Nêu ra quá trình đổi mới quản lý giáo dục tại Việt Nam hiện nay,
những chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới quản lý giáo dục.
5
Trình bày những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới quản lý
giáo dục.
Chỉ ra một số hạn chế trong quá trình đổi mới quản lý giáo dục ở Việt
Nam hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp, phương hướng nhằm nâng cao chất lượng
quản lý giáo dục, định hướng phát triển trong thời gian tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam hiện nay
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: sẽ phân tích được một số khái niệm như giáo dục, quản
lý, quản lý giáo dục. Đánh giá được quá trình quản lý giáo dục giai đoạn 2016 –
2020, đưa ra cơ chế đổi mới quản lý giáo dục giai đoạn 2021 – 2025.
Về không gian: thực hiện nghiên cứu tiểu luận ở Việt Nam
Về thời gian: bài tiểu luận sẽ đánh giá những thành tựu, hạn chế về đổi
mới quản lý giáo dục giai đoạn năm 2016 – 2020, và đưa ra phương hướng, cơ
chế đổi mới quản lý giáo dục giai đoạn 2021 – 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu
Từ góc độ nghiên cứu của bài tiểu luận tập trung vào các hướng sau:
phương pháp logic - lịch sử, phương pháp tiếp cận mục tiêu, cách tiếp cận hệ
thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp
6. Kết cấu tiểu luận
Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Mục lục
Chương I: Một số vấn đề lý luận về đổi mới quản lý giáo dục
Chương II: Thực trạng đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam ( giai đoạn
2016 – 2020)
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng đổi mới quản lý giáo dục ở
Việt Nam và phương hướng đổi mới quản lý giáo dục giai đoạn 2021 – 2025
6
B.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI
QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.1.
Khái niệm đổi mới
Hiện nay chưa có một định nghĩa chung, duy nhất, chính xác truyệt đối
về khái niệm “Đổi mới”. Theo cách hiểu thông thường, đổi mới là thay cái cũ
(hay làm cho cái cũ) thành cái mới tốt hơn. Đổi mới là một phương thức phát
triển. Bất kỳ hệ thống nào cũng phải luôn luôn được đổi mới, thay đổi từ trạng
thái cũ sang trạng thái mới, tiến bộ hơn. Tất cả các chủ thể trong xã hội, từ mỗi
con người, tổ chức, đến mỗi quốc gia, dân tộc và cả thế giới đều ln ln phải
tự đổi mới để phát triển lên trình độ mới, cao hơn, tiến bộ hơn.
Đổi mới luôn chứa đựng sự thay đổi - phát triển cả về chất và lượng; cả
về nội dung và hình thức; cả về cấu trúc và cơ chế vận hành. Đổi mới thường
chứa đựng bản chất nội tại yêu cầu khách quan của quá trình phát triển; từ nhu
cầu bên trong của quá trình phát triển lên một trình độ cao hơn. Tuy nhiên, đổi
mới cũng cịn là q trình “sửa sai”, khắc phục những sai lệch do thể chế phát
triển trước đó được chế định không đúng (không phù hợp) dẫn đến sự trì trệ,
thậm chí khùng hoảng. Đổi mới có thể là q trình tự phát, tiệm tiến, cải cách;
có thể là q trình tự giác, mang tính cách mạng, đột phá, bước ngoặt. Q trình
đổi mới tự giác ln chứa đựng cả cơ hội thành công và nguy cơ thất bại. Đổi
mới đúng thì mới tạo được sự tiến bộ - phát triển hơn; đổi mới sai thì hậu quả là
tồi tệ hơn. Đối với một hệ thống xã hội lớn, đổi mới có thể diễn ra từ trên xuống,
7
nhưng cũng có thể diễn ra từ dưới lên. Việc đổi mới từ trên xuống bao giờ cũng
diễn ra nhanh hơn so với đổi mới từ dưới lên. Tuy nhiên, q trình Đổi mới chỉ
có thể diễn ra nhanh và có hiệu quả cao khi có sự “đồng thuận” cao giữa “trên
và dưới”.
1.2.
Khái niệm quản lý
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển,
liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều
hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác
định trong điều kiện biến động của môi trường.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa động từ quản lý, theo đó, quản
lý gồm hai yếu tố. “Quản” là trơng coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định
và “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định.
Như vậy, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ
với nhau là “quản” và “lý”.
1.3.
Khái niệm giáo dục
Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người tích luỹ được
kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động, từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt
những hiểu biết cho nhau. Nhu cầu đó là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng
giáo dục. Giáo dục là cơ hội giúp cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện, cơ hội để
hoàn thiện bản thân. Ban đầu giáo dục diễn ra một cách tự phát theo lối quan sát
bắt chước, về sau giáo dục diễn ra một cách tự giác, có kế hoạch, có tổ chức
theo mục đích định trước và trở thành một hoạt động có ý thức. Ngày nay, giáo
dục trở thành hoạt động đặc biệt, đạt tới trình độ cao về tổ chức, nội dung,
phương pháp và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã
hội lồi người. Có thể xem xét giáo dục theo các khía cạnh sau:
8
Về bản chất: giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm
lịch sử - xã hội của các thế hệ. Thế hệ trước truyền đạt các kinh nghiệm lịch sử xã hội cho thế hệ sau và thế hệ sau lĩnh hội các kinh nghiệm đó để tham gia vào
đời sống xã hội, lao động sản xuất và các hoạt động khác. Sự truyền đạt và lĩnh
hội các kinh nghiệm đã được tích luỹ trong q trình lịch sử phát triển của xã
hội loài người là nét đặc trưng cơ bản của giáo dục với tư cách là một hiện tượng
xã hội. Muốn duy trì xã hội tiến bộ, thế hệ sau phải lĩnh hội tất cả những kinh
nghiệm lịch sử - xã hội mà thế hệ trước đã tích luỹ và truyền đạt đồng thời làm
phong phú thêm các kinh nghiệm đó. Về hoạt động: giáo dục là quá trình tác
động đến các đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất và năng
lực cần thiết.
Về phạm vi: giáo dục bao hàm nhiều cấp độ:
Ở cấp độ rộng nhất: giáo dục là quá trình hình thành nhân cách dưới
ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan, có ý thức và khơng ý thức.
Đó là q trình xã hội hố con người.
Ở cấp độ thứ hai: giáo dục là hoạt động có mục đích của xã hội với
nhiều lực lượng giáo dục tác động có kế hoạch, có hệ thống tới con người nhằm
hình thành nhân cách. Đó là giáo dục xã hội.
Ở cấp độ thứ ba: giáo dục là quá trình tác động có kế hoạch, có phương
pháp của các nhà sư phạm trong nhà trường tới học sinh, sinh viên nhằm giúp họ
nhận thức, phát triển trí tuệ và hình thành phẩm chất nhân cách. Ở cấp độ này,
giáo dục bao gồm quá trình dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp. Ngày nay, cùng
với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người ta hiểu giáo dục là cho tất cả mọi
người được thực hiện ở bất cứ khơng gian và thời gian nào thích hợp với từng
loại đối tượng, bằng các phương tiện dạy học khác nhau, với các kiểu học tập đa
dạng và linh hoạt, thích ứng với mọi biến đổi.
Ở cấp độ thứ 4, giáo dục là quá trình hình thành phẩm chất đạo đức cho
học sinh, sinh viên thông qua việc tổ chức cuộc sống và hoạt động của học sinh,
sinh viên. Giáo dục trong phạm vi này được thực hiện trong phạm vi nhà trường,
9
gia đình và ngồi xã hội. Dù xét ở khía cạnh nào, giáo dục khơng ngừng thích
nghi với các thay đổi của xã hội, luôn là nhân tố then chốt của sự phát triển
1.4.
Khái niệm quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch và hướng đích
của chủ thể quản lý ở các cấp, bảo đảm sự phát triển toàn diện và hài hịa của
đối tượng giáo dục. Cơng cụ quản lý giáo dục là bằng pháp luật. Đối tượng
của quản lý giáo dục là con người.
Trong tài liệu “Tổng quan về quản lý giáo dục” của Trường cán bộ
quản lý giáo dục – đào tạo có nêu: “Quản lý giáo dục là một loại hình được hiểu
là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách
hiệu quả nhất”.
Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay là
bộ máy quản lý giáo dục. Trong trường học đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ máy
giúp việc của Hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên; các tổ chức đoàn thể.
Khách thể quản lý giáo dục bao gồm trường học hoặc là sự nghiệp giáo
dục trên địa bàn (cơ quan quản lý giáo dục các cấp); trong đó có bốn thành tố
của một hệ thống xã hội: tư tưởng (quan điểm đường lối, nguyên lí chính sách
chế độ, giáo dục …) con người (giáo viên, cán bộ công nhân viên và các hoạt
động của họ) q trình giáo dục (diễn ra trong khơng gian và thời gian…) vật
chất, tài chính (trường sở trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho giáo dục, ngân sách,
ngân quỹ).
Chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý một cách có ý thức
nhằm đạt được mục tiêu đề ra và chính các mục tiêu quản lý lại tham gia vào sự
quy định bản chất của quản lý giáo dục.
1.5.
Khái niệm đổi mới quản lý giáo dục
10
Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Ban
Chấp hành Trung ương đã xem xét, thảo luận về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Ban Chấp hành Trung ương nhận định: Với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của
Đảng, Nhà nước, sự quan tâm của cả xã hội, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, nhà
quản lý, nhà khoa học, sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về quy mô, chất lượng giáo dục
các cấp; công tác quản lý; đội ngũ nhà giáo; công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa
học công nghệ; tiềm lực khoa học và công nghệ; thị trường và các dịch vụ khoa
học công nghệ; hợp tác quốc tế v.v… Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn bộc lộ những
hạn chế, thiếu sót và yếu kém. Chất lượng giáo dục và đào tạo nhìn chung còn
thấp, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề chưa đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng nhân
lực. Cơng tác quản lý cịn nhiều bất cập. Hoạt động khoa học và công nghệ chưa
thực sự trở thành động lực then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc đào tạo,
trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và cơng nghệ cịn nhiều thiếu sót, bất cập.
Đầu tư xã hội cho khoa học và cơng nghệ cịn thấp, hiệu quả chưa cao. Cơ chế
quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu; thị trường khoa
học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ với kết quả nghiên cứu,
ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý.
Đổi mới hệ thống quản lý giáo dục thông qua xây dựng hệ thống liên
thơng giữa các lớp, cấp bậc trong tồn hệ thống. Cần quán triệt nguyên lý giáo
dục toàn diện, đảm bảo chuẩn mực ở tầng cấp, bậc học đối với giáo dục phổ
thơng và hình thành hệ thống giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp thống nhất với giáo
dục nghề nghiệp như đào tạo, đào tạo ngắn hạn,…
11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO
DỤC Ở VIỆT NAM ( GIAI ĐOẠN 2016 – 2020)
2.1
Một số chủ trương, chính sách của Nhà nước về đổi mới quản
lý giáo dục ở Việt Nam giai đoạn 2016 -2020
Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ. Chính sự bùng nổ của khoa học và công nghệ đã và đang gây ra cuộc
khủng hoảng về giáo dục trên toàn cầu, buộc các quốc gia phải xem xét lại
chương trình và cách thức đào tạo. Việt Nam đang nằm ở vùng “trũng nhất” của
thế giới về giáo dục và khoa học, công nghệ. Mặc dù đã có những nỗ lực to lớn
và tiến bộ nhiều so với trước đây; song, nền giáo dục nước ta đang bị tụt hậu so
với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Sự lạc hậu về tư duy, chương trình,
nội dung, phương pháp đào tạo, phương thức quản lý giáo dục là nguyên nhân
chính của sự nghèo nàn, yếu kém về chất lượng giáo dục. Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo là một phương thuốc đưa nước ta phát triển, sánh vai
cùng các nước tiên tiến trên thế giới, là cơ hội đưa nước ta phát triển mạnh trong
nền kinh tế tri thức. Ngày nay, bất cứ quốc gia nào cũng nhận thức được giáo
dục, đào tạo chính là động lực để phát triển xã hội; muốn đổi mới giáo dục,
trước hết phải thay đổi tư duy, nhận thức, ý thức trách nhiệm của các nhà quản
lý giáo dục; xây dựng tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm của họ. Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo có thể coi là khâu then
chốt để thực hiện thắng lợi các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Đội ngũ
quản lý giáo dục là một bộ phận của nguồn nhân lực giáo dục, là lực lượng tiên
phong tham gia xây dựng và phát triển nhà trường. Việc đổi mới nhận thức, tư
duy của các nhà quản lý giáo dục đòi hỏi có sự đổi mới tương ứng với phát triển
nguồn nhân lực quản lý giáo dục. Vì vậy, đội ngũ quản lý giáo dục phải nắm rõ
vai trò quản lý của mình, họ phải được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất, lối sống, lương tâm, năng lực quản lý của nhà giáo nhằm đáp ứng những
12
địi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Các văn kiện quan trọng của Đảng trong các giai đoạn trước đây,
Cương lĩnh năm 2011 đã đưa ra những quan điểm, định hướng lớn về phát triển
giáo dục và đào tạo: "Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội". Theo Hội đồng Lý luận Trung ương, các quan điểm trên không
chỉ thể hiện sự phát triển về tư duy, nhận thức, kế thừa chủ trương nhất quán của
Đảng ta qua các giai đoạn lịch sử, coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mà
còn là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám sát xu thế phát triển của
nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy
mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 xác định: "Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý là khâu then chốt". Các văn kiện quan trọng khác của Đảng,
Nhà nước trong nhiệm kỳ Đại hội XI, XII tiếp tục cụ thể hóa chủ trương đổi mới
giáo dục và đào tạo. Hội nghị Trung ương 6 khóa XI khẳng định: "Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một yêu cầu khách quan và cấp bách", đòi
hỏi phải: đổi mới tư duy, đổi mới mục tiêu đào tạo; hệ thống tổ chức, loại hình
giáo dục và đào tạo; đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học; cơ chế quản lý
xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện
bảo đảm... trong toàn hệ thống giáo dục quốc dân, tiếp tục cần được cụ thể hóa
trong từng giai đoạn.
Sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt
là 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng, giáo dục và đào tạo nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
13
Chất lượng từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục được
hoàn thiện, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các
cấp học, bậc học, ngành học. Vai trị, vị trí các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục
đại học trong hệ thống dần được khẳng định, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
được đề cao; chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, hệ thống chương
trình đã được đổi mới, chú trọng phát triển các phẩm chất, năng lực cho học
sinh; phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực cũng được chú trọng. Cơng
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh,
sinh viên được đẩy mạnh... Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế các khuyết
tật của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục
và đào tạo. Hợp tác quốc tế được tăng cường theo hướng chủ động, tích cực đáp
ứng yêu cầu phát triển của ngành giáo dục, cũng như yêu cầu phát triển bền
vững, hội nhập quốc tế của đất nước.
Giai đoạn 2016 - 2020 là ngành giáo dục tiếp tục thực hiện Chiến lược
phát triển giáo dục 2011 - 2020 và triển khai thực hiện nhiều định hướng, chủ
trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Ðảng và Nhà nước.
Ngành giáo dục đã xây dựng kế hoạch để triển khai chín nhóm nhiệm vụ và năm
nhóm giải pháp cơ bản. Ðể triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nêu
trên, Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã phát động phong trào thi đua "Ðổi
mới, sáng tạo trong dạy và học" giai đoạn 2016 - 2020, đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong đổi mới giáo dục phổ thông và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Trọng tâm giai đoạn 2016-2020, tồn ngành giáo dục đã thực hiện chín
nhóm nhiệm vụ chủ yếu và năm giải pháp căn bản. Ðối với chín nhóm nhiệm vụ
chủ yếu gồm: Rà sốt, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo trong
cả nước; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các
cấp; công tác phân luồng và định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông;
nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và
trình độ đào tạo; ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy, học và quản lý giáo
14
dục; đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục
đại học; hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo; tăng cường cơ sở vật chất
bảo đảm chất lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Năm giải pháp thực hiện gồm: Hoàn
thiện thể chế, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về giáo dục và đào tạo; nâng
cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý giáo dục các cấp; tăng cường các
nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo; tăng cường công tác khảo thí và kiểm
định chất lượng giáo dục; đẩy mạnh công tác truyền thông về giáo dục và đào
tạo.
Ðến nay, sau 5 năm, các lĩnh vực thuộc chín nhóm nhiệm vụ chủ yếu,
năm nhóm giải pháp cơ bản đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần
thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần
Nghị quyết số 29-NQ/TW. Trong đó, khung pháp lý cho đổi mới giáo dục và
đào tạo được hoàn thiện. Bộ giáo dục và đào tạo đã trình Chính phủ để trình
Quốc hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại
học năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Giáo dục đại học đã tháo gỡ những điểm nghẽn trong việc giao
quyền tự chủ cho các trường đại học; Luật Giáo dục 2019 đã làm rõ tính liên
thơng, phân luồng trong giáo dục… Cả nước duy trì và nâng cao chất lượng phổ
cập giáo dục, trong đó hồn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Kết
quả và chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học được giữ vững và nâng cao. Tất cả
63 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2 và đạt
chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1. Nhiều địa phương đã đạt tỷ lệ
100% học sinh học 2 buổi/ngày, tạo tiền đề thuận lợi để chuẩn bị cho việc triển
khai chương trình giáo dục phổ thơng mới.
1.2.
Kết quả trong đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam giai đoạn
2016 -2020
2.2.1. Thành tựu
15
Đánh giá về thành tựu đổi mới tư duy quản lý giáo dục ở nước ta, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Cơng tác quản
lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến”. Điều đó chứng tỏ, với sự thay đổi
nhanh chóng của cuộc cách mạng cơng nghệ 4.0, giáo dục Việt Nam đã đem lại
cho đội ngũ quản lý giáo dục những kiến thức, kỹ năng, khả năng sáng tạo, thích
ứng với những thách thức và yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền
thống không thể đáp ứng. Ưu điểm nổi bật trong đổi mới tư duy quản lý giáo
dục ở Việt Nam, đó là đội ngũ quản lý giáo dục đóng vai trị quyết định trong
việc bảo đảm thực hiện thành cơng chính sách giáo dục và nâng cao hiệu quả
hoạt động giáo dục ở nước ta hiện nay. Trước đây, các nhà quản lý giáo dục có
tư duy hướng tới ổn định và trật tự, quản lý bằng mệnh lệnh thì hiện nay dưới
tác động của hội nhập quốc tế, tư duy, nhận thức của các nhà quản lý giáo dục
hướng tới đổi mới và phát triển. Vai trò và chức năng của các nhà quản lý giáo
dục đã và đang thay đổi. Bên cạnh những chức năng truyền thống, nhiều nhiệm
vụ mới được bổ sung đối với đội ngũ quản lý giáo dục, như trang bị những kiến
thức mang tính đa ngành, kỹ năng mềm, đặc biệt là tư duy phân tích, phản biện
để thích ứng với mơi trường tồn cầu hóa; ln bình tĩnh, tự tin, biết tự kiểm
sốt, nắm vững chun mơn, có khả năng sáng tạo, đổi mới; tự đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn đáp ứng yêu cầu kết nối mới trên nền tảng kiến thức và công
nghệ. Trong các cơ sở giáo dục, đội ngũ quản lý giáo dục luôn là những người
sẵn sàng đổi mới tư duy và có tầm nhìn chiến lược; có năng lực sáng tạo, năng
lực thích ứng và hội nhập, năng lực tiếp thu nhanh, năng lực kiểm tra, đánh giá.
Đồng thời, họ được bổ sung và trau dồi các kỹ năng như: kỹ năng ngoại ngữ, tin
học; kỹ năng trình bày và giao tiếp; kỹ năng thuyết phục. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục có bước phát triển...”Theo Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý
cơ sở giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến tháng 8/2018, tồn quốc có
hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên. Trong đó, “giáo viên mầm non có hơn 316
nghìn; tiểu học hơn 397 nghìn; trung học cơ sở hơn 310 nghìn, trung học phổ
16
thơng hơn 150 nghìn; đại học hơn 72 nghìn giảng viên. Số nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục được đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa ngày càng tăng.
Về cơ bản, giáo viên ở tất cả các cấp học đã đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào
tạo, trong đó, mầm non đạt 96,6%, tiểu học đạt 99,7%, Trung học cơ sở đạt
99,0%, Trung học phổ thông đạt 99,6%, đại học đạt 82,7%”.Đây được coi là
một trong những động lực quan trọng, là điều kiện tốt để đổi mới tư duy, phát
huy nguồn lực quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay.
2.2.2. Hạn chế
Hội nhập quốc tế đặt các nhà quản lý giáo dục Việt Nam trước những
thử thách họ có thể chưa dự đốn hết được các kỹ năng quản lý mà thị trường
lao động cần. Các hoạt động đào tạo, quản lý và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục
theo phương pháp truyền thống sẽ phải đối mặt với những thay đổi mạnh mẽ cả
về tư duy, cơ cấu kiến thức, kỹ năng và phương pháp quản lý. Đây là thách thức
lớn, đặc biệt trong bối cảnh giáo dục Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập trong đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ, quản lý giáo dục hiện nay. Cụ
thể:
Nền giáo dục Việt Nam chưa xác định được các mục tiêu rõ ràng, đặc
biệt trong đổi mới tư duy quản lý giáo dục. Giáo dục, đào tạo chưa được coi là
điểm đột phá để đưa đất nước phát triển đi lên như nhiều quốc gia trong khu vực
và trên thế giới có hồn cảnh như nước ta đã từng làm. Dẫn đến tư duy của các
nhà quản lý giáo dục còn lạc hậu trước sự chuyển biến nhanh chóng của các nền
giáo dục thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Việc thiếu hụt nguồn nhân lực quản lý giáo dục chất lượng cao đang là
khó khăn khơng chỉ ở các nhà trường, mà của cả hệ thống giáo dục Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập. Một bộ phận đội ngũ các nhà quản lý giáo dục trong
nhận thức thiếu kỹ năng và năng lực thực hiện, luôn né tránh, có biểu hiện tư
duy bao cấp, trơng chờ, ỷ lại, không dám làm nên chưa đáp ứng được yêu cầu
của đổi mới và hội nhập quốc tế.
17
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực quản lý giáo
dục chưa được các cơ sở giáo dục coi trọng. Ngân sách cho quản lý giáo dục cịn
q ít so với nhu cầu tổ chức q trình giáo dục. Chế độ chính sách đối với đội
ngũ quản lý giáo dục còn bất hợp lý, chưa đủ động lực cho họ đổi mới tư duy,
nhận thức.
Sự lạc hậu, bất cập và trì trệ của cơng tác quản lý giáo dục, sự chậm đổi
mới trong tư duy quản lý, tính chưa hồn thiện của thể chế quản lý, nhưng, trước
hết và chủ yếu là ở tình trạng vừa thiếu, vừa yếu, vừa không đồng bộ của đội
ngũ các nhà quản lý giáo dục. Hạn chế này đã được Nghị quyết số 29 - NQ/TW
về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo kết luận: “Quản lý giáo dục và
đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập
về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới
và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp”.
18
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN 2021 –
2025
3.1. Một số giải pháp đổi mới quản lý giáo dục ở Việt Nam
Trước những vấn đề đặt ra đó, cần có cái nhìn khách quan, trung thực
và có nhận thức mới về vai trò của đội ngũ quản lý giáo dục để tìm ra những giải
pháp tốt, khả thi, nhanh chóng phá bỏ những rào cản trong đổi mới tư duy quản
lý giáo dục, bảo đảm thực hiện thành cơng chính sách giáo dục và nâng cao hiệu
quả hoạt động giáo dục. Thời gian tới, để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
trong thời kỳ hội nhập, hệ thống giáo dục nước ta cần tập trung vào một số vấn
đề sau:
Một là, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục, tạo động lực cho người dạy, người học nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; vì sự nghiệp giáo dục nước ta luôn đặt ra yêu
cầu và địi hỏi ngày càng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ,
năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ quản lý giáo dục. Trách nhiệm của nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục không chỉ là trách nhiệm với hiện trạng giáo dục
nước ta hôm nay, mà còn là trách nhiệm với quá khứ và tương lai. Muốn đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục trước hết phải đổi mới tư duy, nhận thức, ý thức
trách nhiệm của đội ngũ giáo dục, trong đó, có đội ngũ quản lý giáo dục. Định
kỳ đào tạo, bồi dưỡng công nghệ mới cho đội ngũ quản lý giáo dục, có kiến
thức, kỹ năng về cơng nghệ. Mục tiêu là đào tạo đội ngũ quản lý giáo dục đạt
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Xây dựng đội ngũ quản lý
giáo dục đúng tầm, thực chất, có đầy đủ tài, đức, năng lực trí tuệ và thực tiễn.
Có thể coi, đây là giải pháp “địn bẩy” cho phép làm chuyển động tồn bộ hệ
thống giáo dục nước ta.
19
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường thuận
lợi phát triển nguồn nhân lực quản lý giáo dục; qua đó, làm căn cứ hoạch định
chiến lược và chính sách đối với đội ngũ này. Để hoàn thiện hành lang pháp lý
về quản lý giáo dục đòi hỏi các cơ quan quản lý giáo dục cần: Rà sốt, bổ sung,
hồn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định, chính sách,
chế độ đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nhằm tạo động lực thu hút, động
viên đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo
dục. Có cơ chế đặc thù riêng cho đội ngũ quản lý giáo dục (ngoài ngạch viên
chức, công chức chung), thực sự tạo động lực đối với nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục. Về phương thức quản lý giáo dục, Nhà nước, một mặt, tập trung quản
lý chặt chẽ về nội dung, chương trình đào tạo, chất lượng đào tạo, đội ngũ nhân
lực; mặt khác, cho phép tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình
quản lý giáo dục đối với tất cả các bậc học trong cả nước.
Ba là, tập trung xây dựng đội ngũ quản lý giáo dục vừa “hồng”, vừa
“chuyên”, thu hút cán bộ, quản lý giỏi, các chuyên gia trong và ngoài nước hợp
tác với nhà trường. Trọng tâm là xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
giỏi, đáp ứng yêu cầu của một nền giáo dục “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”. Thu hút những người có tài, có đức trực
tiếp quản lý giáo dục thơng qua hình thức thi tuyển có sự cạnh tranh, nhằm từng
bước hình thành mơ hình giáo dục mở. Chuẩn hố đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục khơng chạy theo bằng cấp, mỗi cán bộ quản lý giáo dục không ngừng nâng
cao năng lực, đổi mới tư duy đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp, tích cực
học tập, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, thường xun rèn luyện các
kỹ năng phục vụ nghề nghiệp, quản trị nhà trường. Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã khẳng định “dùng người tài, chọn người tài cho đất nước chứ không
chọn người nhà. Người hiền tài dù ở trong núi thẳm, rừng sâu cũng phải tìm cho
được.”. Chứng tỏ, Đảng và Nhà nước đã thể hiện quyết tâm đổi mới tư duy quản
lý giáo dục, nâng cao trách nhiệm của các nhà quản lý giáo dục. Từ đó, hướng
đến việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nền giáo dục bảo đảm dân chủ,
20