1
A Mở đầu
1 Lý do lựa chọn đề tài
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn
phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh thần, nhất là về
học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp phần xây dựng và cải
tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” bởi không có
tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ ln lệ
thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc,
đất nước mình.
Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay, giáo dục
và đào tạo cịn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong nền kinh tế tri
thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý
giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất
được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi
quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển sang nguồn
lực con người có tri thức là cơ bản nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc
bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao làm
giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức
đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính q trình hội nhập
quốc tế và tồn cầu.
Để giáo dục được phát triển mạnh mẽ thì việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo của Việt Nam là một điều cần thiết để khẳng định vị thế của Việt
Nam trên thế giới .
2
Vì vậy ,qua quá trình tìm hiểu em lựa chọn đề tài tiểu luận của mình là “Hợp
tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay”.
2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là “sự hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo của Việt
Nam hiện nay ”.
3 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài đó là phân tích ,làm rõ việc hợp tác quốc tế về
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay .Từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao
việc hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo có hiệu quả ,đạt chất lượng cao .
4 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu : Phương pháp phân tích –tổng hợp ,phương pháp
lơgic .
5 Kết cấu đề đài
Chương I: Lý luận chung về hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
Chương II: Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay .
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục và đào
tạo .
3
B Nội dung
Chương I: Lý luận chung về hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo.
1.1
Khái niệm giáo dục và đào tạo .
Giáo dục và đào tạo là q trình phát triển có hệ thống các tri thức ,kĩ năng lĩ
xảo và thái độ ,tư cách ...,đòi hỏi ở một con người được giáo dục và đào tạo thực
hiện được nhiệm vụ chuyên môn nhất định. Đào tạo được hiểu là một nội dụng của
giáo dục trong nhà trường hướng về giáo dục chuyên môn nghiệp vụ.
1.2
Khái niệm về hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo
Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo hiện nay là hợp tác về các
hoạt động giáo dục giữa cá nhân, chủ thể tại nước mình với các cá nhân,
chủ thể người nước ngồi nhằm một mục đích phát triển giáo dục đào tạo
của cả hai bên.
1.3 Nguyên tắc hợp tác quốc tế về giáo dục
Nhà nước mở rộng, phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục theo nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi.
1.4 Hợp tác về giáo dục với nước ngoài ở Việt Nam
Một , nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho cơ sở giáo dục của Việt
Nam hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học.
Hai, nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho cơng dân Việt Nam ra
nước ngồi giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật theo hình
4
thức tự túc hoặc bằng kinh phí do tổ chức, cá nhân trong nước cấp hoặc do tổ chức,
cá nhân nước ngoài tài trợ.
Ba, nhà nước dành ngân sách cử người đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, đạo đức
và trình độ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài về những ngành, nghề và lĩnh vực
then chốt để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn, chính phủ quy định việc cơng dân Việt Nam ra nước ngoài giảng dạy,
học tập, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật; việc hợp tác về giáo dục với tổ
chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
1.5 Các hình thức hợp tác, đầu tư của nước ngoài về giáo dục tại Việt Nam.
a) Liên kết giáo dục, đào tạo;
b) Thành lập văn phòng đại diện;
c) Thành lập phân hiệu;
d) Thành lập cơ sở giáo dục;
đ) Các hình thức hợp tác, đầu tư khác.
5
Chương II: Hợp tác quốc tế về giáo dục và đạo tạo ở Việt Nam
hiện nay .
2. 1 Tầm quan trọng của hợp tác quốc tế đối với giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam.
Hợp tác quốc tế về đào tạo hiện nay là hợp tác về các hoạt động đào tạo giữa
cá nhân, chủ thể tại Việt Nam với các cá nhân, chủ thể người nước ngoài nhằm
một mục đích Phát triển giáo dục đào tạo của cả hai bên. Sự cần thiết của hợp tác
quốc tế đối với đào tạo ở nước ta được thể hiện qua những dung chính sau đây:
Thứ nhất, hợp tác quốc tế đặt ra yêu cầu cho nền giáo dục Việt Nam phải
triển khai và phát triển tính quốc tế trong mơi trường sư phạm. Chiến lược phát
triển giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay cũng khẳng định hội nhập quốc tế sâu
rộng về giáo dục xong vẫn phải giữ được cơ sở của bản sắc dân tộc, khẳng định
được chủ quyền của quốc gia
Trong xã hội hiện đại như hiện nay việc phát triển đào tạo giáo dục mang
tính quốc tế là lẽ tất yếu đề nên giáo dục nước nhà có thể cập nhật được những xu
hướng mới tri thức mới của nhân loại để có thể hồn thành được nhiệm vụ cung
cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước thì khơng gì khác nền giáo dục
của chúng ta bắt buộc phải đi đến con đường hợp tác quốc tế
Thứ hai hợp tác Quốc gia giúp các trường ở Việt Nam nâng cao được năng
lực cạnh tranh của mình và thu hút nhiều nhân tài hơn nữa sự phát triển kinh tế
6
khiến cho Việt Nam hiện nay khơng chỉ có những cơ sở giáo dục công lập mà các
cơ sở giáo dục tư nhân cũng mọc lên rất nhiều các trường học ở Việt Nam không
chỉ phải cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với rất nhiều các trường học
tiên tiến trên thế giới
Hàng năm các nền giáo dục tiên tiến bậc nhất thế giới như Singapore Mỹ
anh... Được biết đến là thị trường xuất khẩu giáo dục đã thu hút hàng nghìn du học
sinh đến học tập và trong đó có một số lượng khơng nhỏ các sinh viên Việt Nam
chính vì vậy các vấn đề đó đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết cho nền giáo dục Việt
Nam là phải cập nhật nắm bắt mọi xu hướng giáo dục mới nhất của thế giới cạnh
tranh với các nền giáo dục tiên tiến thì mới có thể tồn tại và phát triển trong tương
lai
Thứ ba , hợp tác quốc tế cũng là một trong số để đánh giá xếp hạng các môi
trường đại học hàng đầu thế giới hiện nay nhu cầu quốc tế hóa đã thúc đẩy có nền
giáo dục khơng thể phát triển mà khơng có tính chất quốc tế và hoạt động theo
những chuẩn mực nhất định của giáo dục đào tạo quốc tế
Điểm số chung cuộc xếp hạng giáo dục toàn cầu được tính ra từ các tiêu chí
sau rằng dậy tính quốc tế thu nhập và đổi mới năng lực nghiên cứu uy tín và ảnh
hưởng nghiên cứu trong đó tính quốc tế được chiếm đến 7,5% tổng số điểm.
Do đó ngồi việc thì tập trung vào các hoạt động giảng dạy nghiên cứu khoa
học theo cách truyền thống để có thể bắt kịp được xu hướng phát triển của thế giới
không để bị là một đất nước tụt hậu về giáo dục thì hợp tác quốc tế là lẽ tất yếu
phải diễn ra.
Thứ tư, mở cửa trong lĩnh vực giáo dục.Mở cửa trong lĩnh vực giáo dục của các
quốc gia đặt ra các yêu cầu cho các trường học phát triển hoạt động hợp tác quốc
tế. Trong một thế giới không ngừng biến đổi với các thách thức ngày càng tăng
7
như hiện nay, trọng trách nặng nề của giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại
học nói riêng là cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao để có thể thích ứng,
tồn tại và phát triển ở môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Để xu hướng phát triển giáo dục hiện đại trên thế giới, đồng thời kéo gần
khoảng cách giữa giáo dục Việt Nam là biết nắm bắt cơ hội hợp tác quốc tế để cọ
xát, cạnh tranh, tự đánh giá năng lực của mình và có động lực phát triển theo
hướng ngày càng tiến bộ.
2.2 Vai trò của hợp tác quốc tế đối với giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
Thứ nhất, hoạt động hợp tác quốc tế có vai trị quan trọng trong việc định
hướng sự phát triển của các trường học theo hướng hiện đại, tiếp cận nền giáo dục
đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Thông qua hoạt động hợp tác quốc
tế, các trường học Việt Nam có thể rút ra các kinh nghiệm quý giá trong việc đổi
mới tư duy, phương thức quản lý giáo dục, lựa chọn phương hướng, cải tiến hệ
thống và quy trình đào tạo, kết hợp nghiên cứu khoa học với giảng dạy, đồng thời
biết tận dụng thời cơ và lợi thế để từng bước kéo gần khoảng cách giữa giáo dục
Việt Nam và thế giới. Ngoài ra, hoạt động này tạo điều kiện cho các trườnghọc
phát triển bền vững, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho việc
phát triển đất nước.
Thứ hai, hợp tác quốc tế giúp các trường học thiết lập được nhiều hình thức
hợp tác đa dạng, phong phú với các chương trình, dự án hợp tác đào tạo, hợp tác
nghiên cứu khoa học, hợp tác song phương và đa phương... Trong q trình đó, các
trường học có thể khai thác các cơ hội, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, cập
nhật các tiến bộ khoa học cơng nghệ thơng qua các chương trình nghiên cứu
chung, liên kết với các đối tác nước ngoài để từng bước chuẩn hóa các chương
8
trình đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy, nghiên cứu các tiêu chuẩn quốc tế
nhằm tiến tới quốc tế hóa các chương trình, giáo trình giảng dạy.
Thứ ba, việc hợp tác quốc tế mang lại nhiều lợi ích thiết thực đối với sự
phát triển của các nền giáo dục của các quốc gia nói chung. Đối với học sinh &
sinh viên, hợp tác quốc tế của các trường đại học mang lại cơ hội to lớn trong việc
tiếp cận nhanh chóng với nguồn tri thức quốc tế khổng lồ. Đối với các trường học,
hoạt động hợp tác quốc tế thúc đẩy các tổ chức này cải tiến cơ sở vật chất và nâng
cao chất lượng đào tạo để có thể thu hút được các đối tác cũng như tìm được vị thế
trên thị trường quốc tế. Ngồi ra, khi hợp tác với nhau hệ thống giáo dục các nước
cịn có cơ hội giao lưu, học tập kinh nghiệm quản lý và trao đổi kiến thức chuyên
môn trong giảng dạy. Nhờ q trình này, các bên đều có cơ hội nâng cao năng lực
quản lý cũng như trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên & giảng viên. Một lợi
ích thiết thực khác đó là hợp tác về giáo dục cũng góp phần khơng nhỏ trong việc
tăng cường mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia với nhau.
Ngồi ra, hợp tác quốc tế cịn đóng vai trị tích cực trong việc xây dựng định
hướng và đổi mới giáo dục, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng để phục
vụ sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Q trình này
mang đến cho các trường học Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý giá trong việc đổi
mới tư duy, phương thức quản lý giáo dục, lựa chọn phương hướng và cải tiến hệ
thống, quy trình đào tạo, đồng thời tiếp cận gần hơn với các nền giáo dục tiên tiến
trên thế giới.
Như vậy, có thể khẳng định hợp tác quốc tế của các trường học là hoạt
động tất yếu trong quá trình tồn tại và phát triển của giáo dục hiện đại. Nắm bắt và
tận dụng hiệu quả hoạt động này, các trường học có thể có cơ hội tốt để cọ xát, học
hỏi, cạnh tranh và có động lực ngày càng phát triển theo hướng tiến bộ hơn.
9
2.3. Một số thành tựu hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam .
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo của Việt Nam thời gian qua
đã đạt được những kết quả quan trọng, giúp nâng cao hiệu quả về hợp tác quốc tế
và vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và
lãnh thổ. Theo Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Phùng Xuân Nhạ đánh
giá, trong 7 năm từ năm 2013 đến năm 2020, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo được nâng lên, giúp nâng cao hiệu quả về hợp tác quốc tế và vị thế
của Việt Nam trên thế giới.
Để đạt được điều trên, trong công tác quản lý, Bộ GD-ĐT đã tiếp tục hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hợp tác và đầu tư với nước
ngồi, quản lý cán bộ, cơng chức, viên chức đi cơng tác nước ngồi, đồng thời,
triển khai 6 dịch vụ công mức độ 3 và 4 về công tác tuyển sinh, quản lý du học
sinh Việt Nam đi học ở nước ngồi bằng học bổng có sử dụng ngân sách nhà nước
trên cổng Dịch vụ công quốc gia.
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, giai đoạn 2013-2016, đã có 68 thỏa thuận
quốc tế và 23 điều ước quốc tế được ký kết; Giai đoạn 2016 - 2020, Bộ GD-ĐT đã
chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa thuận và điều ước quốc tế cấp Chính phủ và cấp
Bộ. Đặc biệt, năm học 2019-2020, Bộ GD-ĐT đã chủ trì, ký kết được 21 văn bản
hợp tác quốc tế (gồm 6 văn bản cấp Chính phủ, 15 văn bản cấp Bộ) và ký kết thỏa
thuận về công nhận văn bằng để thúc đẩy việc dịch chuyển sinh viên với các nước
trong khu vực và trên thế giới như: Hiệp định về trường đại học Việt-Đức, Hiệp
định về việc giảng dạy tiếng Anh theo chương trình hịa bình; Cơng hàm trao đổi
về Dự án học bổng phát triển nguồn nhân lực với Nhật Bản; Hiệp định giữa Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ Armenia về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và khoa
10
học; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Latvia về hợp tác trong
lĩnh vực giáo dục; Thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp về
việc phát triển CFVG giai đoạn 2019-2023.
Cũng trong năm qua, Bộ GD-ĐT đã tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị để kết
nối hợp tác giữa các chuyên gia giáo dục, nhà đầu tư, cơ sở giáo dục trong và ngoài
nước để chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác và đầu tư, nâng cao chất lượng
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như: Diễn đàn toàn cầu của UNESCO về giáo
dục vì Phát triển bền vững và Cơng dân toàn cầu tại, triển lãm giáo dục Việt Nam
tại Lào; Hội nghị hiệu trưởng các trường đại học Việt Nam - Liên bang Nga, Hội
nghị Giáo dục Việt Nam - Đài Loan (Trung Quốc), Hội nghị thúc đẩy cơ hội học
tập các chương trình giáo dục quốc tế tại Việt Nam.
Theo Bộ GD-ĐT, các điều ước, thoả thuận hợp tác về giáo dục giữa Bộ GDĐT và các đối tác đều đã được các bên chủ động xúc tiến, thực hiện cam kết một
cách có hiệu quả, thiết thực. Tính đến nay, cả nước có tổng số 455 dự án FDI của
nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ các nước cũng đã đem lại
hàng ngàn học bổng hằng năm cho công dân Việt Nam đi học tập tại nước ngồi.
Hiện có 19 nước cấp học bổng Hiệp định cho Việt Nam, trong đó, có nhiều nước
có nền giáo dục tiên tiến, nền tảng khoa học kỹ thuật hiện đại. Số lượng học bổng
do chính phủ nước ngồi cấp cho Chính phủ Việt Nam đã tăng từ khoảng 400 học
bổng/năm (năm 2013) lên 1.400 học bổng/năm (năm 2019).
Bộ GD-ĐT triển khai một cách hiệu quả các hiệp định, thỏa thuận với nước
ngoài về hợp tác giáo dục qua việc tuyển chọn, cử du học sinh Việt Nam đi học tập
11
ở nước ngoài và tiếp nhận du học sinh nước ngoài đến học tập tại Việt Nam. Hiện
nay, Bộ GD-ĐT đang trực tiếp quản lý 6.067 du học sinh Việt Nam học tập ở nước
ngồi theo các chương trình học bổng hiệp định, đề án của Chính phủ (chiếm 4%
trong tổng số 192.000 du học sinh Việt Nam đang học tập tại nước ngoài).
Việt Nam hiện cũng đang trở thành điểm đến được nhiều sinh viên quốc tế
lựa chọn, với những ưu điểm về chất lượng giáo dục liên tục được nâng lên, chi phí
học tập, sinh hoạt hấp dẫn, mơi trường sống an tồn. Đến năm học 2019 - 2020 đã
có hơn 21.000 du học sinh đến từ 67 quốc gia trên thế giới học tập tại Việt Nam,
trong đó, có 14.400 sinh viên theo học các chương trình đào tạo từ đại học trở lên.
Các cơ sở giáo dục phổ thông của chúng ta hiện nay cũng đang góp thúc đẩy
hội nhập quốc tế trong việc triển khai các chương trình giáo dục tích hợp ở mầm
non và phổ thơng, giúp học sinh tiếp cận chương trình quốc tế, góp phần nâng cao
trình độ ngoại ngữ cho học sinh và giáo viên.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học chủ động và tích cực mở rộng hợp tác
nghiên cứu khoa học, tăng số lượng các chương trình giảng dạy bằng tiếng nước
ngồi, chuyển giao cơng nghệ, liên kết đào tạo, cơng nhận tín chỉ, liên thơng
chương trình với các trường đại học nước ngồi có uy tín, và xây dựng chính sách
thu hút sinh viên, nhà khoa học nước ngoài đến học tập và nghiên cứu tại Việt
Nam. Hiện đã có hơn 450 chương trình đào tạo quốc tế của 70 cơ sở giáo dục đại
học. Các chương trình liên kết đào tạo với nước ngồi đã tuyển được tổng số
86.000 sinh viên, học viên. Liên kết đào tạo với nước ngoài đã tăng cường hiệu quả
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nâng cao vị thế các cơ sở giáo dục đại
học của Việt Nam trên thế giới.
12
Năm học 2019-2020, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch, bệnh
Covid-19, Bộ GD-ĐT đã chủ động phối hợp Bộ Ngoại giao hướng dẫn du học sinh
cơng tác phịng, chống dịch bệnh; phối hợp các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài ở Việt Nam, các hội du học sinh để thu thập
thơng tin về tình hình du học sinh Việt Nam ở nước ngồi, báo cáo Ban chỉ đạo
Quốc gia phịng, chống dịch Covid-19, đề xuất biện pháp hỗ trợ phù hợp. Bộ GDĐT cũng đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học có những hoạt động cụ thể để tạo
điều kiện cho các du học sinh Việt Nam ở nước ngoài và các du học sinh nước
ngoài đến học tập tại Việt Nam.
Cơ sở giáo dục phát huy thế mạnh hợp tác quốc tế. Một số địa phương và cơ
sở giáo dục đại học, trong đó có các trường đại học ngồi cơng lập đã ký kết bản
ghi nhớ hợp tác giữa trường đại học, cao đẳng của tỉnh với các trường đại học, cao
đẳng của Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước trong khu vực ASEAN, tăng cường
trao đổi giảng viên, chuyên gia, sinh viên quốc tế; phối hợp với các doanh nghiệp
nước ngoài trong việc đào tạo nghề cho học sinh Việt Nam.
Nhiều chương trình giáo dục, đào tạo giảng dạy trong các cơ sở giáo dục
cơng lập và ngồi cơng lập trong nước đã được cơ sở giáo dục, đào tạo của nước
ngoài, kể cả các nước phát triển thừa nhận và liên thông.
Học sinh, sinh viên và đội ngũ nhà giáo có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với
sách báo và tài liệu nước ngoài hoặc giao lưu trực tiếp với người nước ngồi để tìm
hiểu, học hỏi tiếp thu văn hóa và tri thức nhân loại, đồng thời chuyển tải văn hóa
Việt Nam đến các dân tộc và quốc gia trên thế giới.
Một số cơ sở giáo dục đã chủ động, tiên phong trong việc thúc đẩy quá trình
tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới về dạy, học và quản lý giáo dục, đào tạo, góp
phần tích cực hội nhập với các nước trong vùng và trên thế giới.
13
Các lĩnh vực công nghệ mới được chuyển giao bao gồm phương pháp dạy
học, xây dựng và phát triển chương trình, biên soạn sách giáo khoa và tài liệu
giảng dạy; phát triển tổ chức và đội ngũ, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
giáo dục và quản trị cơ sở giáo dục..., chủ động hội nhập và chấp nhận cạnh tranh
trong môi trường quốc tế.
Một số cơ sở giáo dục mầm non đã tiếp cận với nội dung và phương pháp
giáo dục tiên tiến của các chương trình quốc tế để nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ.
2.4. Những thách thức đối với nền giáo dục và đào tạo Việt Nam trong hợp tác
quốc tế
Một thách thức thường được nói đến đối với giáo dục Việt Nam khi hội nhập
thế giới là phải tiệm cận các tiêu chuẩn chung của thế giới mà không đánh mất bản
sắc. Nhưng thực ra thách thức đối với giáo dục Việt Nam có nhiều hơn thế.
Đối với giáo dục phổ thơng, chúng ta có thể chỉ ra ba vấn đề nổi bật như sau:
Thứ nhất là về vấn đề thiếu thốn cơ sở vật chất và sự chênh lệch giữa các
vùng miền trong điều kiện dạy - học. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng tại Việt
Nam sự chênh lệch giữa miền núi với đồng bằng, nông thôn với thành thị về cơ sở
vật chất phục vụ giáo dục còn rất lớn. Khơng ít những vùng miền cịn thiếu trường,
lớp hoặc có trường ,lớp nhưng xã xơi và có điều kiện rất tồi tàn, gây khó khăn cho
việc học tập của các em nhỏ. Trong khi đó, ở những vùng kinh tế phát triển, kinh
phí cho giáo dục khơng chỉ đến từ Nhà nước, mà còn từ rất nhiều nguồn khác như
các khoản tài trợ, sự đầu tư của các doanh nghiệp, kinh phí xã hội hóa ... Sự chênh
14
lệch về điều kiện giáo dục cũng tồn tại giữa các trường tư thục và trường công lập,
bất chấp các quy định về giáo dục phổ cập trên nguyên tắc bình đẳng.
Thứ hai là việc thiếu hụt đội ngũ giáo viên giỏi, đặc biệt là ở những vùng xa
xôi hoặc kém phát triển. Chính sách đãi ngộ chưa phù hợp đã không tạo được động
lực cho nhiều người xuất sắc có nguyện vọng trở thành giáo viên, nhất là giáo viên
ở những vùng sâu, vùng xa. Nhu cầu hội nhập quốc tế địi hỏi đội ngũ giáo viên có
những năng lực, phẩm chất tiệm cận với tiêu chuẩn chung của thế giới, và hơn ai
hết, muốn tạo ra các công dân mang tính tồn cầu và có khả năng hội nhập cao,
chính các giáo viên phải là những người tinh túy và tiên phong trong việc tiếp cận
các tri thức hiện đại.
Thứ ba, chương trình học tập từ nhiều năm nay vẫn luôn bị phê phán là quá
giáo điều, quá nghiêng về lý thuyết mà bỏ qua các nội dung về kỹ năng, thực hành,
trong khi giáo dục phổ thông của các nước phát triển trên thế giới đã có những
thành quả lớn về giáo học học hiện đại. Bên cạnh đó, trong một thời gian dài, do
ảnh hưởng của việc thi cử và tâm lý học để thi, một số môn học như Giáo dục luật
pháp, giáo dục công dân, giáo dục đạo đức chưa được chú trọng, hoặc là được
giảng dạy một cách hình thức, giáo điều nên chưa đạt hiệu quả. Trong khi đó, một
đất nước hội nhập địi hỏi các cơng dân của mình phải hiểu biết pháp luật, có tinh
thần trách nhiệm cao và vốn hiểu biết văn hóa- xã hội sâu sắc về cả đất nước mình
cũng như các quốc gia khác.
Giáo dục đại học lẽ ra là khu vực dễ dàng tiếp cận với giáo dục thế giới nhất,
thì trên thực tế lại là khu vực chứa đựng nhiều bất cập nhất. Chúng tôi xin điểm
qua một số vấn đề dưới đây.
15
Một, cũng như giáo dục phổ thơng, tình trạng thiếu thốn cơ sở vật chất của
các trường đại học là vấn đề cần cải thiện. Một số trường đại học cơng lập và một
số trường đại học tư thục có khuôn viên khang trang, nhưng rất nhiều trường đại
học, kể cả những trường khá danh tiếng, đều chưa có khn viên đủ rộng, xứng với
tầm “không gian sáng tạo” cho thầy và trị. Trang thiết bị, phịng thí nghiệm, phịng
học, thư viện và học liệu trong thư viện... của nhiều trường đại học cịn thiếu;
khơng gian dành cho việc học tập, sinh hoạt của sinh viên chưa đủ hoặc còn rất
đơn giản, thơ sơ. Rất ít trường đại học cơng lập có thể trang bị cho mỗi giáo sư,
phó giáo sư một phòng làm việc riêng biệt (và tất nhiên là việc cung cấp cho mỗi
giảng viên một phòng hay một không gian làm việc riêng tại trường càng là điều
khó khăn.) Dĩ nhiên, nếu so sánh với điều kiện vật chất của giáo dục thời kỳ trước
đổi mới hoặc khoảng 10-15 trước đây thì cơ sở vật chất hiện nay đã có những cải
thiện đáng kể, nhưng nếu so sánh với các trường đại học của các nước phát triển
trên thế giới thì cịn là một khoảng cách q xa. Chính điều đó, cùng với việc thiếu
vắng các chương trình đào tạo bằng tiếng nước ngồi, đã làm hạn chế việc tiếp
nhận sinh viên của các nước phát triển hơn đến học tập tại các trường đại học Việt
Nam, nhất là đối với các chương trình dài hạn. Đó cũng chính là một trong những
lý do khiến rất nhiều sinh viên Việt Nam đi du học tự phí ở nước ngồi với một
khoản đầu tư khơng hề nhỏ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc học sinh, sinh
viên của nước này đi du học ở nước khác là xu thế tất yếu, nhưng nếu hoạt động du
học chỉ theo một chiều, thì đó là sự mất cân đối từ nhiều phương diện, bao gồm cả
phương diện tài chính.
16
Hai là hoạt động khoa học công nghệ ở các trường đại học Việt Nam còn
rất khiêm tốn, ngay cả so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Theo thống kê
của Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm từ 1996 - 2011, Việt Nam mới có
13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng
khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Malaysia (75.530), và 1/10 của
Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, 3 lần
Malaysia và gần gấp 1,5 lần Thái Lan. Số cơng bố khoa học của Việt Nam trong
vịng 15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố của trường Đại học Tokyo (69,806
công bố) và một nửa của trường Đại học quốc gia Singapore (28,070 cơng bố).
Điều đó có nhiều nguyên nhân như sau: Một, điều kiện tiếp cận với khoa học cơng
nghệ và trí thức tiên tiến của giáo viên còn hạn chế; Hai, một số trường đại học còn
coi nhẹ hoạt động nghiên cứu của giảng viên; Ba, điều kiện tiến hành nghiên cứu ở
nhiều trường đại học còn thiếu thốn; Bốn, chế độ lương của các cơ quan cơng lập
Việt Nam nói chung và của ngành giáo dục nói riêng cịn q thấp so với mức chi
trả của thị trường, bởi vậy để đảm bảo cuộc sống, nhiều giảng viên đảm nhiệm các
lớp dạy thêm hoặc các công việc khác để tăng thu nhập và hệ quả là thời gian dành
cho nghiên cứu cịn rất ít.
Ba là ở Việt Nam đang có 2 xu hướng đối lập nhau và thậm chí cực đoan
trong quan điểm về vai trò, chức năng của các trường đại học. Xu hướng thứ nhất
quá coi trọng giáo dục nghề nghiệp, và vô hình trung biến trường đại học thành
một cơ sở dạy nghề. Quan điểm này, về bản chất, là quay trở lại với mơ hình đại
học Trung cổ mà Immanuel Kant (1724-1804) - cha đẻ của giáo dục đại học hiện
đại - đã phê phán, trong đó các khoa Thần học, Luật học và Y học, vốn có chức
năng dạy nghề được coi là Thượng khoa, trong khi Khoa triết học (bao gồm cả các
ngành khoa học xã hội và nhân văn) có chức năng khai sáng lại bị coi là Hạ khoa.
17
(Tình trạng tương tự cũng từng tồn tại ở phương Đơng, khi các trường đại học
chính là trường dạy làm quan, hay quản trị công theo ngôn ngữ hiện đại.) Rõ ràng
là những người theo xu hướng này đã đi ngược lại quan điểm về giáo dục đại học
hiện đại do Kant và Wilhehm von Humboldt - người xây dựng trường đại học hiện
đại đầu tiên ở phương Tây tại Berlin (1810)- khởi xướng. (Kant cho rằng nhiệm
vụ quan trọng nhất của giáo dục đại học là khai sáng, giúp cho người học trở thành
người có khả năng sử dụng lý trí tự do, có khả năng hồn thiện bản thân và tham
gia cải biến xã hội.) Việc quá coi trọng dạy nghề trong trường đại học làm giảm
tính học thuật của các trường đại học (vấn đề yếu kém trong nghiên cứu cũng là
một hệ quả của quan điểm giáo dục này). Xu hướng thứ hai, ngược lại, là những
người cực đoan hóa quan điểm của Kant và Wilhehm von Humboldt. Cụ thể những
người theo xu hướng này lại quá coi trọng những vấn đề lý thuyết, xa rời thực tế,
trong khi giáo dục đại học ngoài chức năng giáo dục khai sáng và những hoạt động
mang tính học thuật thì cũng cần góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực trực
tiếp tham gia vào đời sống kinh tế xã hội - nguồn nhân lực khơng chỉ có kiến thức,
lý luận, mà cịn có đầy đủ các kỹ năng thực hành.
Bên cạnh đó, việc chưa phân định rõ được ranh giới giữa đại học mang tính thực
hành và đại học nghiên cứu cũng thêm một rào cản đối với giáo dục đại học Việt
Nam trong sự hội nhập với giáo dục đại học của các nước tiên tiến.
Thứ tư, chương trình giáo dục đại học cịn khá cứng nhắc, chậm cập nhật so
với sự phát triển của thế giới. Mặc dù trong những năm qua đã có nhiều sự đổi mới
về chương trình giáo dục (như chuyển từ học chế niên chế sang học chế tín chỉ, cập
nhật khung đánh giá GPA, coi trọng chuẩn đầu ra trong việc xây dựng chương
trình đào tạo, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường việc công
18
nhận tín chỉ lẫn nhau giữa các trường đại học trong nước và với các trường nước
ngồi, cơng nhận và áp dụng chuẩn quốc tế đối việc đánh giá năng lực ngoại ngữ,
năng lực tin học song song với áp dụng chuẩn quốc gia ...), nhưng còn nhiều quy
định cứng về ngành nghề đào tạo, môn học ... khiến các trường đại học khó năng
động trong việc đổi mới và cập nhật chương trình và nội dung giáo dục so với sự
phát triển nhanh chóng của thế giới.
Thứ năm, tâm lý coi trọng bằng cấp, nhìn từ góc độ tiêu cực, lại khiến cho
nhiều sinh viên có tâm lý học tập một cách hình thức (hư học), với mục đích có
tấm bằng đại học mà khơng quan tâm đến kiến thức. Hệ quả là ở một số nơi, tấm
bằng đại học khơng phản ánh đúng bản chất của nó, một số ngành đào tạo cung lớn
hơn cầu, trong khi nhu cầu của xã hội về những người lao động có tay nghề cao thì
vẫn khơng được đáp ứng. Những khảo sát gần đây cho thấy nhiều sinh viên tốt
nghiệp đại học thất nghiệp, trong khi các cơ sở sản xuất vẫn thiếu thợ lành nghề.
Chương III : Giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
Một là, chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững
độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu
khoa học, cơng nghệ của nhân loại. Hồn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa
phương, thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.
Hai là, tăng quy mơ đào tạo ở nước ngồi bằng ngân sách nhà nước đối với
giảng viên các ngành khoa học cơ bản và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến
khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngồi
19
ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngồi
có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản
lý chặt chẽ chất lượng đào tạo.
Ba là , có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hóa và
học thuật quốc tế.
Bốn là , có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh,
sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có
yếu tố nước ngồi tại Việt Nam.
Năm là , tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục đại học đẩy mạnh hội nhập quốc tế thông qua việc hợp tác với các cơ sở
giáo dục nước ngoài.
Sáu là , chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học chủ động và tích cực mở rộng
hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, tăng số lượng các chương trình giảng
dạy bằng tiếng nước ngồi, chuyển giao cơng nghệ, liên kết đào tạo, cơng nhận tín
chỉ, liên thơng chương trình với các trường đại học nước ngồi có uy tín để thu hút
sinh viên, nhà khoa học nước ngoài đến học tập và nghiên cứu tại Việt Nam.
Bảy là , tăng cường công tác quản lý đối với các chương trình liên kết giáo
dục ở các cấp học và trình độ đào tạo, các cơ sở giáo dục, đào tạo có vốn đầu tư
nước ngồi tại Việt Nam và hoạt động tư vấn du học.
Tám là , đóng góp tích cực vào việc xây dựng con người Việt Nam phù hợp
với u cầu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tiếp
thu những giá trị văn hóa của nhân loại; bảo tồn, phát huy và quảng bá các giá trị
20
văn hóa của Việt Nam; nâng cao hình ảnh của đất nước và con người Việt Nam,
đến năm 2030 hình ảnh quốc gia Việt Nam được giới thiệu rộng rãi trên tồn thế
giới, văn hóa Việt Nam có những đóng góp mới được ghi nhận trong đời sống văn
hóa quốc tế; tranh thủ tối đa các nguồn lực quốc tế nhằm thực hiện thành công các
mục tiêu chiến lược về lao động, an sinh và xã hội, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa
học và công nghệ; chú trọng nâng cao nguồn nhân lực và năng lực khoa học-công
nghệ; tạo công ăn việc làm, bảo đảm quyền của người lao động và các nhóm yếu
thế; thúc đẩy cơng bằng xã hội, đảm bảo an sinh - xã hội và nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
C. Kết luận
Hợp tác quốc tế về giáo dục và đạo tạo đối với Việt Nam là một cơ hội tốt để
các cá nhân chủ thể của nước ta có thể được giao lưu , học hỏi kiến thức của các
nước trên thế giới ,để mai sau sẽ là nguồn nhân lực cống hiến cho đất nước , phát
triển đất nước ngày càng phát triển.
Danh mục tham khảo
Giáo trình Quản lý xã hội về Giáo dục và đào tạo.
Luật giáo dục năm 2019.
Cổng thông tin Cục hợp tác quốc tế -Bộ giáo dục và đào tạo .
Giải thích từ ngữ :
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo