TIỂU LUẬN
MÔN : QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐỀ TÀI : Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực giáo
dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
2
MỤC LỤC
Phần 1: MỞ ĐẦU
2
1.
Tính cấp thiết của đề tài
2
2.
Đối tượng nghiên cứu.
3
3.
Mục đích nghiên cứu .
3
4.
Phương pháp nghiên cứu.
3
5.
Kết cấu tiểu luận.
3
Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo.
4
4
1.1 Khái niệm và những yếu tố chủ yếu trong quản lý xã hội về
giáo dục và đào tạo.
4
1.2. Một số tính chất của QLXH về GD&ĐT .
6
1.3. Một số đặc điểm của QLXH về GD-ĐT.
6
1.4. Một số nguyên tắc QLXH về GD&ĐT
8
Chương 2: Thực trạng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay.
9
2.1 Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở
nước ta hiện nay.
9
2.2 Những hạn chế, thách thức trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở
nước ta hiện nay.
12
Chương 3: Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực giáo dục và đào
tạo ở nước ta hiện nay.
14
Phần 3: KẾT LUẬN
21
Tài liệu tham khảo:
22
3
Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục – đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính
trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của quốc gia, nó liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nổi
bật, chính trị xã hội ổn định, kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên rõ rệt, các lĩnh vực văn hóa, khoa học kĩ thuật, giáo dục,
quốc phịng an ninh đều có bước phát triển vượt bậc, trong đó lĩnh vực giáo dục,
đào tạo luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng phát triển. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của nước ta đang diễn ra trong bối
cảnh hết sức phức tạp, nhiều cơ hội nhưng cũng khơng ít thách thức, trong đó đáng
chú ý là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin, truyền thơng, kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tính cạnh tranh ngày càng căng thẳng
giữa các quốc gia, có thể nói hàm lượng chất xám “giữ vai trò quyết định nhất đối
với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”, quốc gia
nào càng mạnh về đội ngũ nhân lực, càng tiên tiến về khoa học cơng nghệ, thì càng
dễ dàng phát triển, ngược lại sẽ dễ dẫn đến nguy cơ tụt hậu. Trong bối cảnh đó, để
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, trên cơ sở đánh giá tồn diện, sâu sắc tình
hình trong và ngồi nước, những thành tựu, hạn chế trong phát triển giáo dục, đào
tạo thời gian qua, Đảng ta đã xác định để phát triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã
hội, yếu tố có vai trị hết sức quan trọng là xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, coi phát triển giáo dục – đào tạo là ưu tiên hàng đầu. Chính vì vậy em chọn
đề tài “ Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
4
2. Đối tượng nghiên cứu.
Tiểu luận nghiên cứu thực trạng về lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay. Bên cạnh đó chỉ ra sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực này và đưa ra
giải pháp cần thiết cho sự phát triển trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
3. Mục đích nghiên cứu .
Nêu lên thực trạng lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay và sự
lãnh đạo của Đảng để nhận thức cái được và cái chưa được của lĩnh vực này để có
những chiến lược, đường lối, chính sách để giáo dục và đào tạo nước ta ngày càng
phát triển.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết,…
5. Kết cấu tiểu luận.
Tiểu luận gồm 4 chương:
Chương1: Cơ sở lý luận về quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo.
Chương2: Thực trạng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
Chương3: Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay.
5
Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo.
1.1 Khái niệm và những yếu tố chủ yếu trong quản lý xã hội về giáo dục và
đào tạo.
1.1.1 Khái niệm
Quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo( QLXH về GD&ĐT) là việc nhà nước
thực hiện quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ tác hoạt động GD&ĐT
trong phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà nước. Quản lý
xã hội về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực nhà nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản lí có trách nhiệm
về giáo dục của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ theo qui định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT,
duy trì kỉ cương, thoả mãn nhu cầu GD-ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GDĐT của nhà nước.
1.1.2 Những yếu tố chủ yếu trong quản lý xã hội về giáo dục và đào tạo.
Trong khái niệm QLXH về GD&ĐT nổi lên 3 bộ phận chính, đó là chủ thể
của QLXH về GD&ĐT; Khách thể của QLXH về GD&ĐT; Mục tiêu giáo dục và
đào tạo.
Chủ thể QLXH về GD&ĐT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập
pháp. hành pháp)
Khách thể của QLXH về GD&ĐT là HTGDQD và mọi hoạt động GD-ĐT
trong phạm vi toàn xã bội.
Mục tiêu GD&ĐT là về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự kỷ cương trong
các hoạt động GD-ĐT, để thực hiếm được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội, hồn thiện và phát triển nhân cách của cơng
6
dân; Tuy nhiên ở mỗi cấp học, bậc học đã được cụ thể hoá mục tiêu trong Luật GD
và điều lệ các nhà trường.
Trong khái niệm QLXH về GD&ĐT còn phải kể tới 2 yếu tố quan trọng
trong việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, đó là công cụ và phương
pháp trong quản lý xã hội về GD&ĐT:
Công cụ chủ yếu trong QLXH là hệ thống các văn bản pháp luật, do đó cơng
tác thể chế tạo ra hành lang pháp lý cho các hoạt động QLXH vế GD-ĐT
Phương pháp QLXH chủ yếu là phương pháp Hành chính, tổ chức. Như vậy
ta có thể hiểu khái niệm QLXH về GD-ĐT dưới dạng phát biếu khác. QLXH về
GD-ĐT là sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của bộ giáo dục từ
trung ương đến cơ sở lên HTGĐQD và các hoạt động GD của xã hội nhằm nâng
cao dân trí - đào tạo lực- bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách
cho công dân.
Cần lưu ý rằng, QLXH là việc thực thi ba quyền : Lập pháp - Hành pháp Tư pháp để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của cơng dân. Cịn QLXH về
GD&ĐT thực chất là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều hành và điều chỉnh
mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để quản lý có hiệu
lực và hiệu quả, việc sử dụng quyền hành pháp phải kết hợp với quyền lập pháp,
lập qui và hoạt động thanh tra, kiểm tra trong các hoạt động của tồn bộ hệ thống.
1.2. Một số tính chất của QLXH về GD&ĐT .
QLXH về GD&ĐT là QLXH về một ngành, một lĩnh vực cụ thể nhưng nó
cũng có những tính chất của QLXH và QLHCNN nói chung, đó là :
Tính lệ thuộc vào chính trị: QLXH về GD&ĐT phục tùng và phục vụ nhiệm
vụ chính trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước.
7
Tính XH: Giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn xã hội. Trong
QLXH về GD&ĐT cần phải coi trọng tính XH hố và dân chủ hố GD (DCH
GD). GD&ĐT luôn phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của KT-XH vì
vậy QLXH về GD&ĐT cần lưu ý tính chất này để có những điều chỉnh phù hợp.
Tính pháp quyền: QLXH là QL bằng pháp luật; QLXH về GD cũng phải
tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho mọi hoạt động QL các
hoạt động GD&ĐT. Tăng cường pháp chế XHCN.
Tính chuyên môn nghiệp vụ: Công chức hoạt động trong lĩnh vực GD&ĐT
cần phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch, bậc đã được quy
định. Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn mà nhà nước đã ban hành.
Tính hiệu lực, hiệu quả: Lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn-nghiệp vụ
để đánh giá cán bộ công chức, viên chức ngành GD&ĐT; Chất lượng, hiệu quả và
sự bảo đảm trật tự kỷ cương trong GD&ĐT là thước đo trình độ, năng lực, uy tín
của các cơ sở GD&ĐT và của các cơ quan QLXH về GD&ĐT.
1.3. Một số đặc điểm của QLXH về GD-ĐT.
Ở phần tính chất nêu trên chúng ta đã điểm qua một số tính chất của QLXH
về GD&ĐT, tuy nhiên trong mỗi tính chất có những nét đặc biệt riêng có thể được
nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý. Trên cơ sở nhận thức
đó cần nhấn mạnh ba đặc điểm chủ yểu sau:
Đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lí chun mơn trong các hoạt
động quản lý giáo dục (đặc điểm HC-GD). Nó vừa theo nguyên tắc quản lý xã hội
đối với hoạt động của quản lý giáo dục, vừa theo nguyên tắc hành chính giáo dục
đối với một cơ sở giáo dục. Hành chính - giáo dục thực chất là triển khai chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà nước qui định (phân cấp, phân công hoặc uỷ
quyền), Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà nước triển khai sự nghiệp GD&ĐT và
điều hành, điều chỉnh các hoạt động GD&ĐT . Đặc điểm HC- GD là đặc điểm
8
quan trọng nhất trong hoạt động quản lí xã hội về GD-ĐT nhằm bảo đảm môi
trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục mà Nhà nước
quy định.
Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí. Đặc điểm thứ
hai của QLXH về GD&ĐT cũng là đặc điểm nổi bật của QLXH nói chung ở mọi
lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí. Đặc điểm này
biểu hiện ở 3 vấn đề cơ bản sau :
Điều kiện để triển khai quản lí xã hội là phải có tư cách pháp nhân và u
cầu về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp
nhân để quản lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần phải thực hiện
đúng, đủ chức năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách
nhiệm; thực hiện đúng chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc
chịu trách nhiệm về các quyết định quản lí trước tập thể và cấp trên. Trong QLXH
sẽ khơng có tư cách pháp nhân để "ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên,
mỗi tư cách pháp nhân đều có trách nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho
đúng, làm cho đủ “thẩm quyền” là thước đo khả năng “sử dụng quyền lực nhà
nước” của một tư cách pháp nhân. Trong thực tế “Phép vua thua lệ làng”, “thủ kho
to hơn thủ trưởng” đều phát sinh do khơng nhận thức đúng “tính quyền lực nhà
nước trong các hoạt động quản lí”. “Thối quyền” và “lạm quyền” là hai thái cực
của sự vi phạm “thẩm quyền”, mặt khác khái niệm “thẩm quyền” cũng gắn với sự
phân cấp và tuân hủ thứ bậc chặt chẽ trong QLXH. Phương tiện QLXH về GD-ĐT
là các văn bản pháp luật và pháp qui. Phương pháp chủ yếu để QLXH là phương
pháp Hành chính - Tổ chức (HC-TC). Cần nhận thức rằng tháp luật, pháp quy là sự
cụ thể hố chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước; phản ánh lợi ích của tồn
dân, vì vậy đây chính là lành lang pháp lí cho việc triển khai các hoạt động QLXH
về GD&ĐT bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc khơng tn thủ
hành lang pháp lí trong các hoạt động QLXH về GD&ĐT tức là vi phạm trật tự kỳ
cương và sẽ bị xử lí theo tuy định của pháp luật. Trong QLXH về GD&ĐT phải
9
tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh
- phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong QLXH. Tính quyền lực
nhà nước ở đây cũng chính là việc CBQL giáo dục cấp phòng cần nhận thức đầy
đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương
trong quá trình quản lý giáo dục.
Đặc điểm kết hợp Nhà nước-xã hội trong quá trình triển khai QLXH về
GD&ĐT. Chúng ta đều biết GD&ĐT là một hoạt động mang tính xã hội cao và
Đảng ta cũng đã nhấn mạnh tư tưởng GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Rõ ràng, dân chủ hố và xã hội hố cơng tác giáo dục là một tư
tưởng có tính chiến lược và nó có vai trị rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói
chung và QLXH về GD&ĐT nói riêng; rất nhiều bài tốn QLXH về GD&ĐT sẽ
rất khó giải quyết nếu khơng có sự tham gia của đơng đảo lực trong xã hội. Đây
cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong QLXH về GD&ĐT.
1.4. Một số nguyên tắc QLXH về GD&ĐT
Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ. Mọi cơ sở giáo dục - nhà trường thực
hiện chức năng, nhiệm vụ GD-ĐT theo sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý giáo
dục đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy cũng phải tn thủ sự quản lí xã
hội của địa phương theo qui định phân cấp của Nhà nước. Nội dung chủ yếu của
ngun tắc này dưới góc độ vĩ mơ có thể diễn đạt như sau: Sự nghiệp GD&ĐT,
HTGDQD là một thể thống nhất. Bộ GD&ĐT là cơ quan QLNN về GD&ĐT
thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương QLXH về GD&ĐT
thơng qua cơ quan chun mơn của mình theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do
Nhà nước qui định phù hợp với cơ chế phân cấp.
Nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên
tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta.
QLXH về GD&ĐT cũng tuân thủ nguyên tắc này với góc độ vĩ mơ ngun tắc này
có nghĩa là Nhà nước thống nhất quản lý HTGDQD về mục tiêu chương trình, nội
10
dung.... qui chế thi cử và hệ thống văn bằng. Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về
QLXH về GD&ĐT cho địa phương và tạo điều kiện để phát huy chủ động và sáng
tạo. Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ đối với QLXH về GD&ĐT có nghĩa là
Nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục; về mục
tiêu, nội dung giáo dục và qui chế văn bằng... đồng thời tạo điều kiện cho cơ sở
chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và QLGD cụ thể,
tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về QLGD rõ
ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở phát huy quyền
làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách niệm cá nhân theo chế độ thủ
trưởng đối với việc QLXH trong tổ chức điêu hành công việc hàng ngày cần thực
hiện tốt chế độ thủ trưởng nhưng phải bảo đảm thực hiện quy chế làm chủ ở cơ sở.
11
Chương 2: Thực trạng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
2.1 Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tun ngơn Độc lập, tố cáo tội ác của thực dân Pháp, trong đó có vấn đề về giáo
dục. Người nêu: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. (…) Chúng ràng buộc
dư luận, thi hành chính sách ngu dân”. “Ngu dân” là chính sách thâm độc được
thực dân Pháp thực hiện trong suốt thời gian chúng xâm lược và đô hộ nước ta.
Chúng đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc phiện, đồng thời hạn chế các hoạt động
giáo dục. Sau Cách mạng tháng Tám, xác định “một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”, ngay ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xếp tiêu diệt giặc dốt là nhiệm vụ thứ hai trong 6 nhiệm vụ
cấp bách của chính quyền.
Trong 3/4 thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải
cách. Cải cách giáo dục đầu tiên vào năm 1950, chuyển cấp “trung học chuyên
khoa” học 3 năm chuyên ban thành “phổ thông cấp III” không chuyên ban. Cải
cách thứ hai vào năm 1956 sáp nhập hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm và 12
năm đang tồn tại song song ở miền Bắc thành hệ thống giáo dục mới 10 năm. Đến
đầu năm 1979, thống nhất hệ thống phổ thông 12 năm ở miền Nam và hệ thống 10
năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm mới. Cải cách gần
đây nhất vào năm 2013, được đánh giá có tính tồn diện, triệt để bằng Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013, trên tinh thần “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Hiện giáo dục Việt Nam tiếp tục có nhiều thành tựu nổi bật. Trong đó, sau
10 năm thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi (2010 - 2020), số
trường mầm non tăng hơn 2.600 trường. Mỗi xã phường đều có ít nhất 1 trường
12
mầm non công lập. Số trẻ đến trường tăng hơn 1,5 triệu em so với năm học 2010 2011. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi hồn thành chương trình giáo dục mầm non đạt 99,9%. Về
cấp tiểu học, 63/63 tỉnh thành đều đạt chất lượng phổ cập mức độ 2, trong đó 4 địa
phương đạt mức độ 3. Cả 63/63 tỉnh thành đều đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS
cấp độ 1, một số địa phương đạt mức độ 2 và 3.
Năm học 2020 - 2021, cả nước có hơn 5 triệu trẻ mầm non, hơn 8,8 triệu
học sinh tiểu học, hơn 5,9 triệu học sinh THCS, hơn 2,7 triệu học sinh THPT; tổng
số phòng học là 593.808 phòng (tăng 3.504 phịng so với năm học trước), trong đó
phịng học kiên cố chiếm 70,5%. Riêng bậc THPT, cả nước có có 2.543 trường
(tăng 144 trường), 59.686 lớp; trong số này có 45,33% số trường đạt chuẩn quốc
gia và 40,22% số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục; có 135.875
giáo viên, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 99,78% (tăng 2,8% so với năm
học trước).
Chất lượng giáo dục còn được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Việt Nam
hiện được xếp vào tốp 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới, theo
báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển cơng bằng ở Đơng Á
– Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới. Hay trong các Chương
trình đánh giá học sinh quốc tế, lứa tuổi 15 (PISA), học sinh nước ta đều đạt kết
quả ấn tượng, vượt qua mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD). Các đội tuyển Olympic quốc tế đều đạt thứ hạng cao. Chẳng hạn năm
2019, với 15 huy chương vàng, 14 huy chương bạc, 7 huy chương đồng,
Đoàn
Học sinh Việt Nam nằm ở tốp đầu tại kỳ thi Olympic Toán học và khoa học quốc
tế; với thành tích này, Việt Nam tiến 13 bậc so với kỳ thi lần thứ 59 năm 2018.
Ở bậc đại học, tính đến cuối năm 2020, 7 trường đại học được công nhận
bởi tổ chức đánh giá, kiểm định quốc tế (HCERES, AUN-QA). 195 chương trình
đào tạo của 32 trường được đánh giá, công nhận theo tiêu chuẩn khu vực và quốc
tế. Năm 2018, lần đầu tiên trong lịch sử, hai đại học của Việt Nam, là Đại học
Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TPHCM, lọt vào danh sách 1.000 trường
13
hàng đầu thế giới của Tổ chức Quacquarelli Symonds (Anh). Mặt khác, tự chủ đại
học đã tạo nên đột phá khi nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo đứng trong tốp 500 thế
giới. Việt Nam cũng đứng thứ 49 thế giới về số lượng báo khoa học công bố trên
các ấn phẩm quốc tế có uy tín. Cả nước hiện có 172 trường đại học cơng lập, 65
trường ngồi cơng lập, với gần 1,7 triệu sinh viên.
Thành tựu về giáo dục đã góp phần quan trọng vào việc chất lượng nguồn
nhân lực. Như năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ ở 40% thì đến năm 2020
đã tăng lên 64%; trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng
từ 14,6% lên 24,5%. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc ngành giáo dục ngày
31/10/2020, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhận định: “Chúng ta đã vượt lên khó
khăn, vượt lên chính mình và ngành giáo dục đào tạo đã có tiến bộ tồn diện, nhiều
mặt, rõ ràng và vững chắc”.
Các năm 2020 và 2021 đánh dấu bước chuyển đổi linh hoạt của hệ thống
giáo dục Việt Nam trong giai đoạn dịch bệnh. Với chủ trương “tạm dừng đến
trường, không ngừng việc học”, các cấp bậc học (trừ mầm non) đã chuyển sang
hình thức dạy học trực tuyến qua internet và truyền hình, đây là lần đầu tiên việc
dạy học trực tuyến được triển khai trên quy mô cả nước. Báo cáo PISA của OECD
công bố ngày 29/9/2020, đánh giá: “Việc học trực tuyến để phịng chống Covid-19
của Việt Nam có nhiều điểm khả quan so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác”.
Đây là nhận định xác đáng khi Việt Nam có gần 80% học sinh, sinh viên học trực
tuyến, cao hơn mức trung bình 67,15% của các nước OECD, xếp thứ 17/200 quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Cơ sở hạ tầng cho giáo dục được đầu tư thích đáng. Các trường lớp của Việt
Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo
cho việc dạy và học có chất lượng tương đương với các nước khác trong khu vực.
Hiện tại, cả nước đã có gần 500 trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu học, trên
400 trường trung học cơ sở và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia.
14
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý xã hội về giáo dục từng bước
được nâng lên, cơ cấu hợp lý hơn. Đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có
bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại
các bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân từng bước được nâng lên
về trình độ chuyên môn, chất lượng và hiệu quả công tác. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được các bộ, ngành, địa phương quan tâm
thực hiện tốt theo kế hoạch hằng năm. Việc tổ chức các kỳ thi nâng ngạch cho đội
ngũ công chức, viên chức được thực hiện thường xuyên hơn; qua đó số lượng
chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính làm việc tại các bộ, ngành và cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã được tăng lên. Công tác tổ chức
cán bộ, tuyển dụng, bổ nhiệm, quy hoạch, đề bạt, luân chuyển đội ngũ cán bộ,
công chức phù hợp với trình độ chun mơn, nghiệp vụ đào tạo và năng lực sở
trường công tác được quan tâm, chú trọng gắn với đổi mới cơ cấu đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bộ máy
hành chính nhà nước ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Cơng
tác quản lý cán bộ, cơng chức có nhiều đổi mới, tiến bộ.
Thông qua việc Nhà nước kiểm tra, kiểm soát về giáo dục và đào tạo, đối
tượng được kiểm tra, giám sát thấy được những ưu điểm để phát huy, đồng thời
cũng thấy rõ những tồn tại, hạn chế để khắc phục, sửa chữa.
Thông qua công tác kiểm tra, kiểm sốt, có thể ngăn ngừa, khơng để xảy ra
khuyết điểm, vi phạm lớn của những tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo. Qua công tác kiểm tra, kiểm sốt, có thể có những cái tác động đúng
hướng, đúng lúc, đúng chỗ vào quá trình tổ chức thực hiện có đúng với quy định
của pháp luật hay chưa của từng đối tượng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Thơng qua cơng tác này, có thể đánh giá được chất lượng giáo dục và đào tạo. Phát
hiện và xử lý kịp thời các vi phạm về giáo dục.
15
2.2 Những hạn chế, thách thức trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay.
Công tác quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường, lớp học ở một số địa
phương còn chưa phù hợp, chưa quan tâm đến yếu tố đảm bảo chất lượng khi dồn
dịch các trường. Thiếu trường, lớp ở các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế
xuất, đặc biệt là các trường mầm non.
Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, phương pháp giảng dạy
chậm đổi mới; năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ quản lý trường học còn
yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Cơ sở vật chất, trường lớp học, trang thiết bị
dạy học một vài nơi còn thiếu hoặc bị xuống cấp; cơng tác xã hội hóa giáo dục
chưa thực sự hiệu quả. Nguồn kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất cịn hạn hẹp;
cơng tác xã hội hóa giáo dục chưa thực sự hiệu quả.
Trách nhiệm giải trình cịn thấp. Việc thực hiện tự chủ đại học chưa gắn liền
với đổi mới quản trị nhà trường, số lượng cơ sở đào tạo được tự chủ toàn diện chưa
cao; tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm cịn nhiều.
Phương thức dạy nghề trong các trường phổ thơng vẫn cịn nặng về kiến
thức lý thuyết, việc phối hợp giữa nhà trường phổ thông với các cơ sở đào tạo, các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất... chưa hiệu quả.
Sự lựa chọn về các trường học khá hạn chế, tỷ lệ học sinh đến trường ở cấp
trung học cơ sở còn thấp, đào tạo chưa gắn kết với thị trường lao động và sự cần
thiết phải cải cách giáo dục một cách hệ thống và bài bản. Việc tiếp cận cơng nghệ,
mơ hình giáo dục nước ngồi, các chương trình học bổng nói chung ở các địa
phương vùng sâu, vùng xa cịn rất ít. Các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
16
Thiết kế, cấu trúc của chương trình giảng dạy, cách đánh giá cũng như
phương pháp dạy và học cần phải đổi mới nhằm đảm bảo chất lượng của sinh viên
khi ra trường. Cấu trúc và nội dung, thời lượng các môn học cần phải điều chỉnh
cho hợp lý, cân đối và hấp dẫn.
Công tác phát hiện và xử lý vi phạm còn chậm và chưa nghiêm. Việc ban
hành văn bản cịn chậm, chưa đồng bộ; cơng tác xử lý vi phạm sau thanh tra ở một
số địa phương chưa nghiêm. Công tác truyền thông chưa thực sự chủ động, việc xử
lý thơng tin có lúc chưa kịp thời.
Chương 3: Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước
ta hiện nay.
Năm 2020 - 2021 có thể coi là những năm vơ cùng đặc biệt của ngành giáo
dục, vừa dạy học, vừa phòng dịch nhưng ngành giáo dục cũng đã hồn thành
chương trình, hồn thành việc thi tốt nghiệp trung học phổ thông, nhiều học sinh
đạt giải trong các kỳ thi quốc tế,… Bên cạnh đó, hầu như các chính sách về giáo
dục ở các cấp học, bậc học,… đều có nhiều thay đổi.
Năm học 2021-2022 cũng là năm học toàn ngành Giáo dục tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ kép, vừa tích cực thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch
COVID-19 đang diễn biến phức tạp, bảo đảm an toàn trường học, vừa ra sức phấn
đấu khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm vụ năm học, đáp ứng yêu cầu đổi mới
và bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn ký ban hành Chỉ thị về thực hiện
nhiệm vụ năm học 2021 - 2022 ứng phó với dịch COVID-19, tiếp tục thực hiện đổi
mới, kiên trì mục tiêu chất lượng giáo dục và đào tạo.
Chỉ thị nêu rõ: Năm học 2021-2022, năm đầu tiên ngành Giáo dục triển khai
thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị
17
quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025;
Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng; các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội và các văn bản chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giáo dục và đào tạo; Quyết
định số 2559/QĐ-BGDĐT ngày 6/8/2021 ban hành Chương trình hành động của
Bộ GD&ĐT triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Năm học 2021-2022 cũng là năm học toàn ngành Giáo dục tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ kép, vừa tích cực thực hiện các giải pháp phịng, chống dịch
COVID-19 đang diễn biến phức tạp, bảo đảm an toàn trường học, vừa ra sức phấn
đấu khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm vụ năm học, đáp ứng yêu cầu đổi mới
và bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo.
Để thực hiện mục tiêu trên, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT yêu cầu toàn ngành Giáo
dục tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhất: Chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch năm học 2021-2022
linh hoạt, phù hợp với tình hình dịch COVID-19 tại địa phương.
Trong đó, triển khai có hiệu quả các biện pháp về phòng, chống dịch Covid19, phối hợp với ngành Y tế chủ động xây dựng các kịch bản, giải pháp ứng phó
với tình huống dịch COVID-19 dự báo cịn có thể kéo dài và diễn biến phức tạp.
Tổ chức khai giảng năm học mới linh hoạt theo hình thức trực tiếp hoặc trực
tuyến tùy tình hình dịch bệnh tại địa phương, bảo đảm an tồn, gọn nhẹ, thiết thực,
thể hiện tinh thần chia sẻ, động viên học sinh, sinh viên, giáo viên vượt qua khó
khăn, hoàn thành nhiệm vụ dạy và học.
Tận dụng tối đa thời gian tổ chức dạy học trực tiếp khi dịch bệnh được kiểm
soát. Trường hợp dịch bệnh diễn biến phức tạp không thể tổ chức dạy học trực tiếp
18
thì tổ chức dạy học trực tuyến để hồn thành kế hoạch năm học, bảo đảm chất
lượng giáo dục.
Không tổ chức dạy học trực tuyến đối với giáo dục mầm non, tập trung phối
hợp, hướng dẫn, hỗ trợ phụ huynh ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ ở nhà theo
các kênh phù hợp.
Quan tâm công tác tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các kỹ năng cần
thiết để tiến hành dạy học trực tuyến, đào tạo từ xa; xây dựng nền tảng dạy và học
trực tuyến dùng chung, hệ thống bài giảng chuẩn hóa, kho học liệu điện tử chia sẻ
theo hướng tạo mơi trường tương tác, tăng tính thích ứng và trải nghiệm đối với
người học, tăng cường khả năng tự học cho học sinh, sinh viên.
Rà soát cắt giảm và tiết kiệm tối đa các chi phí để giữ ổn định, khơng tăng
học phí so với năm học 2020- 2021; có chính sách hỗ trợ, miễn, giảm, giãn thời
gian đóng học phí, hỗ trợ kịp thời sách giáo khoa đối với các em học sinh có hồn
cảnh khó khăn; tuyệt đối khơng để xảy ra tình trạng “lạm thu” đầu năm học.
Thứ hai, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ hướng dẫn nhiệm
vụ năm học của các cấp học, các sở giáo dục và đào tạo, các cơ sở giáo dục xây
dựng và triển khai kế hoạch chi tiết, cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương, trong đó:
Triển khai thực hiện Chương trình Giáo dục mầm non đã được sửa đổi, bổ
sung theo Thông tư số 51/2020/TT-BGDĐT ngày 31/12/2020 và chuyên đề “Xây
dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm giai đoạn 2021-2025” theo Kế hoạch
số 626/KH-BGDĐT; tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án tăng cường tiếng Việt
cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 2020, định hướng đến 2025.
19
Duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi,
chuẩn bị cho trẻ em 5 tuổi sẵn sàng vào học lớp 1; khuyến khích các địa phương có
điều kiện thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo.
Từng bước khắc phục tình trạng thiếu giáo viên mầm non; tăng cường quản
lý, hỗ trợ nâng cao chất lượng nhóm, lớp độc lập tư thục.
Tiếp tục triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 bảo đảm chất
lượng và hiệu quả, đặc biệt với lớp 2, lớp 6 trong năm học 2021 - 2022; chuẩn bị
các điều kiện thực hiện dạy học môn Tin học và môn Ngoại ngữ bắt đầu triển khai
đối với lớp 3 từ năm học 2022 - 2023; tổ chức thẩm định, phê duyệt sách giáo
khoa các môn học và hoạt động giáo dục lớp 3, lớp 7, lớp 10 và tài liệu giáo dục
địa phương theo lộ trình quy định.
Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở,
phổ cập giáo dục bắt buộc đối với cấp tiểu học; hoàn thiện các quy định về tổ chức
và hoạt động giáo dục của trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán
trú, trường dự bị đại học. Bảo đảm cung cấp kịp thời sách giáo khoa cho học sinh,
kể cả học sinh khuyết tật thực hiện giáo dục hịa nhập, khơng để xảy ra tình trạng
thiếu sách giáo khoa đầu năm học.
Tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày
25/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh cơng tác khuyến học, khuyến
tài, xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030 và Quyết định số 1373/QĐ-TTg
ngày 30/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học
tập giai đoạn 2021 - 2030”.
Xây dựng kế hoạch về giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng
học sinh trong giáo dục phổ thông theo hướng mở; đổi mới nội dung, hình thức
giáo dục hướng nghiệp gắn với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của
thị trường lao động; thực hiện kết hợp dạy văn hóa phổ thơng với dạy nghề hiệu
quả, đúng quy định.
20
Thứ ba, triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 209/QĐ-TTg ngày 17/2/2020
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo
dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Rà soát, đánh giá việc triển khai thực hiện và áp dụng các quy định của pháp
luật về tự chủ đại học, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng trường; kiện
toàn bộ máy lãnh đạo, quản lý và hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nội bộ, phát
huy dân chủ và nâng cao năng lực quản trị nhà trường.
Tổ thức thực hiện có hiệu quả các quy định về tuyển sinh và đào tạo, xây
dựng chuẩn chương trình đào tạo các nhóm ngành, các lĩnh vực đào tạo thuộc các
trình độ của giáo dục đại học.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thúc đẩy công bố trên các tạp chí khoa học
quốc tế uy tín, ưu tiên các nghiên cứu ứng dụng chuyển giao, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo và khởi nghiệp; phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, gắn với đầu tư
phát triển các phòng thí nghiệm và đào tạo sau đại học.
Tăng cường kiểm định chất lượng chương trình đào tạo và hợp tác quốc tế,
ưu tiên phát triển các chương trình đào tạo chất lượng quốc tế giảng dạy bằng tiếng
Anh.
Thứ tư, triển khai thực hiện hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng cách mạng,
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp, việc làm
cho học sinh, sinh viên; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; xây dựng văn
hóa học đường; cung cấp, trau dồi các kỹ năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và
nâng cao nhận thức về chuyển đổi số, kinh tế số cho học sinh, sinh viên.