Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Lv ths luật học biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.33 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN
PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

7

1.1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp

7

1.2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp

15

1.3. Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong Luật tố tụng
hình sự của một số quốc gia và kinh nghiệm đối với Việt Nam

29

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP GIỮ
NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN


38

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc giữ người trong trường hợp
khẩn cấp

38

2.2. Việc thực hiện biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
của Cơ quan điều tra

40

2.3. Việc thực hiện biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cẩp
của Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra
2.4. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân

46
47

2.5. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp

57

KẾT LUẬN

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu


Tên biểu đồ

Trang

2.1

Tỷ lệ các trường hợp tạm giữ hình sự giai đoạn 2016 - 2020

41

2.2

Số người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trên địa bàn

biểu đồ

các huyện thị giai đoạn 2018- 20
2.3

Phân tích tỉ lệ các trường hợp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp

2.4

41
44

Tỷ lệ các loại tội phạm bị áp dụng biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp sau đó bị khởi tố bị can


45


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) là bảo đảm phát hiện
chính xác và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp
phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm1.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một chế định mới, tiến bộ,
quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam, là một trong
những cơng cụ pháp lý sắc bén mang tính cưỡng chế nhà nước đấu tranh có
hiệu quả để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời còn là
phương tiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân. Đảng, Nhà nước
ta ln đặt con người ở vị trí trung tâm để xây dựng “Con người Việt Nam
phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, chính vì vậy, quyền con người, quyền
cơng dân ln được quan tâm, quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp
luật của Nhà nước ta.
Kể từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực, việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn này thời gian qua đã thu được những kết quả đáng kể, thu được
những kinh nghiệm nhất định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ những khó khăn

thực hiện, vướng mắc về mặt nhận thức, cách thức tổ chức thực hiện ở mỗi
địa phương có sự khác nhau, cần phải được nghiên cứu giải quyết.
Điện Biên là địa bàn nằm trên địa bàn có tỉ lệ các tội phạm về ma túy
. Xem Điều 2 BLTTHS năm 2015.

1


2

cao trên cả nước, tình hình mua bán, vận chuyển, tàng trữ chất ma túy trên địa
bàn tỉnh Điện Biên gia tăng qua các năm, là tỉnh giáp biên giới với các nước
Lào và Trung Quốc; tiếp giáp các tỉnh Sơn La, Lai Châu, địa hình phức tạp,
hiểm trở. Có vị trí gần với khu vực trọng điểm về ma túy của thế giới, các tỉnh
thuộc Bắc Lào. Thời gian qua, đã phát hiện nhiều đường dây mua bán, vận
chuyển chất ma túy lớn xuyên quốc gia. Ngoài ra, các tội phạm mua bán
người, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giết người do nguyên nhân xã hội, cố ý gây
thương tích, trộm cắp tài sản, hủy hoại rừng, đánh bạc quy mô lớn, cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự... diễn ra hết sức phức tạp. Chính vì vậy, các biện
pháp ngăn chặn, phịng ngừa tội phạm ln được các cơ quan tiến hành tố
tụng tỉnh Điện Biên quan tâm, sử dụng có hiệu quả góp phần vào việc bảo
đảm an ninh - chính trị - trật tự, an toàn xã hội.
Việc nghiên cứu biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp gắn
với một địa bàn miền núi trọng điểm của tỉnh Điện Biên khơng chỉ có ý nghĩa
ứng dụng thiết thực đối với việc nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án
hình sự của các cơ quan tố tụng trên địa bàn mà cịn có thể đưa ra những kinh
nghiệm để áp dụng cho các địa bàn khác trên phạm vi cả nước.
Từ những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: “Biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Điện Biên” làm đề
tài luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua có nhiều cơng trình nghiên cứu về các biện
pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
nói riêng được nhiều người quan tâm nghiên cứu, thể hiện trên các giáo trình
giảng dạy của các cơ sở đào tạo lớn và uy tín, các luận văn thạc sĩ, các bài
báo, tạp chí chuyên ngành, phần lớn đã tập trung làm rõ được các vấn đề lý
luận, có thể kể đến một số cơng trình khoa học điển hình như:


3

Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2017; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2019.
Luận văn thạc sĩ luật học: “Biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp từ thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội”, năm 2019, của tác giả
Phạm Ngọc Long.
Luận văn thạc sĩ luật học: “Biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, năm 2020, của tác giả Quảng
Khoa Toản.
Luận văn thạc sĩ luật học: “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, năm 2020, của tác giả Trần Ngọc Lệ Huyền.
Luận văn thạc sĩ luật học: “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, năm
2016, của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Huế.
Bên cạnh giáo trình, sách chuyên khảo, thì trong khoa học pháp lý có
một số bài viết tạp chí có liên quan đến giữ người trong trường hợp khẩn cấp
như: Nguyễn Hồng Thiện (2017), “Quy định về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm
sát, số 11; Nguyễn Quốc Hân (2018), “Những vướng mắc khi áp dụng quy

định về giữ người trong trường hợp khẩn cấp và thủ tục bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp”, Tạp chí Kiểm sát, số 15; Vũ Minh Phương
(2020), “Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp”, Tạp chí An ninh nhân
dân, số 98...
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu về TTHS trực tiếp
liên quan đến biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Nhưng chưa có
cơng trình nào có sự khảo sát và xuất phát nghiên cứu gắn với một địa bàn cụ
thể như địa bàn tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu học viên đã


4

kế thừa nhiều kết quả nghiên cứu về mặt lý thuyết và thực tiễn từ các cơng
trình nghiên cứu này để hồn thành đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề
chung, phân tích chi tiết các quy định, đưa ra những vụ án, vụ việc xảy ra mà
các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Điện Biên đã xử lý để chỉ ra những vướng
mắc, bất cập còn tồn tại về: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhằm đưa
ra những kiến giải để hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật một
cách thống nhất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống các quy định của pháp luật
hiện hành về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS Việt Nam,
những điểm mới tiến bộ của BLTTHS năm 2015 về biện pháp ngăn chặn này.
Quy định về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS một số quốc
gia và kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Thực tiễn ứng dụng trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Làm rõ những điểm

còn bất cập trong pháp luật để đề ra các nhóm kiến nghị, đề xuất giải pháp
hoàn thiện
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm: Những vấn đề chung, pháp
luật thực định về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, quy định
của một số quốc gia và kinh nghiệm đối với Việt Nam, thực tiễn áp dụng trên
địa bàn tỉnh Điện Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào trọng tâm nghiên cứu biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp trong BLTTHS năm 2015, những thay đổi tiến bộ của


5

của pháp luật về giữ người trong trường hợp khẩn cấp giữa các BLTTHS
trước đây và BLTTHS năm 2015.
Về không gian, đề tài khảo sát và thu thập số liệu thực tiễn đối với Cơ
quan cảnh sát điều tra, Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Điện Biên, các
cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trên địa bàn tỉnh Điện
Biên, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) hai cấp trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Về thời gian, đề tài tập trung phân tích, đánh giá nghiên cứu trong giai
đoạn từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực đến năm 2020.
5. Các phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp
luật về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân

tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với việc hồn thiện
pháp luật, đóng góp thêm vào sự phát triển lý luận về các biện pháp ngặn chặn
nói chung và giữ người trong trường hợp khẩn cấp nói riêng. Với việc đề xuất
các giải pháp thiết thực, trong đó có việc đưa ra một số giải pháp - kiến nghị góp
phần vào sửa đổi các quy định trong BLTTHS và các bộ luật khác có liên quan.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức
năng trong thực thi pháp luật, hoàn thiện pháp luật về TTHS. Luận văn cũng
là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng và là
nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này.


6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trên địa bàn
tỉnh Điện Biên


7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP
1.1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp
1.1.1 Khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Khi có tội phạm xảy ra các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
sẽ khởi tố vụ án và giải quyết theo một trình tự, thủ tục nhất định đó chính là
tiến trình TTHS. Để các đối tượng bị buộc tội không tiếp tục phạm tội, tiêu
hủy chứng cứ hoặc cản trở công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì
BLTTHS cho phép trong tiến trình tố tụng này các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng được áp dụng các như tạm giữ, tạm giam… đối với họ, các
biện pháp này được gọi là các biện pháp ngăn chặn.
Biện pháp ngăn chặn được hiểu là các biện pháp được các cơ quan
tiến hành tố tụng sử dụng mang tính chất cưỡng chế về mặt TTHS áp dụng
khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc người chưa bị
khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), để nhằm ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm của họ trong xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Những biện pháp nhằm ngăn chặn tội phạm được quy định trong
BLTTHS như: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam,
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Giữ người là hành động của Cơ quan, người có thẩm quyền được
BLTTHS cho phép tác động đến quyền tự do của con người cụ thể trong
khoảng thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hoặc xử lý tội phạm.
- “Trường hợp” là tình hình cụ thể trong đó sự việc nói đến xảy ra
hoặc giả định xảy ra, trong quan hệ với các tình hình khác có thể có;


8


+ “Khẩn cấp”, nghĩa thứ nhất: Là việc cần được tiến hành, được giải
quyết ngay, không chậm trễ, nghĩa thứ hai: Là việc có tính chất nghiêm trọng,
địi hỏi có ngay những biện pháp tích cực để đối phó, khơng cho phép chậm trễ2.
Như vậy, trường hợp khẩn cấp là một tình trạng của một việc cụ thể
đang xảy ra hoặc có thể xảy ra mang tính cấp bách về mặt thời gian yêu cầu
phải giải quyết ngay tức khắc bằng những biện pháp tích cực để đối phó
nhanh chóng, không cho phép chậm trễ.
Trường hợp khẩn cấp trong TTHS được hiểu là: Những trường hợp
được quy định cụ thể trong BLTTHS, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải có những biện pháp, hành động nhanh chóng, cụ thể
nhằm phát hiện chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội;
- Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về giữ người trong
trường hợp khẩn cấp: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một biện pháp
ngăn chặn được quy định trong BLTTHS, do những người có thẩm quyền
được BLTTHS cho phép thực hiện nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc
cần ngăn chặn người chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng, có dấu hiệu bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
1.1.2. Đặc điểm, ý nghĩa của việc giữ người trong
trường hợp khẩn cấp
- Đặc điểm: Khác với các biện pháp ngăn chặn khác, giữ người trong
trường hợp khẩn cấp có những đặc điểm riêng như sau:
+ Đây là biện pháp hạn chế quyền tự do đi lại của người bị áp dụng và
khi bị áp dụng biện pháp này thì đối tượng bị áp dụng chịu sự quản lý của các
cơ quan thực hiện việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, không được tự
do tiếp xúc với người khác, tự do sử dụng các trang thiết bị cá nhân ngoài
những trang thiết bị được cung cấp của cơ quan quản lý… Cùng là bị tước
2


. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


9

quyền tự do trong phạm vi, thời gian nhất định nhưng điều kiện sinh hoạt của
người bị giữ không khắc nghiệt như đối với người bị tạm giam.
+ Chỉ do những người có thẩm quyền được quy định cụ thể trong
BLTTHS mới có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, có thể
phân loại như sau:
(1) Những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (CQĐT) các cấp
(2) Những người có thẩm quyền được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng; Cảnh sát biển và Lực lượng kiểm ngư.
(3) Một số chủ thể đặc biệt khác khơng có thẩm quyền tiến hành tố
tụng như: Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Người
chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Về hình thức ra lệnh giữ người phải được thực hiện theo biểu mẫu tố
tụng theo quy định3.
+ Chỉ được giữ người trong từng trường hợp cụ thể được quy định
trong BLTTHS, mục đích cuối cùng của biện pháp này là một biện pháp ngăn
chặn, chính vì vậy chỉ được giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong khuôn
khổ các trường hợp quy định.
+ Chỉ được giữ người trong khoảng thời gian mà BLTTHS cho phép
cụ thể ở đây là tính theo giờ, thứ nhất vì tính khẩn cấp của vụ việc; thứ hai,
khống chế thời gian giữ người để tránh việc lạm dụng của cơ quan, người có
thẩm quyền giữ người thời gian lâu hoặc làm việc với người bị giữ trong thời
gian dài làm người này bị giam, giữ trên thực tế.
- Ý nghĩa của việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
+ Trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm

Quy định và áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh, phòng chống và phòng ngừa tội phạm, thể
3

. Xem biểu mẫu số 18 BH theo Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017.


10

hiện sự kiên quyết trong đường lối chính sách của Nhà nước trong việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe
doạ gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự
bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định
của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức
khoẻ, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy
tắc của cuộc sống xã hội - xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu
tranh phịng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm
tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết,
triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện các biện
pháp ngăn chặn trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể quan điểm đó của Nhà nước.
+ Có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với các hoạt động của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của cơng cuộc
đấu tranh, phịng chống tội phạm.
Thơng thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lí mà
mình phải chịu do việc thực hiện tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để vừa có
thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn

tránh sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Do đó, giữ người trong trường
hợp khẩn cấp nhằm ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu các hành vi
thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lí người
phạm tội là một tất yếu khách quan. Mặt khác, hỗ trợ rất nhiều cho các hoạt
động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giúp cho các hoạt
động này được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Bởi lẽ, với tính đặc
thù của các biện pháp này là “cưỡng chế nhằm ngăn chặn” đã góp phần hạn


11

chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho
q trình giải quyết vụ án.
Chỉ được áp dụng đối với đối tượng nhất định trong những trường
hợp nhất định khi có căn cứ pháp luật quy định nên đã bảo đảm sự dân chủ,
tôn trọng quyền con người, quyền công dân được hiến pháp quy định như
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và tự do đi lại...; Tuy
là một biện pháp cưỡng chế, tác động trực tiếp đến quyền tự do của cá nhân
trong một thời gian nhất định nhưng không nhằm xâm phạm đến thân thể, hay
trừng phạt về hành vi của họ.
+ Nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong hiến pháp: Điều này thể hiện
ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp không xuất phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ
quan, người có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, tóm lại là người
có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có căn cứ.
+ Giữ người trong trường hợp khẩn cấp xuất phát từ sự tơn trọng các
quyền và lợi ích hợp pháp của con người (đối tượng của biện pháp ngăn
chặn): Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong
việc áp dụng đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái

pháp luật khi áp dụng gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm của cơng dân đều bị xử lí nghiêm minh. Như vậy, xét một
cách toàn diện, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp là thể hiện tập trung và rõ nét nhất sự dân
chủ, phù hợp với hiến pháp, tính ưu việt của BLTTHS nước ta trên thực tiễn.
1.1.3. Đối tượng, phạm vi, chủ thể thực hiện việc giữ người trong
trường hợp khẩn cấp
- Đối tượng áp dụng:
Đối tượng thứ nhất, là người đang chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.


12

Đối tượng thứ hai, là người đã thực hiện xong hành vi phạm tội.
- Phạm vi áp dụng:
Phạm vi của việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp là khoảng
được giới hạn trong BLTTHS cho phép:
+ Về mặt thời gian: Phải có tính khẩn cấp, tức là phải giữ người ngay
tức khắc nếu đủ căn cứ. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp chỉ trong thời
hạn là 12 giờ.
+ Về thẩm quyền thực hiện: Giới hạn chỉ những người được BLTTHS
quy định mới có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
- Chủ thể thực hiện: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp vì tính chất
phức tạp và nghiêm trọng của nó nên chỉ có những nhóm chủ thể nhất định
mới có thẩm quyền ra quyết định:
Nhóm thứ nhất: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp;
Nhóm thứ hai: Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương
đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu
cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung

ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng
Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phịng, Đồn trưởng Đồn
đặc nhiệm phịng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng
lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng
Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy
lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
Nhóm thứ ba: Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã
rời khỏi sân bay, bến cảng.
1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp
Từ các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS, biện pháp ngăn
chặn này có thể ảnh hưởng từ các yếu tố sau:


13

Thứ nhất, ảnh hưởng từ thực tiễn công tác đấu tranh, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm.
Để áp dụng một biện pháp ngăn chặn trong TTHS đi vào thực thi trên
thực tế, đã có thời gian dài các nhà làm luật hoạch định chính sách pháp luật
một cách đúng đắn, tồn diện và sâu sắc, phù hợp với quy định của Hiến pháp
“Khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” (khoản 2 Điều 20), đồng thời
đáp ứng thực tiễn đấu tranh phòng ngừa tội phạm cũng như để đảm bảo và
nâng cao các giá trị quyền con người.
Tình hình tội phạm nói chung là hiện tượng xã hội, đã và đang hàng
ngày, hàng giờ diễn ra trong cuộc sống. Vì vậy phải ngăn chặn nó, theo hai
chiều hướng:
Một là, ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục diễn ra (chỉ dừng lại ở

mức chuẩn bị)
Hai là, ngăn chặn không cho người thực hiện tội phạm cản trở quá
trình xử lý vụ án, vụ việc.
Thứ hai, ảnh hưởng từ năng lực thực thi của người được
giao thẩm quyền.
Về phần này, tác giả đi sâu phân tích năng lực của người ra lệnh và
người thực thi lệnh.
- Đối với người ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Chủ thể ra lệnh biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp như
đã phân tích được giao cho những người có thẩm quyền. Trên thực tế những
người này hiếm khi có mặt tại hiện trường, nơi xảy ra tội phạm, trực tiếp làm
việc với người bị nghi thực hiện tội phạm hoặc người thực hiện tội phạm.
Việc ra lệnh giữ người nhiều trường hợp phụ thuộc vào việc báo cáo, những
tài liệu, chứng cứ đã thu thập của những cán bộ cấp dưới như: Điều tra viên,


14

cán bộ điều tra, trinh sát, nhân viên tàu bay, tàu biển… trên cơ sở báo cáo kết
quả thực hiện nhiệm vụ đó những người có thẩm quyền mới quyết định có ra
Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp hay không.
- Đối với người thực thi lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Là
người được phân cơng có trách nhiệm tổ chức thi hành Lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp và áp giải người bị giữ, Lệnh giữ người có thi hành đúng
quy định hay khơng, ảnh hưởng lớn từ người được giao thực thi lệnh.
Thứ ba, việc áp dụng có giữ người trong trường hợp khẩn cấp hay
không, phụ thuộc vào sự linh hoạt của người áp dụng.
Việc có áp dụng lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp hay không
phụ thuộc vào sự đánh giá tài liệu, chứng cứ ban đầu vào từng vụ việc cụ thể,
mà trong thực thi pháp luật thì người có thẩm quyền gặp vơ vàn những vụ

việc có nội dung khác nhau, khơng có vụ việc nào giống nhau. Địi hỏi người
áp dụng phải đưa ra quyết định kịp thời, nhanh chóng và chính xác.
Thứ tư, ảnh hưởng từ sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền.
Để việc thực hiện giữ người trong trường hợp khẩn cấp có thực thi
đúng quy định của pháp luật hay khơng địi hỏi phải có sự phối hợp theo trình
tự quy định ngoài sự phối hợp của các chủ thể quy định trong BLTTHS thì
phải có sự phối hợp bắt buộc của Viện kiểm sát (VKS).
Thứ năm, ảnh hưởng từ đòi hỏi cấp bách của công cuộc cải cách hoạt
động tư pháp hình sự, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân.
Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là các giá trị
pháp luật truyền thống, là tổng hợp các chế định và các quy phạm pháp luật
được thừa nhận chung từ trước đến nay. Đi đôi với việc thực thi pháp luật
đúng đắn thì yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp luôn là bảo vệ quyền con người, quyền công dân thể


15

hiện trong khoảng thời gian nhất định (12 giờ) nếu không chứng minh được
việc thực hiện hành vi phạm tội thì phải trả do ngay cho người bị giữ.
1.2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp
1.2.1. Quy định về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
trước Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Quy định về biện pháp ngăn chặn “Giữ người trong trường hợp khẩn
cấp” trong BLTTHS năm 2015 có sự kết thừa, phát triển từ quy định về biện
pháp “bắt người trong trường hợp khẩn cấp” quy định tại Điều 81 của
BLTTHS năm 2003, có một số điểm mới, tiến bộ như sau: Như đã đề cập,
trước đây theo quy định của BLTTHS năm 2003 thấy rằng, quy định về bắt
người trong trường hợp khẩn cấp là chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Chính vì vậy, nhằm đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp, đồng thời
đáp ứng thực tiễn đấu tranh phòng ngừa tội phạm cũng như để đảm bảo và
nâng cao các giá trị quyền con người, Điều 110 BLTTHS năm 2015 đã quy
định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
- Ngoài người bị hại, người chứng kiến tội phạm xảy ra thì sự xác
nhận của “người cùng thực hiện tội phạm” (điểm b khoản 1 Điều 110),
- Phát hiện dấu vết tội phạm tại “nơi làm việc hoặc trên phương tiện
của người bị nghi thực hiện tội phạm” (điểm c khoản 1 Điều 110).
- Ngồi chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Thủ trưởng, phó Thủ trưởng
CQĐT các cấp; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng thì BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhóm những chức
danh cụ thể là những người đứng đầu một số đơn vị trực thuộc Bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát biển và Kiểm ngư. Đây là danh sách các chủ thể được liệt kê
trong điểm b khoản 2 Điều 110 mới có quyền áp dụng biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp.
- Bộ luật quy định chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục giữ người trong


16

trường hợp khẩn cấp, cụ thể như:
+ Quy định về nội dung của Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, về hồ sơ kèm theo lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đề nghị VKS phê chuẩn, về nghĩa
vụ của người chỉ huy tàu bay, tàu biển giao người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp cho CQĐT tại sân bay, bến cảng đầu tiên tàu trở về.
+ Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn
cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm
quyền theo luật định của những cơ quan này phải thực hiện: lấy lời khai của

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; nếu thấy có căn cứ thì ra quyết định
tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề
nghị VKS phê chuẩn bao gồm: (1) Văn bản đề nghị VKS phê chuẩn Lệnh bắt
giữ người trong trường hợp khẩn cấp; (2) lệnh giữ người trong trường hợp
khẩn cấp; (3) lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Quyết định
tạm giữ; (5) biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; (5) biên bản ghi
lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Nếu khơng thấy có
đủ căn cứ thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ.
Thời hạn này so với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp
(so với Điều 83 BLTTHS năm 2003) đã được rút ngắn xuống một nửa từ 24 giờ
xuống còn 12 giờ.
Trường hợp VKS thấy cần thiết gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp để xem xét việc phê chuẩn lệnh bắt đối với người đó thì biên bản ghi
lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên (KSV)
lập và phải được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc. Bộ luật quy định rõ hơn khi
VKS không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì
người đã ra lệnh giữ người khẩn cấp và CQĐT đã nhận người bị giữ trong


17

trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã có sự sửa đổi căn bản về cả căn cứ và nội
dung đối với trường hợp “Bắt người trong trường hợp khẩn cấp”, cụ thể đã
được sửa thành biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” được quy
định tại Điều 110 của BLTTHS năm 2015.
Theo đó, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp
khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành 03

hoạt động: Lấy lời khai ngay người bị giữ; Ra quyết định tạm giữ; Ra lệnh bắt
người bị giữ và gửi ngay cho VKS kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ
người để xét phê chuẩn hoặc trả tự do cho người bị giữ.
Trong căn cứ “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” cũng đã có sự
thay đổi, khơng cịn mang tính định tính, cụ thể:
- Điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định khi bắt khẩn
cấp phải đảm bảo “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như
vậy, trong trường hợp này khi muốn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ các căn cứ để xác định
người đó có các hành vi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm và điều quan trọng
là tội đó phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng được quy định tại Điều 14 của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, đây
là quy định mang tính chất định lượng cụ thể, tiến bộ hơn quy định của
BLTTHS năm 2003, căn cứ để bắt khẩn cấp quy định “Khi có căn cứ để cho
rằng...” là cịn mang tính chất định tính, chưa cụ thể.
Theo các quy định trên, người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp” nếu họ đang chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng



×