Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tài liệu thi hết môn Luật hình sự Việt Nam 2 SL03 EHOU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.82 KB, 12 trang )

Trả lời: So sánh tội tham ô tài sản với tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ
Theo Điều 353 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, Tội tham ô tài sản được hiểu là hành vi của người
có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm
quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị
xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1
Chương XXIII của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm. Còn theo Điều 356
BLHS năm 2015, Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được hiểu là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Xác định tội danh trong trường hợp đối tượng thực hiện nhiều tội danh như sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý
Bởi ThS. Nguyễn Thị Thanh Thủy - Thứ ba, 7/11/2023, 4:01 PM
Theo quy định tại Mục 3, Phần I Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày
24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý” của Bộ
luật Hình sự năm 1999 thì:
Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội.
3.1. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau,
từ Điều 192 đến Điều 194 của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi
phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội
phạm đó khơng bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội
theo điều luật có quy định tội nặng hơn.
Ví dụ: một người trồng cây thuốc phiện (đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn
định cuộc sống và đã bị xử phạt hành chính về hành vi này), sau đó lại tiến hành sản xuất trái phép
chất ma túy. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất
trái phép chất ma túy theo Điều 193 của BLHS (tội sản xuất trái phép chất ma túy nặng hơn tội trồng
cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy).
3.2. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau,
từ Điều 192 đến Điều 194 của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi
phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội
phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội được


thực hiện đầu tiên theo tội danh tương ứng.
Đối với người thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy để sản xuất trái phép chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất trái phép
chất ma túy quy định tại Điều 193 BLHS.
3.3. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều từ Điều 192 đến
Điều 194 của BLHS mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
những tội độc lập theo điều luật tương ứng.
Ví dụ một người mua bán trái phép hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện người đó cịn có hành vi
sản xuất thuốc phiện. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 của BLHS và tội sản xuất trái phép chất ma túy
theo Điều 193 của BLHS.
3.4. Việc xác định các tội bằng nhau, nặng hơn hoặc nhẹ hơn được thực hiện theo hướng dẫn tại
tiểu mục 2.2, mục 2, phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ
thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.


3.5. Trường hợp một người thực hiện một hoặc nhiều hành vi phạm tội quy định trong một điều luật
(Điều 194, Điều 195 và Điều 196 của BLHS) thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp một người chỉ thực hiện một trong các hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194
(hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh về
hành vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều
195 của BLHS.
b) Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều
195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội
này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương
ứng và chỉ phải chịu một hình phạt.

Ví dụ: một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy rồi vận chuyển đến
một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh là mua
bán, vận chuyển tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 195 của
BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
c) Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều
195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về những tội độc lập mà người ấy đã thực hiện. Khi xét xử, Tòa án áp dụng Điều 50 của BLHS để
quyết định hình phạt chung.
Ví dụ: một người mua bán một loại tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy và bị bắt,
khi khám nhà phát hiện người đó cịn tàng trữ một loại tiền chất khác nhưng không nhằm mục đích
để mua bán. Trong trường hợp này, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy và tội tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 195 của BLHS. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người đó
bị xử phạt mức hình phạt tương ứng đối với từng tội và sau đó quyết định hình phạt chung cho cả hai
tội theo quy định tại Điều 50 của BLHS.
Phân biệt khái niệm: tội phạm và phạm tội
Bởi ThS. Nguyễn Đình Tuân - Thứ hai, 23/10/2023, 2:30 PM
Trên thực tế, hai từ tội phạm và phạm tội vẫn đang bị sử dụng một cách nhầm lẫn. Vậy khi nào gọi là
tội phạm, khi nào gọi phạm tội?
“Điều 8. Khái niệm tội phạm (Bộ luật Hình sự 2015)
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể
thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”
Theo khái niệm của Bộ luật Hình sự thì một người được xem là tội phạm khi:
(i) Người này thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự;

(ii) Có năng lực trách nhiệm hình sự;


(iii) Người thực hiện phải có lỗi (cố ý hoặc vô ý);
(iv) Xâm phạm đến khách thể mà Bộ luật Hình sự bảo vệ.
Nói cách khác một người bị xem là tội phạm khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành riêng của loại tội
phạm đó (khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan). Và chỉ có Nhà nước (Tịa án) mới có
quyền kết luận người đó là tội phạm hay khơng.
Cịn phạm tội thực chất là hành động thực hiện tội phạm nói trên. Hành vi phạm tội khơng phân biệt
giữa người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự và người có năng lực trách nhiệm hình sự.
Nhưng việc phạm tội của người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự sẽ khơng bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Như vậy, một người có dấu hiệu phạm tội nhưng chưa chắc sẽ trở thành tội phạm.

So sánh tội giết người và tội cố ý gây thương tích làm chết người?
So sánh dấu hiệu pháp lý của tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người quy định tại
Khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015?
Ở góc độ đơn giản nhất có thể so sánh sự khác biệt như sau:
Giống nhau:
* Khách thể của tội phạm:
Đều xâm phạm vào khách thể loại là tính mạng, sức khỏe của con người.
Đối tượng tác động của cả hai tội đều là cơ thể của con người đang sông và là cơ thể của người
khác.
* Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan: Đều có hành vi dùng sức mạnh thể chất tác động lên thân thể của nạn
nhân.
+ Hậu quả: đều có hậu quả giống nhau là nạn nhân bị chết.
* Mặt chủ quan của tội phạm: Đều thực hiện với lỗi cố ỷ; Động cơ phạm tội không là yếu tố bắt
buộc trong cấu thành của cả hai tội.

* Chủ thể của tội phạm: Đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật
định.
Khác nhau:
* Khách thể trực tiếp của tội phạm:
Tội giết người xâm phạm trực tiếp vào quyền sống của con người.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm trực tiếp vào
quyền được bảo hộ sức khỏe của con người.
* Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hậu quả:


Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015: Dấu hiệu hậu quả chết người không phải là dấu hiệu để định tội.
Điểm a Khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015: Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc để
định tội.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong hai tội này là khác nhau.
Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015: Hành vi của người phạm tội trực tiếp gây ra hậu quả chết người.
Điểm a Khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015: Hành vi của người phạm tội không phải là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết cho nạn nhân hay tiềm ẩn trong hành vi của người phạm tội
chưa đủ khả năng gây ra cái chết cho nạn nhân, nhưng có yếu tố khác tác động vào nên hậu quả
chết người mối xảy ra.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
+ Lỗi: Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015: Cô ý (đối với hành vi và hậu quả).
Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015: cố ý (đối với hành vi nhưng vô ý đối với hậu quả).
+ Mục đích: Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015: Nhằm tước đoạt tính mạng của người khác.
Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015: Nhằm gây thương tích cho người khác.
Luật Minh Khuê phân tích chi tiết về hai tội danh này và cách thức phân biệt cụ thể:
1. Giết người là gì? Cố ý gây thương tích là gì?
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người. Có thể hiểu hành vi này sẽ gây ra cái chết
cho con người, chấm dứt sự sống của họ
Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm đến thân thể, gây thiệt hại đến sức khỏe của người

khác. Có thể hiểu hành vi này sẽ gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể
hoặc gây tư vong cho người khác.
2. So sánh dấu hiệu pháp lý của tội giết người (Điều 123) và tội cố ý thương tích (Khoản 4 Điều
134)?
* Giống nhau :
- Chủ thể của tội phạm
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiệm trọng tại Điều 123 và Điều 134.
- Có hành vi làm chết người.
- Có hậu quả làm chết người, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng.
* Khác nhau
Tội cố ý gây thương tích ( Khoản 4 Điều
134 )

Tiêu chí

Tội giết người ( Điều 123 )

Mục đích

Người phạm tội thực hiện hành vi với Người phạm tội thực hiện hành vi với mục đích gây
mục đích nhằm tước đoạt tính mạnh tổn hại đến thân thể, sức khỏe của nhạn nhân mà


của nạn nhân. Việc nạn nhân chết là không mong muốn nạn nhân chết. Việc nạn nhân
điều mà người phạm tội mong muốn.
chết nằm ngoài mong muốn của người phạm tội.
Mặt khách thể


Xâm phạm đến tính mạng của nạn
Xâm phạm đến sức khỏe của nạn nhân.
nhân.

Mức độ tấn công

Mức độ tấn công nhanh dồn dập và liên Mức độ tấn công yếu hơn không liên tục, dồn
tục để gây chết người ngay.
dập nhằm mục đích tước đoạt tính mạng.

Mục đích chính Trong suy nghĩ và ý thức của người Trong suy nghĩ và ý thức là chỉ cố ý gây ra thương
của hành vi phạm phạm tội là tước đoạt tính mạng của tích khơng có ý định tước đoạt tính mạng của
tội
nạn nhân.
người khác.
Yếu tố lỗi

Hành vi phạm tội lỗi cố ý

Hành vi phạm tội lỗi vô ý

2. Phân biệt tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm:
Để phân biệt tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm ta xét đến cấu thành tội phạm của hai tội này:
Tiêu chí

Tội cưỡng dâm

Chủ thể

– Người có đủ năng lực trách – Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt

nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ đủ độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên
16 tuổi trở lên
– Điều luật không mô tả dấu hiệu
đặc biệt của chủ thể nhưng thực
tiễn xét xử vẫn coi chủ thể của tội
cưỡng dâm chỉ có thể là nam giới

Khách
thể

Tội hiếp dâm

– Điều luật không mô tả dấu hiệu đặc biệt của chủ
thể nhưng thực tiễn xét xử vẫn coi chủ thể của tội
cưỡng dâm chỉ có thể là nam giới. Nữ giới chỉ có
thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai
trò là người xúi giục, người giúp sức hya người tổ
chức

Hành vi cưỡng dâm nêu trên xâm Hành vi hiếp dâm xâm phạm đến nhân phẩm, danh
phạm đến nhân phẩm, danh dự và dự của nạn nhân, xâm phạm đến sức khoẻ (gồm
sức khoẻ của người khác.
sức khoẻ về thể chất và sức khoẻ về tinh thần),
gián tiếp xâm phạm tính mạng của nạn nhân (làm
nạn nhân chết hoặc tự sát).

Mặt chủ Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý
quan

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý


Người phạm tội biết nạn nhân là Người phạm tội biết hành vi giao cấu của mình


người lệ thuộc mình hoặc biết họ hoặc hành vi quan hệ tình dục khác của mình là trái
đang trong tình trạng quẫn bách
ý muốn của nạn nhân nhưng vẫn mong muốn thực
hiện hành vi hiếp dâm đó bằng những thủ đoạn đê
Người phạm tội cũng biết hành vi hèn
đe dọa hay hứa hẹn của mình là
hành vi lợi dụng quan hệ lệ thuộc Nạn nhân là bất kì ai
hoặc là hành vi lợi dụng tình trạng
quẫn bách của nạn nhân để buộc
họ phải miễn cưỡng giao cấu hoặc
miễn cưỡng thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác
Mặt
khách
quan

Hành vi khách quan của tội phạm
này được quy định là hành vi
“khiến” (ép buộc) và hành vi giao
cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục
khác. Trong đó hành vi giao cấu
hoặc hành vi quan hệ tình dục
khác là kết quả của hành “Khiến”

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi
giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với

nạn nhân trái ý muốn của họ bằng thủ đoạn dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng
khơng thể tự vệ được hoặc bằng những thủ đoạn
khác

Các hành vi này được thực hiện bằng một trong
– Nạn nhân của hành vi khách những thủ đoạn sau:
quan là người bị lệ thuộc hoặc là
người đang trong tình trạng quẫn + Thủ đoạn dùng vũ lực: Là thủ đoạn dùng sức
bách
mạnh vật chất để đè bẹp sự phản kháng của nạn
nhân. Ví dụ: Bóp cổ, vật,…
+ Quan hệ lệ thuộc ở đây là quan
hệ lệ thuộc về mặt công việc, gia + Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực: là thủ đoạn làm
đình, tí ngưỡng hoặc hay về mặt cho nạn nhân bị tê liệt không chống lại hành vi của
kinh tế
người phạm tội. Ví dụ: Đe dọa giết người, gây
thương tích
+ Người đang trong tình trạng
quẫn bách là người đang ở trong
hồn cảnh hết sức khó khăn, tự
mình khơng thể hoặc khó có thể
khắc phục được mà địi hỏi phải có
sự hỗ trợ từ người khác. Ví dụ:
Người thân trong gia đình bị mắc
bệnh hiểm nghèo nên cần một số
tiền lớn để chữa bệnh nhưng lại
đang trong tình trạng túng thiếu
nghiêm trọng
– Theo đó hành vi ép buộc ở tội

phạm này được hiểu là lợi dụng
quan hệ lệ thuộc hoặc hoàn cảnh
quẫn bách của nạn nhân để khống
chế tư tưởng, buộc họ phải miễn
cưỡng thực hiện hành vi giao cấu
hoặc miễn cưỡng thực hiện hành

+ Thủ đoạn lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ
được của nạn nhân: là thủ đoạn lợi dụng nạn nhân
vì lý do nào đó khơng thể chống lại được hành vi
của người phạm tội. Ví dụ: Lợi dụng nạn nhân khi
đang ốm đau
+ Thủ đoạn khác: là những thủ đoạn giúp cho người
phạm tội có thể thực hiện được hành vi của mình.
Ví dụ: Lợi dụng nạn nhân khi đang say rượu,..


vi quan hệ tình dục khác theo ý
muốn của mình. Thủ đoạn của
người phạm tội sử dụng để khống
chế nạn nhân có thể là hành vi đe
dọa hoặc hứa hẹn
Lưu ý:
+ Hành vi đe dọa ở tội cưỡng dâm
chưa đến mức làm người khác bị
tê liệt ý chí, khơng dám kháng cự
như ở tội hiếp dâm. Người bị đe
dọa chỉ bị khống chế về mặt tư
tưởng họ vẫn có khả năng phản
kháng nhưng đã miễn cưỡng chịu

giao cấu hoặc chịu thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác
– Người phạm tội cưỡng dâm cũng
có thể lợi dụng quan hệ lệ thuộc,
lợi dụng uy thế của mình hoặc lợi
dụng nạn nhân đang trong tình
trạng quẫn bách hứa hẹn mang lại
quyền lợi nào đó nếu họ chấp
nhận việc thực hiện hành vi giao
cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục
khác. Cần lưu ý là sự hứa hẹn phải
có tình chất là sự khống chế tư
tưởng buộc họ phải miễn cưỡng
chấp nhận việc giao cấu hoặc chấp
nhận hành vi thực hiện quan hệ
tình dục khác. Những trường hợp
hứa hẹn khác sẽ không thuộc
phạm vi của tội này.

Căn cứ Điều 141 Bộ luật hình sự năm Điều 143 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi
pháp lý
2015 được sửa đổi bổ sung năm bổ sung năm 2017
2017

Phân biệt hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực?
4. Sự khác nhau giữa hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” với “đe dọa sẽ dùng vũ lực”
- Về cường độ tấn công, đe dọa:


+ Đối với tội cưóp tài sản thì hành vi “đe dọa dùng vũ lực” phải có dấu hiệu “ngay tức khắc” nghĩa là

làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được dẫn đến “tê liệt ý chí”. Theo đó,
cường độ đe dọa rất mãnh liệt làm cho người bị đe dọa thấy rằng việc dùng vũ lực sẽ được thực
hiện ngay nếu mình có hành vi cản trở, bản thân họ sẽ khơng hoặc khó tránh khỏi sự đe dọa đó.
+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì hành vi “đe dọa sẽ dùng vũ lực” khơng có dấu hiệu “ngay tức
khắc”, tức là nạn nhân vẫn có thời gian suy nghĩa đưa ra lựa chọn đối với yêu cầu của đối tượng
thực hiện tội phạm đưa ra. Bên cạnh đó, cường độ đe dọa ít mãnh liệt hơn so với hành vi đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc.
- Về thời gian chiếm đoạt tài sản:
+ Đối với tội cướp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" chỉ sự nhanh chóng về thời
gian, việc dùng vũ lực sẽ xảy ra ngay lập tức sau hành vi đe dọa nếu bị kháng cự.
+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" khơng nhanh chóng về thời gian.
Có thể khơng được thực hiện ngay sau hành vi đe dọa mà sẽ được thực hiện trong tương lai.
- Về mức độ tác động đến ý chí kháng cự của người bị đe dọa:
+ Đối với tội cưóp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" làm tê liệt hồn tồn ý chí
kháng cự của người bị đe dọa, nên họ khơng cịn cách nào khác là buộc phải trao tài sản của mình
cho người phạm tội nếu khơng muốn bị xâm hại đến tính mạng.
+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" khơng hồn tồn có khả năng
khống chế ý chí của người bị đe dọa, người bị đe dọa cịn có thời gian và điều kiện để lựa chọn
những xử sự khác ngoài việc trao tài sản cho người phạm tội.
- Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
+ Đối với tội cướp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" có tính chất mức độ nguy
hiểm cao.
+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" có tính chất, mức độ nguy hiểm
thấp hơn.
- Về cách thức thực hiện hành vi:
+ Đối với tội cướp tài sản thì "hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc" được thể hiện dưới các
dạng như bằng lời đe dọa gay gắt kèm theo các hành động trực tiếp tác động gây ra nguy hiểm cho
người bị đe dọ. Người phạm tội sẵn sàng thực hiện các hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng nạn
nhân một cách ngay tức khắc.
Ví dụ: Người phạm tội thường sẽ những lời lẽ đe dọa gay gắt như: "mày khơng nghe tao, tao sẽ

giết..."; dí dao vào cổ, dùng tay bóp cổ; và dạng phổ biến nhất trong thực tiễn hiện nay là kết hợp
giữa đe dọa và hành động (vừa dí súng vào đầu và vừa đe dọa nếu mày không nghe tao tao bắn
chết ngay).
Như vậy, bằng các hành động quyết liệt trên người phạm tội đã khống chế được ý chí và làm tê liệt ý
chí kháng cự lại của nạn nhân.


+ Đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì "hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực" đã thể hiện rõ được việc đe dọa
không quyết liệt gay gắt như tội cướp tài sản và hành vi sử dụng vũ lực có thể sẽ được thực hiện sau
một khoảng thời gian nhất định. Hậu quả của hành vi này làm nạn nhân lo sợ nhưng chưa đến mức
tê liệt hoàn tồn ý chí kháng cự, phản kháng.
- Đáng lưu ý, giữa thời điểm đe dọa dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực sẽ có một khoảng thời
gian nhất định để người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. Đây là
một trong những điểm cơ bản để phân biệt với đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc của hành vi cướp
tài sản.
5. Thực tế phân biệt hai hành vi “đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” với “đe dọa sẽ dùng vũ lực”
Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực được hiểu là chưa tiến hành dùng vũ lực mà chỉ tồn tại hành vi đe
dọa, dùng những lời lẽ cử chỉ nhằm tác động vào tâm lý của người bị hại. Trong khi đó, nếu người
phạm tội vừa đe doạ, vừa dùng vũ lực (mặc dù việc dùng vũ lực không mạnh mẽ bằng vũ lực mà
người phạm tội đe doạ người bị hại) thì sẽ vẫn bị coi là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.
Ví dụ: Nguyễn Văn A gặp chị Trần Thị B trên một đoạn đường vắng, ngay lập tức A lao ra chặn chị
B lại, A liền túm cổ áo chị B đồng thời rút dao trong người ra dí sát vào cổ chị B rồi dùng những lời lẽ
hăm dọa buộc chị B phải cởi dây chuyền, hoa tai đưa cho A ngay nếu không sẽ ra tay với chị B.
Hành vi của A phải coi là hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.
Trên thực tế, việc xác định thế nào là đe doạ sẽ dùng vũ lực khơng khó bằng việc xác định thế nào là
đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc. Việc phân biệt hai hành vi này là dấu hiệu rất quan trong để phân
biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ sẽ dùng vũ lực nhưng khơng ngay tức
khắc thì đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc được hiểu là ngay lập tức không
chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Khả
năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong

hành vi của người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng có nghĩa là nếu người bị hại
khơng giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đánh giá người phạm tội có dùng vũ lực hay khơng, trong
trường hợp người bị hại không giao tài sản lại là một vấn đề phức tạp. Thông thường, người phạm
tội không bao giờ nhận là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị hại không giao tài sản hoặc
không để người phạm tội lấy tài sản. Vì vậy để xác định trường hợp người phạm tội đe doạ dùng vũ
lực ngay tức khắc hay khơng, ngồi lời khai của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn
phải căn cứ vào các tình tiết khác của vụ án như: Khơng gian, thời gian, hồn cảnh lúc xảy ra sự
việc; vào công cụ, phương tiện phạm tội người phạm tội sử dụng...
Ví dụ: Trong đêm tối, trên một đoạn đường vắng, một người dùng dao dí vào cổ người khác, yêu
cầu người này phải giao tài sản cho mình, nếu khơng sẽ giết. Ngay lúc đó có tổ tuần tra phát hiện


nên bắt được người phạm tội. Trong trường hợp này, dù người phạm tội có khai rằng chỉ có ý định
hăm doạ chứ khơng có ý định dùng vũ lực hay giết người bị hại thì cũng khơng có căn cứ để tin lời
khai của người phạm tội là đúng, mà trường hợp này sẽ phải xác định người phạm tội đã có hành vi
đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

So sánh tội lừa đảo và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo quy định của BLHS 2015
Lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là những hành vi gian dối, xâm phạm đến quyền sở
hữu tài sản của người khác. Giữa 02 hành vi có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có điểm khác nhau.
Giống nhau:
- Xâm phạm quan hệ sở hữu;
- Lỗi cố ý;
- Chủ thể thực hiện hành vi đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự.
Khác nhau:
Tiêu chí

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài

sản

Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản

Căn cứ pháp lý

Điều 174 BLHS SĐ, BS 2017

Điều 175 BLHS SĐ, BS 2017

Giá trị tài sản bị
chiếm đoạt

Trên 02 triệu đồng

Trên 04 triệu đồng

Dưới 02 triệu đồng, thuộc
các trường hợp:

Dưới 04 triệu đồng, thuộc các
trường hợp:

- Đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản mà còn vi phạm;

- Đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi chiếm đoạt


- Đã bị kết án về tội này
hoặc về một trong các tội
quy định tại các điều 168,
169, 170, 171, 172, 173, 175
và 290 BLHS 2015 chưa
được xóa án tích mà cịn vi
phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã
hội;

- Đã bị kết án về tội này hoặc
về một trong các tội quy định
tại các điều 168, 169, 170,
171, 172, 173, 174 và
290 BLHS 2015, chưa được
xóa án tích mà cịn vi phạm;
- Tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại
hoặc tài sản có giá trị đặc biệt
về mặt tinh thần đối với người
bị hại

- Tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người
bị hại và gia đình họ
Hình thức phạm
tội


Thủ đoạn gian dối chiếm
đoạt tài sản của người khác

Vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng
các hình thức hợp đồng:
- Dùng thủ đoạn gian dối chiếm


đoạt tài sản đó hoặc đến thời
hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố
tình khơng trả;
- Đã sử dụng tài sản đó vào
mục đích bất hợp pháp dẫn
đến khơng có khả năng trả lại
tài sản.

Ý thức khi
chiếm đoạt

Ý định chiếm đoạt nảy sinh
trước, sau đó dùng thủ đoạn
gian dối để thực hiện hành vi
chiếm đoạt

Sau khi có được tài sản người
phạm tội mới nảy sinh ý định
chiếm đoạt


Chủ thể

Bất kỳ ai có hành vi chiếm
đoạt

Những người được giao tài
sản

Đối tượng

Không nhất thiết trên cơ sở
hợp đồng

Trên cơ sở hợp đồng

Hình phạt

Cao hơn

Thấp hơn

- Khung 1: phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm

- Khung 1: phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03

năm

- Khung 2: phạt tù từ 02 đến
07 năm

- Khung 2: phạt tù từ 02 đến 07
năm

- Khung 3: phạt tù từ 07 đến
15 năm

- Khung cao nhất: phạt tù từ
12 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân

Ví dụ

A dùng thủ đoạn gian dối để
lừa B mua 01 laptop với giá
10 triệu đồng nhưng giá trị
thực tế chỉ 5 triệu đồng.

- Khung 3: phạt tù từ 05 năm
đến 12 năm

- Khung cao nhất: phạt tù từ 12
năm đến 20 năm
A mượn laptop của B để xem
phim, sau đó đem đi bán cho
người khác.





×