Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tìm hiểu di tích đình long châu phu ninh phu tho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.23 KB, 32 trang )

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH LONG CHÂU
XÃ VĨNH PHÚ – HUYN PH NINH TNH PH TH

Mục lục
Phần mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài

2.

Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.

3.

Mục đích nghiên cứu

4.

Phơng pháp nghiên cứu..

5.

Bố cục của đề tµi……………………………………………..

CHƯƠNG 1: ĐÌNH LONG CHÂU TRONG KHƠNG GIAN VĂN HĨA
XÃ VĨNH PHÚ
1.1 Tổng quan về xã Vĩnh Phú
1.1.1

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.



1.1.2

Đường đến di tích.

1.2 Lịch sử hình thành của di tích.
1.2.1

Lịch sử các vị thần được thờ.

1.2.2

Lịch sử xây dựng và các lần trùng tu.

CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH ĐÌNH LONG CHÂU
2.1 Giá trị văn hóa vật thể
2.1.1

Giá trị kiến trúc.

2.1.1.1 Bố cục mặt bằng tổng thể
2.1.1.2 Kết cấu kiến trúc
2.1.2

Nghệ thuật trạm trổ.

2.1.3

Hiện vật trong di tích


2.1.3.1 Cổ vật
1


2.1.3.2 Di vật
2.1.3.3 Hiện vật
2.2 Giá trị văn hóa phi vật thể
2.2.1

Lễ hội đình Long Châu

2.3 Giá trị lịch sử, khoa học của di tích
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN
3.1 Thực trạng
3.1.1

Hiện trạng của di tích

3.1.2

Thực trạng cảnh quan xung quanh di tích.

3.1.3

Ý thức của người dân với di tích.

3.2 Giải pháp bảo tồn di tích.
3.3 Khai thác và phát huy giá trị di tích.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đình làng – một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ
lâu đã in vào tâm khảm của mỗi người và xuất hiện nhiều trong các áng thơ
văn. Khi nói đến văn hóa làng – nét văn hóa của nông thôn Việt Nam, chúng
ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh quen thuộc “cây đa, bến nước, sân
đình”. Từ bao đời nay, đình làng đã thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi
người dân Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, nghi lễ và mọi đổi thay
trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Đình làng
trang trọng và thiêng liêng, nó gần như là đại diện, là biểu tượng quyền lực ở
làng xã. Đình làng cũng là nơi tụ họp của mọi người trong các sinh hoạt
cộng đồng. Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung đình
chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa khơng cùng một ý thức văn hóa. Chùa
là nơi thờ Phật, chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo đến từ Ấn Độ và Trung
Hoa. Đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam, là biểu hiện sinh hoạt của
người Việt Nam, là nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của làng, nhất là
về tín ngưỡng, thờ Thành Hồng – người có cơng với dân với nước. Đó là
biểu hiện sự tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, truyền thống uống nước nhớ nguồn
của người Việt. Tất cả những tín ngưỡng, những nghi lễ của đình được các
thế hệ người Việt tiếp nối nhau tạo thành một nền văn hóa đình, một nền văn
hóa hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tơn giáo khiến cho đình trở
thành một tập thể siêu thần, một sức mạnh vơ hình, tạo nên niềm tin, niềm
hy vọng và là nơi che chở về tâm hồn của cộng đồng làng xã Việt Nam.
Nghiên cứu về đình, xác định các mặt giá trị của nó để tìm hiểu văn hóa
truyền thống của người Việt, cung cấp tư liệu khoa học cho công tác bảo tồn
và phát huy giá trị truyền thống của là Việt cổ truyền trong đời sống hiện

đại. Cùng với thời gian, các ngôi đình làng đã bị ảnh hưởng bởi thời tiết,
chiến tranh và bởi bàn tay con người do chưa có nhận thức đúng về giá trị

3


của di tích. Mặc dù vậy, các ngơi đình vẫn tồn tại, vẫn đại diện cho làng quê
Việt Nam và là một nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt.
Phú Thọ vừa là vùng đất cổ, vừa là vùng đất Tổ - cái nơi của nền văn hóa
Lạc Việt, trung tâm sinh tụ của của người Việt thời các vua Hùng dựng nước
Văn Lang. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
quý giá. Tìm hiểu về di tích để thấy được những giá trị tốt đẹp, nắm bắt thực
trạng hiện nay của di tích và đưa ra những giải pháp bảo tồn và phát huy giá
trị của di tích trong giai đoạn hiện nay.
Với lý do trên, em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu di tích đình Long Châu” để
làm bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích
Tìm hiểu vùng đất, con người làng Long Châu nói riêng và vùng đất Phú
Thọ nói chung.
Tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển và các giá trị của di tích đình
Long Châu.
Trên cơ sở thực trạng của đình Long Châu, vận dụng hệ thống lý thuyết
đã học, bước đầu đề xuất một số ý kiến nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của
di tích trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là di tích đình Long Châu tại làng Long
Châu, xã Vĩnh Phú, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu là làng Long Châu, xã Vĩnh Phú, huyện Phù Ninh,
tỉnh Phú Th.
4. Phng phỏp nghiờn cu

Trong quá trình nghiên cứu em đà dùng phơng pháp điền dÃ, khảo sát
thực tế làng nghề, thu thập thông tin, thống kê, điều tra, phỏng vấn, nghiên
cứu các tài liệu liên quan.

4


5. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Bố cục bài
viết gồm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: ĐÌNH LONG CHÂU TRONG KHƠNG GIAN VĂN
HĨA XÃ VĨNH PHÚ
Chương 2: GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH ĐÌNH LONG CHÂU
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN

5


CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH DI TÍCH
1.1 Tổng quan về xã Vĩnh Phú
1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Xã Vĩnh Phú nằm ở phía Đơng Nam của huyện Phù Ninh. Theo số liệu
sách Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Phú năm 2005, tổng diện tích tự nhiên tồn
xã là 417ha, trong đó 62% là đất nơng nghiệp; dân số tồn xã có 3.870
người, 100% là dân tộc Kinh. Nhân dân trong xã đa phần làm sản xuất nơng
nghiệp, khơng có nghề thủ cơng truyền thống, các ngành dịch vụ ít phát
triển.
Di tích đình Long Châu cách trung tâm thành phố Việt Trì 12km về
hướng Đơng Bắc. Du khách đến thăm di tích có thể đi theo các tuyến đường
sau:

- Đường bộ: Du khách đi ngược, xuôi trên quốc lộ 2, đến ngã ba Gia
Cẩm rẽ ra đường Trần Phú lên đê hữu sông Lô rẽ trái đi khoảng 7km thì rẽ
trái tiếp đi khoảng 2km là tới di tích;
- Đường sắt: Khách đi tàu chuyến Hà Nội - Lao Cai, xuống ga Việt
Trì, đi đến ngã ba Gia Cẩm rồi theo chỉ dẫn đường bộ là tới di tích;
- Đường thủy: Du khách đi trên sơng Lơ đến địa phận thơn Long
Châu, xã Vĩnh Phú thì lên bờ đi khoảng 1km là tới di tích.
1.1.2 Con người và vùng đất.
Xã Vĩnh Phú xưa có tên gọi là kẻ Chanh, cận kề cùng một dải sông Lô
với kẻ Xốm (Hùng Lơ), kẻ Nổi (Phượng Lâu). Đó là vùng đất có phong cảnh
trên bến dưới thuyền, người dân cần cù, khéo léo, siêng lao động và có đời
sống tinh thần khá phong phú. Trong làng ngoài những cánh đồng lúa, ngơ
xanh tốt bên sơng, cịn có những sản vật có tiếng trong vùng như: cua đồng
Đã, cầu Thánh; hến ngòi Chanh; chai chai, rùa Hủng Vàu, Đồng Bún,….ở
đây, trước cách mạng tháng Tám có gánh hát chèo, sau mùa vụ lại đi biểu
diễn phục vụ nhân dân trong và ngồi xã. Cùng với trồng trọt, chăn ni,
người kẻ Chanh trước đây cịn có một số nghề thủ cơng như: làm nón lá, đan
6


lát, nghề mộc, nghề xây, nghề sơn,… với quy mô nhỏ chủ yếu đáp ứng nhu
cầu tự cung tự cấp trong vùng.
Làng Long Châu, xã Vĩnh Phú nằm phía ngồi đê hữu sông Lô. Làng
trước đây vốn là roi đất được bồi tụ lâu năm nằm giữa sông Lô, gọi là soi
Rạng. Người dân Yên Lập (thuộc xã Tứ Yên - huyện Lập Thạch) cùng ra
khai phá trồng trọt rồi định cư, lập làng luôn tại đây. Do tách ra từ làng Yên
Lập, nên khi lập đình, dân làng ở đây thờ thần núi Tản Viên và vua Lý Nam
Đế giống như đình làng Yên Lập.
1.1.3 Lịch sử thay đổi địa giới và tên gọi
Qua thời gian, xã Vĩnh Phú đã có sự thay đổi địa giới hành chính như

sau:
- Thời Hùng Vương, xã Vĩnh Phú thuộc trại Nhượng Bộ - bộ Văn
Lang.
- Thời thuộc Hán (Năm 207 TCN - 39 SCN) xã Vĩnh Phú nằm trong
quận Giao Chỉ.
- Thế kỷ III - V, thời Tam quốc - lưỡng Tấn, Vĩnh Phú thuộc huyện
Gia Ninh, quận Tân Xương.
- TK VI - X, thời Tùy, Đường, Vĩnh Phú thuộc huyện Gia Ninh,
huyện Phong Châu, quận Thừa Hóa.
- Thời nhà Trần, TK XIII - XIV, xã Vĩnh Phú thuộc huyện Phù Ninh,
châu Tam Đới, lộ Đông Đô.
- TK XV, Vĩnh Phú thuộc huyện Phù Ninh, phủ Tam Đới, trấn Sơn
Tây.
- TK XVI, huyện Phù Ninh đổi tên là Phù Khang, xã Vĩnh Phú thuộc
huyện Phù Khang, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây.
- Đến thời Nguyễn, TK XIX, huyện Phù Khang đổi lại thành Phù
Ninh. Ngày 8/9/1891, tỉnh Hưng Hóa được thành lập, Vĩnh Phú thuộc huyện
Phù Ninh, phủ Lâm Thao, tỉnh Hưng Hóa.

7


- Năm 1900, huyện Hạc Trì ra đời, Vĩnh Phú thuộc tổng Phượng Lâu,
huyện Hạc Trì, tỉnh Hưng Hóa.
- Năm 1903, tỉnh Hưng Hóa đổi tên thành tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phú
thuộc huyện Hạc Trì, tỉnh Phú Thọ.
- Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính phủ ta xóa bỏ cấp tổng
thành lập các xã, Vĩnh Phú được gọi là xã Nhượng Bộ, huyện Hạc Trì, tỉnh
Phú Thọ.
- Năm 1947, xã Nhượng Bộ sát nhập với xã Kim Đức và thôn An Lão

thành xã Hùng Lô.
- Năm 1954, xã Hùng Lô tách ra làm 3 xã, làng Nhượng Bộ hợp với
thôn Long Châu (Của xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch) thành xã Vĩnh Phú.
- Năm 1960, huyện Hạc Trì giải thể, xã Vĩnh Phú thuộc huyện Phù
Ninh, tỉnh Phú Thọ.
- Năm 1968, hai tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ sát nhập thành tỉnh Vĩnh
Phú, thì xã Vĩnh Phú thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Vĩnh Phú.
- Năm 1977, hai huyện Phù Ninh và Lâm Thao sát nhập thành huyện
Phong Châu, xã Vĩnh Phú thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.
- Năm 1997, tỉnh Vĩnh Phú tách thành hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc,
xã Vĩnh Phú thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.
- Năm 1999 huyện Phong Châu tách thành huyện Lâm Thao và huyện
Phù Ninh, xã Vĩnh Phú thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Từ đó tới nay, đình Long Châu thuộc thôn Long Châu, xã Vĩnh Phú,
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
1.2 Lịch sử hình thành của di tích
1.2.1 Lịch sử vị thần được thờ
Đình Long Châu, thơn Long Châu, xã Vĩnh Phú, huyện Phù Ninh thờ
Tản Viên Sơn thánh, vua Lý Nam Đế, thân mẫu của Lý Nam Đế và Triệu
Quang Phục. Hành trạng về vị thần được thờ ở di tích như sau:

8


- Hành trạng về Tản Viên Sơn Thánh: Thời vua Hùng thứ 18 ở xứ Sơn
Tây, châu Gia Hưng, động Lăng Xuyên có núi cao chót vót, đất phẳng, nước
xanh. Cảnh đất trời đẹp như tranh vẽ, có chim kêu vượn hót, mây mù sương
toả hồ nước lung linh, cảnh đẹp như khơng vướng bụi trần. Ở động Lăng
Sương có trưởng ông Nguyễn Cao, húy là Hành ở tuổi đã 70, vợ là Đinh Thị
Đen tuổi 50 sinh sống ở đây, tu nhân tích đức mà vẫn chưa có con. Một hơm

bà ra giếng gánh nước thấy có rồng vàng xuất hiện báo điềm lành, thời gian
sau bà mang thai, đủ 15 tháng thì sinh hạ một người con trai, tướng mạo
khôi ngô đặt tên là Tuấn. Năm Tuấn lên 6 tuổi thì ơng Cao Hành mất. Hai
mẹ con sang ở nhờ xóm Gốc bên núi Tản kết bạn với bà Ma Thị, 3 năm sau
lại trở về quê cũ ở động Lăng Sương, đổi tên con là Nguyễn Tùng. Năm
Tùng 12 tuổi theo bạn tìm thầy học, vốn thơng minh sáng dạ Tùng học
nhanh, hiểu rộng, tài giỏi có tiếng trong vùng. Hàng ngày, ngoài đi học,
Tùng phụ mẹ kiếm củi, đốt than, làm kế sinh nhai. Một hôm Tùng lên núi
đẵn được một cây gỗ to, dài rồi về động báo người lên khiêng. Nhưng đến
nơi thấy cây gỗ đó lại xanh tươi như cũ .Tùng thấy lạ lại đẵn một lần nữa,
sau đó giả cách ra về, rồi phục ln ở đó. Đến đêm thấy một ơng già mình
cao một trượng, mày râu trắng muốt, đầu đội mũ hoa, mình mặc áo gấm,
lưng thắt đai ngọc, chân đi nhẹ nhàng như bước trên mây, tay cầm gậy trúc,
lúc đi, lúc dừng lại, theo sau là một bà cầm cái lệnh bằng vàng và đánh liền
ba hồi. Ông già mồm niệm thần chú, rồi cầm gậy chỉ. Chợt thấy một trận
cuồng phong trời đất mịt mù, như có phép thần biến hoá làm đảo lộn trời
đất. Cây cối đẵn dựng lên sống lại, Tùng chạy lại kính cẩn vái chào rồi xin
được theo học. Ông già đồng ý nhận Tùng làm đệ tử, truyền dạy văn võ và
nghề làm thuốc cứu người. Thời gian sau, mệnh trần hết, thầy trị chia tay,
ơng già lấy linh trượng và thần trúc cho Tùng và dặn: “Chỉ đầu trên thì
người sống, chỉ đầu dưới thì trừ ác hại, chỉ đất thì đất nứt, chỉ xuống nước
thì nước cạn, phép rất linh nghiệm huyền diệu, chỉ lên trời thi mây bay, mù
tan chiếu thấu đến tận cửu trùng, phải cẩn thận không được coi thường”,
9


xong rồi biến mất. Tùng trở về quê động Lăng Sương lấy hiệu là Thần sư,
chuyên làm thuốc chữa bênh cứu người.
Một hôm, trên đường đi hái thuốc về, Tùng gặp một con rắn màu sắc kỳ
lạ, trên đầu có hai chữ "Thuỷ cung" bị trẻ mục đồng đánh chết. Chàng liền

lấy linh trượng chỉ vào con rắn, miệng niệm thần chú cứu nó sống lại. Rắn
biến thành người tự xưng là con vua Thủy tề, ham chơi bị trẻ chăn trâu bắt
được, xin được mời ân sư xuống thủy cung để vua cha cảm tạ. Nguyễn Tùng
theo rắn xuống thủy cung và được tặng quyển sách ước. Từ đó, Nguyễn
Tùng đi khắp nơi làm việc thiện, chàng có tài ngăn sông, dời núi, dạy dân
làm ăn, sinh sống, làm nhà tránh thú dữ,… chàng được nhân dân suy tôn là
thần núi Sơn Tinh - ngự tại núi Tản Viên.
Ngày ấy khi vận Triều Hùng ý trời muốn hết, Hùng Duệ Vương sinh
được 20 người con trai, mất hết chẳng còn ai, chỉ còn lại hai người con gái là
Tiên Dung và Ngọc Hoa. Tiên Dung đã lấy Chử Đồng Tử, quê quán ở đạo
Sơn Nam, phủ Khoái Châu, huyện Đơng Quan, xã Đa Hồ. Cịn Ngọc Hoa
thì lương dun chưa định vì vua muốn tìm người tài để gả rể và nối ngôi
Thiên Tử. Bèn sai dựng lầu kén rể ở cửa thành Việt Trì. Sơn Tinh và Thuỷ
Tinh (vị thần sơng nước) nghe tin cùng tìm đến ứng chiếu thi tài. Thuỷ Tinh
ra oai, một vùng rộng lớn đất trời mù mịt, sấm rung bão chớp, nước ngập
khắp nơi; Sơn Tinh trổ tài bỗng chốc trời quang mây tạnh, núi đội, đất bằng.
Hai người ngang tài, ngang sức, sau Sơn Tinh dành phần thắng trở thành con
rể vua Hùng. Thủy Tinh không chịu vẫn muốn cướp Ngọc Hoa nên hàng
năm vẫn làm bão, dâng sông gây ngập lụt khắp vùng.
Sơn Tinh lấy Ngọc Hoa, được vua Hùng truyền ngôi, cháu vua Hùng là
Thục Phán - bộ chủ Ai Lao không phục liền khởi binh đánh. Tản Viên cầm
quân dẹp Thục, dành thắng lợi liên tiếp, thu non sông về một mối. Sau lại
nói với vua Hùng truyền ngơi cho Thục Phán rồi cùng vợ là Ngọc Hoa về
núi Tản hưởng cuộc sống thanh nhàn.

10


Vua Thục nhận ngôi truyền, cảm công đức ấy, bèn đi xa giá xuống núi
Nghĩa Lĩnh dựng cột đá thề, xây miếu điện nguyện cúng tế muôn đời.

Tản Viên Sơn Thánh được tôn là “Đệ nhất đẳng thần” - vị thần núi đứng
đầu trong các vị “Tứ bất tử” của điện thờ thần Việt Nam, được thờ phổ biến
tại vùng núi và trung du phía Bắc.
- Hành trạng về Lý Nam Đế: Lý Nam Đế là vị hoàng đế sáng lập nhà
Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Ơng tên
thật là Lý Bí, cịn gọi là Lý Bơn, người làng Thái Bình, phủ Long Hưng,
Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thành phố Sơn Tây, Hà Nội). Lý Nam Đế
có tài văn võ. Ơng đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô
hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xn, đóng đơ
ở Long Biên.
Nhiều sách sử nói rằng tổ tiên của Lý Nam Đế là người Trung Quốc, vào
cuối thời Tây Hán thì tránh sang ở Việt Nam để trốn nạn binh đao. Qua 10
đời, đến đời Lý Bí thì dịng họ Lý đã ở Việt Nam được hơn 5 thể kỷ. Chính
sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là "Giao Châu thổ nhân". Cha Lý Bí là Lý
Toản, trưởng bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oánh người Ái Châu (Thanh Hoá) sinh ra
Lý Thiên Bảo và Lý Bí.
Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Từ nhỏ, Lý Bí đã
tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất;
7 tuổi thì mẹ qua đời. Ông đến ở với chú ruột. Một hơm, có một vị Pháp tổ
thiền sư đi ngang qua, trơng thấy Lý Bí khơi ngơ, tuấn tú liền xin Lý Bí đem
về chùa ni dạy. Sau hơn 10 năm rèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư
gia công chỉ bảo nên Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh
kịp. Nhờ có tài văn võ kiêm tồn, Lý Bí được tơn lên làm thủ lĩnh địa
phương.

11


Lý Bí đã từng ra làm quan cho nhà Lương, nhưng do bất bình với các
quan lại đơ hộ tàn ác, nên ông bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại

chính quyền đơ hộ. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương) là Triệu Túc cùng
con là Triệu Quang Phục phục tài đức của ông nên đã đem quân nhập với
đạo quân của ông.
Năm 541, thứ sử Giao Châu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng người.
Lúc ấy lại có giặc Lâm Ấp quấy phá ở phía Nam. Nhân dân Giao Châu rất
khổ cực. Lý Nam Đế làm quan cho chính quyền đơ hộ nhưng khơng hài
lịng, nên bỏ về quê, chiêu mộ nghĩa quân. Tinh Thiều, một người giỏi từ
chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng chỉ
cho chức "gác cổng thành", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Nam Đế. Lúc bấy
giờ ông làm chức giám quân ở châu Cửu Đức (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
ngày nay), liên kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Triệu Túc, tù
trưởng ở Chu Diên (có lẽ là Phả Lại, tỉnh Hải Dương ngày nay), phục tài đức
của Lý Nam Đế, nên đã dẫn quân theo. Quân của Lý Nam Đế đánh Tiêu Tư
thua chạy về Quảng Châu và chiếm lấy Long Biên. Tháng 12 năm 542, vua
Lương sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng sang đàn áp. Thứ sử Quảng Châu là
Hốn (theo Trần thư là Tiêu Ánh) khơng cho, Tiêu Tư cũng thúc giục. Tử
Hùng đi đến Hợp Phố, 10 phần chết đến 6-7 phần, quân tan rã. Năm 543,
tháng 4, vua Lâm Ấp xâm chiếm quận Nhật Nam, Lý Nam Đế sai Phạm Tu
đánh tan địch ở Cửu Đức. Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt
Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức (đức trời), lập trăm quan, đặt tên
nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn rằng xã tắc truyền đến mn đời.
Đóng đơ ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội). Dựng điện Vạn
Thọ làm nơi triều hội. Thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu
Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ.
Năm 545, nhà Lương cho Dương Thiệu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá
Tiên làm tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội
12


với bọn Thiêu ở Giang Tây. Trần Bá Tiên đem quân đi trước. Khi quân của

Bá Tiên đến Giao Châu, Lý Nam Đế đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở
Chu Diên, lại thua ở cửa sông Tô Lịch, tướng Tinh Thiều tử trận. Ông chạy
về thành Gia Ninh (xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay).
Quân Lương đuổi theo vây đánh.
Tháng giêng năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh,
tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương.
Qn Lương đóng ở cửa sơng Gia Ninh. Tháng 8, ông đem 2 vạn quân từ
trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc), đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng
lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng
cao 7 thước, tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến trước
vào. Quân Vạn Xn khơng phịng bị, vì thế tan vỡ, phải lui giữ ở trong
động Khuất Lão, ông ủy cho con thái phó Triệu Túc là tả tướng là Triệu
Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.
Năm 548, ngày 20 (ngày Tân Hợi) tháng 3, Lý Nam Đế ở động Khuất
Lão lâu ngày bị nhiễm lam chướng, ốm qua đời. Ơng ở ngơi được 5 năm
(544-548), thọ 46 tuổi.
Quan sử Lê Văn Hưu nói: Binh pháp có câu: "Ba vạn quân đều sức, thiên
hạ không ai địch nổi". Nay Lý Bí có 5 vạn qn mà khơng giữ được nước,
thế thì Bí kém tài làm tướng chăng? Hay là qn lính mới họp khơng thể
đánh được chăng? Lý Bí cũng là bậc tướng trung tài, ra trận chế ngự quân
địch giành phần thắng không phải là không làm được, nhưng bị hai lần thua
rồi chết, bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh vậy.
Sử thần Ngơ Sĩ Liên nói: Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ bạo, đáng là
thuận đạo trời, thế mà cuối cùng đến nỗi bại vong, là vì trời chưa muốn cho

13


nước ta được bình trị chăng? Than ơi! Khơng chỉ vì gặp phải Bá Tiên là kẻ

giỏi dùng binh, mà cịn gặp lúc nước sơng đột ngột dâng lên trợ thế cho giặc,
há chẳng phải cũng do trời hay sao?
- Hành trạng về Triệu Việt Vương: Triệu Việt Vương tên thật là Triệu
Quang Phục, là con Triệu Túc, người huyện Chu Diên, uy tráng dũng liệt,
theo Lý Nam Đế đi đánh dẹp có cơng, được trao chức tả tướng qn.
Năm 546, sau khi Lý Nam Đế phải lui về động Khuất Lão, đã ủy thác cho
ông giữ việc nước, điều quân đi đánh Trần Bá Tiên của nhà Lương. Năm
547, tháng giêng, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trị, huyện Khối
Châu, tỉnh Hưng n). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở
giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ
có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể
vào được. Nếu khơng quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi
xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại,
đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ơng dùng chiến thuật
du kích, ban ngày tuyệt khơng để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng
thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp hết
lương thực vũ khí, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế
cầm cự lâu dài. Bá Tiên không đánh được. Người trong nước gọi ông là Dạ
Trạch Vương. Bãi ấy gọi là "bãi Tự Nhiên", đầm ấy là "đầm Nhất Dạ", ngày
nay vẫn còn tên gọi cũ.
Năm 550, Trần Bá Tiên mưu tính cầm cự lâu ngày để làm cho quân của
ơng lương hết, qn mệt mỏi thì có thể phá được. Gặp lúc nhà Lương có
loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về, ủy cho tì tướng là Dương Sàn ở lại.
Ông tung quân ra đánh. Sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy
về Bắc. Ông vào thành Long Biên ở.

14


Anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo, ở đất của người Di Lạo, xưng là

Đào Lang Vương, lập nước gọi là nước Dã Năng. Trước đó, khi Lý Nam Đế
tránh ở động Khuất Lão, Thiên Bảo cùng với tướng người trong họ là Lý
Phật Tử đem 3 vạn người vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi theo đánh, Lý
Thiên Bảo thua, thu nhặt qn cịn sót được vạn người chạy sang đất người
Di Lạo ở Ai Lao, thấy động Dã Năng ở đầu nguồn Đào Giang, đất phẳng
rộng màu mỡ có thể ở được, mới đắp thành để ở, nhân tên đất ấy mà đặt
quốc hiệu. Đến bây giờ quân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang Vương.
Năm 555, Đào Lang Vương mất ở nước Dã Năng, khơng có con nối, qn
chúng suy tơn Lý Phật Tử lên nối ngôi, thống lĩnh quân chúng. Năm 557, Lý
Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với quân của Triệu Việt
Vương ở huyện Thái Bình, năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại, mà quân
của Lý Phật Tử ln thua, ngờ là ơng có thuật lạ, bèn xin giảng hịa. Ơng
nghĩ rằng Lý Phật Tử là người trong họ của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt,
bèn chia địa giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã Thượng Cát, Hạ Cát ở
huyện Từ Liêm, Hà Nội) cho ở phía tây của nước, Lý Phật Tử dời đến thành
Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm, xã ấy nay có đền thờ thần Bát
Lang, tức là đền thờ Nhã Lang). Lý Phật Tử có con trai là Nhã Lang, xin lấy
con gái của ông là Cảo Nương. Ơng bằng lịng, kết thành thơng gia. Ơng u
q Cảo Nương, cho Nhã Lang ở gửi rể. Triệu Quang Phục quá tin vào sức
mạnh quân sự của mình, mất cảnh giác nên đã bị suy yếu đáng kể. Nhã Lang
ở rể, thực chất là để hoạt động gián điệp nên nội tình của Triệu Việt Vương
đã bị Lý Phật Tử nắm rõ. Năm 571, Lý Phật Tử phụ lời thề, đem qn đánh.
Ơng yếu thế khơng thể chống được, bèn đem con gái chạy về phía nam, tìm
nơi đất hiểm để ẩn náu, nhưng đến đâu cũng bị quân của Lý Phật Tử đuổi
theo sát gót. Ơng cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha, bị nước chắn, than
rằng: "Ta hết đường rồi!", bèn nhảy xuống biển. Họ Triệu mất nước.
Truyền thuyết có nói rằng nguyên nhân được thua của ơng là do được và
mất mũ đầu mâu móng rồng. Năm 549, ông ở trong đầm thấy quân Lương
15



không lui, mới đốt hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với trời đất thần kỳ,
thế rồi có điềm lành được mũ đầu mâu móng rồng dùng để đánh giặc. Từ đó
qn thanh lừng lẫy, đến đâu khơng ai địch nổi (tục truyền rằng thần nhân
trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên trời xuống, rút
móng rồng trao cho ơng, bảo gài lên mũ đầu mâu mà đánh giặc). Năm 557,
con gái của Triệu Quang Phục lấy con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang.
Năm 570, Nhã Lang nói với vợ rằng: "Trước hai vua cha chúng ta cừu thù
với nhau, nay là thông gia, chẳng cũng hay lắm ư? Nhưng cha nàng có thuật
gì mà có thể làm lui được qn của cha tơi?". Cảo Nương khơng biết ý của
chồng, bí mật lấy mũ đâu mâu móng rồng cho xem. Nhã Lang mưu ngầm
tráo đổi cái móng ấy, rồi bảo riêng với Cảo Nương rằng: "Tôi nghĩ ơn sâu
của cha mẹ nặng bằng trời đất, vợ chồng ta hòa nhã yêu quý nhau khơng nỡ
xa cách, nhưng tơi phải tạm dứt tình, về thăm cha mẹ". Nhã Lang về, cùng
với cha bàn mưu đánh úp, chiếm được nước.
Ngơ Sĩ Liên nói: Đàn bà gọi việc lấy chồng là "quy" thì nhà chồng tức là
nhà mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao khơng cho về nhà chồng
mà lại theo tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến nỗi bại vong?
Người đời sau cảm động trước công đức các vị thần và các đấng tiên
vương nên lập đền thờ phụng. Tản Viên Sơn thánh được phụng thờ phổ biến
ở vùng núi trung du; Lý Nam Đế và thân mẫu của ngài được nhân dân quanh
vùng hồ Điển Triệt và một số nơi khác thờ tự; Triệu Việt Vương - Triệu
Quang Phục cũng được nhân dân nhiều nơi ở vùng Vĩnh Phú cũ, vùng đầm
Dạ Trạch, bãi Tự Nhiên. Lý Nam Đế và Triệu Việt vương là những vị nhân
thần có thực trong chính sử Việt Nam, là những người sáng lập ra triều Lý,
định nên nhà nước Vạn Xuân vào năm 544.
1.2.2 Lịch sử xây dựng và những lần trùng tu:
Lịch sử xây dựng và những lần trùng tu của đình Long Châu khơng được
ghi lại ở di tích và trên thư tịch. Dựa vào các di vật, cổ vật, các bức chạm
trang trí và lời kể của những người cao tuổi tại địa phương, chúng ta có thể

16


xác định được niên đại xây dựng tương đối của đình Long Châu là vào
khoảng đầu thế kỷ XIX. Ban đầu, đình được làm tồn bộ từ gỗ theo kiến trúc
chữ đinh như ngày nay nhưng có các gian dĩ tạo các góc mái cong cho đình.
Mái đình trên lợp ngói âm dương, dưới làm ván lát sàn, chân cột kê trên đá
tảng, bốn bề để thơng khơng bít tường làm cửa chỉ lát nền và bưng ván
thượng cung. Qua thời gian, nhiều hạng mục bị xuống cấp, nên đình đã
nhiều lần được tu sửa nhỏ. Lần tu sửa lớn gần nhất là vào năm 1992, hệ
thống cột, xà được thay mới, bỏ các gian dĩ xây tường bao quanh, ván lát sàn
bị dỡ bỏ, nền đình được nâng cao, lát sân và làm tường rào như ngày nay.

17


CHƯƠNG 2:GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH ĐÌNH LONG CHÂU
2.1 GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ
2.1.1 Giá trị kiến trúc
2.1.1.1 Bố cục mặt bằng tổng thể
Đình Long Châu có bố cục mặt bằng hình chữ Đinh ( ), gồm đại bái 3
gian, dài 10m, rộng 7m; hậu cung 2 gian dài 8m, rộng 6,5m, tổng diện tích
đình là 122m2. Phần mái đình Long Châu gồm 2 lớp, lớp dưới là ngói lót,
cịn gọi là ngói âm, lớp trên nửa phía gần bờ nóc là ngói dương làm theo
kiểu vảy cá, nửa dưới gần tàu mái là ngói bị. Đó là dấu ấn của một trong số
những lần tu sửa của đình.
2.1.1.2 Kết cấu kiến trúc
Gian giữa và hai gian bên của đình Long Châu được lắp cửa, loại cửa bức
bàn 4 cánh, có phần ngõng đứng trên cối cửa để tránh xê dịch. Các xà
ngưỡng khá cao: 0,30m. Hai đầu đốc dùng gạch xây kín. Ngơi đình có chiều

cao từ nền tới xà nóc (thượng lương) là 5m. Tồn bộ các cột được kê trên
chân tảng, nền đình lát gạch bát sạch sẽ. Các gian của đình có kích thước
khác nhau: Gian giữa rộng 3,40m, hai gian bên rộng 3,3m. Bộ khung gỗ kết
cấu 4 hàng chân cột, với tổng 16 cột; cột cái cao 4m, đường kính 0,26m; cột
quân cao 3m, đường kính 0,18m. Các cột cịn dấu vết lỗ đục để tra mố dầm
sàn. Hệ thống cột, xà ngang, dọc ăn mộng với nhau chặt chẽ, tạo thành một
hệ thống nâng đỡ chắc chắn giúp cho đình ln vững chãi. Hai bộ vì nóc
gian giữa được làm theo kiểu chồng bồn giá chiêng, trên cùng là một rường
con cung tỳ lực trên hai đầu cột trốn và gồng lưng đội thượng lương, hai đầu
đội đơi hồnh thứ nhất; từ trên thân của cột trốn một con rường cụt ăn mộng
vào cột rồi chạy ra đỡ đơi hồnh thứ hai; ở dưới thân cột là một con rường
cụt khác đỡ đơi hồnh thứ ba; tất cả tỳ trên bụng câu đầu. Các bức vì nách

18


kết cấu kiểu “Chồng rường - cột trốn”. Phía trong của các đầu cột cái, nơi
đội bụng câu đầu đều có các đầu dư chạm rồng. Hầu như tất cả các cấu kiện
gỗ trên bộ khung đình: Rường, kẻ, dép hoành, đầu dư, đầu nghé, con kê...
đều được chạm khắc, tạo hình, cách điệu đẹp mắt.
Hậu cung đình gồm 2 gian được nâng hẳn lên cách mặt đất 2,2m thành
gác lửng trang trọng, tạo thượng cung. Mặt trước hai trụ đỡ thượng cung ghi
đơi câu đối cổ:
“Hữu sinh tâm tích tồn thư tịch
Bất tử tinh thần tại Tản Sơn”
Nghĩa là:
“ Đất có người tài chí cịn lưu sách cổ
Trời sinh Thánh lớn mãi trường tồn tại Tản Sơn”
Thượng cung chia làm 2 phần. Phía ngồi bài trí các đồ thờ: Bát hương,
ống hoa, đài nến, đài nước....; phía trong là khám thờ (kích thước: rộng

2,8m, dài 3,78m), là nơi thờ thành hoàng, vừa cách biệt thần với người, song
lại vừa gần gũi, gắn bó tổ tiên với con cháu. Cửa khám làm theo kiểu cửa
bức bàn, gồm 3 ô, ô giữa 2 cánh, hai bên mỗi bên 1 cánh. Cánh cửa cao
1,5m, rộng 0,47m. Trên mỗi cánh cửa lại được chia ra thành từng ô to, nhỏ
khác nhau và vẽ sơn thếp vàng trang trí các hình “Long, ly, quy, phượng”.
Nhìn chung, đình Long Châu có qui mơ kiến trúc vừa phải, tuy đã trải
qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ được nhiều yếu tố truyền thống của một
ngôi đình thuần Việt.
2.1.2 Nghệ thuật chạm trổ:
Phần kiến trúc gỗ của đình Long Châu được chạm trổ, trang trí các mảng
chạm khắc tỷ mỷ, công phu với kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, đục bong,

19


chạm thủng, thể hiện các đề tài chủ đạo: rồng, tứ linh... Tiêu biểu có các bức
chạm sau:
- Chạm trang trí trên cốn nách hậu cung: 2 bức cốn nách ở hậu cung
có hình tam giác vng, kích thước: 1,60m x 1,4m x 1,20m, được sử dụng
kỹ thuật chạm nổi rất điêu luyện và tiêu biểu của phong cách nghệ thuật
chạm trổ thời Nguyễn, thế kỷ XIX, thể hiện hình ảnh một con rồng lớn với
đầy đủ thân mình uốn lượn trong mây, đầu ngẩng cao ở góc trên của cốn,
hướng vào thượng cung, đi xịe hoa xoắn tít ở góc dưới cốn, xung quanh
thân rồng là đao mác, mây cụm kín hết bề mặt cốn.
+ Chạm xà rồng: Bức chạm trang trí trên xà ngang đỡ khám thờ (kích
thước: 2,8m x 0,30m), thể hiện đề tài: “Lưỡng long chầu nhật” bằng kỹ thuật
và nghệ thuật chạm nổi thời Nguyễn thế kỷ XIX, với những đường nét sắc
gọn, phóng khống. Chính giữa bức chạm là hình trịn lồi mặt gương, xung
quanh có các tia đao lửa toả ra. Hai hình rồng miệng phun lửa chầu vào mặt
trời. Rồng được chạm trong tư thế nhìn ngiêng, trơng dữ tợn mà mềm mại,

uyển chuyển, uốn lượn lẩn khuất trong mây, mình thanh thốt, có vảy, bờm
tóc cong toả ra phía sau, đi xịe hoa, chân rồng 4 móng sắc nhọn, quắp vào
các hình mây cụm.
Ngồi ra, hầu như tất cả các phần cấu kiện gỗ trên bộ khung đình:
Rường, dép hồnh, con kê, đầu nghé...đều được chạm khắc, trang trí các
hình rồng cách điệu, vân mây, hoa lá, mây cụm... với kỹ thuật chạm nổi,
nhiều kiểu thức khác nhau phù hợp với từng chi tiết ở từng vị trí trên kết cấu
kiến trúc, thực sự là những tác phẩm điêu khắc có giá trị.
2.1.3 Hiện vật trong di tích
2.1.3.1 Cổ vật:
- Cổ vật chất liệu gốm sứ:
+ Nậm rượu: 01 nậm có chất liệu gốm sứ, kích thước cao: 0.17m,
đường kính miệng: 0.03m, đường kính đáy: 0.09m. Nậm có niên đại vào

20



×