Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

KHUNG NGHIÊN CỨU Đ Ề XU Ấ T V Ề CÁC NHÂN T Ố Ả NH HƯ Ở NG Đ Ế N CH Ấ T LƯ Ợ NG THÔNG TIN CÔNG B Ố TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH C Ủ A CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG M Ạ I C Ổ PH Ầ N VI Ệ T NAM PROPOSED RESEARCH FRAMEWORK ON FACTORS AFFECTING THE QUALITY OF INFORMATION DIS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.59 KB, 11 trang )

Khung nghiên cứu đề xuất về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin công
bố trên báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Proposed research framework on factors affecting the quality of information
disclosed in the financial statements for joint stock commercial banks in Vietnam
TS. Nguyễn Thị Phương Hồng
Khoa Kế toán - Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Mục đích của nghiên cứu này là đề xuất khung nghiên cứu về các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng thông tin cơng bố trên báo cáo tài chính của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam. Tác giả đã dựa trên các lý thuyết nền tảng có liên quan như lý
thuyết ủy nhiệm, lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, lý thuyết chi phí chính trị, lý thuyết thơng
tin hữu ích và lý thuyết tín hiệu để thực hiện mục tiêu nêu trên. Theo lý giải của các lý
thuyết nền tảng này, tác giả đã đề xuất khung nghiên cứu trong đó có 6 nhân tố ảnh hưởng
đến đến chất lượng thơng tin cơng bố trên báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại
cổ phần Việt Nam và kết quả nghiên cứu về khung nghiên cứu này sẽ hữu ích đối với các
nhà nghiên cứu quan tâm đến các chủ đề có liên quan.
Từ khóa: Chất lượng báo cáo tài chính, Ngân hàng thương mại, Báo cáo tài chính.
Abstract
The purpose of this study is to propose a research framework on factors affecting the
quality of information disclosed in the financial statements of joint stock commercial banks
in Vietnam. The author has based on relevant fundamental theories such as agency theory,
resource dependence theory, political cost theory, decision usefulness theory and signaling
theory to realize the stated goal above. According to the explanation of these fundamental
theories, the author has proposed a research framework in which there are 6 factors
affecting the quality of information disclosed in the financial statements of Vietnamese
joint stock commercial banks. and this research results will be useful to researchers
interested in related topics.


Keywords: Quality of Financial Reporting, Commercial Bank, Financial Statements.
JEL: M40, M49, E44
Lý thuyết ủy nhiệm


Lý thuyết ủy nhiệm do Ross (1973) đề xuất đầu tiên, sau này được Jensen & Meckling
(1976) phát triển thêm. Nội dung của lý thuyết này đề cập đến mối quan hệ giữa bên ủy
nhiệm (principal) và bên được ủy nhiệm (agent) thông qua hợp đồng. Trong đó, bên được
ủy nhiệm sẽ thực hiện một số công việc đại diện cho bên ủy nhiệm, bao gồm việc ủy thác
một mức độ thẩm quyền ra quyết định cho bên được ủy nhiệm.
Lý thuyết ủy nhiệm cho rằng cả hai bên (bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm) đều muốn
tối đa hóa lợi ích của mình. Thơng thường, bên được ủy nhiệm (đại diện) được mong đợi
sẽ hành xử theo hướng mang lại lợi ích lớn nhất cho bên ủy nhiệm nhưng bản thân những
người được ủy nhiệm cũng theo đuổi những lợi ích riêng. Chính vì vậy trong mối quan hệ
này luôn tồn tại những mâu thuẫn và điều này làm phát sinh một khoản chi phí đại diện
(agency cost), được phân thành hai loại: chi phí đầu tư vào hệ thống kiểm sốt cần thiết để
giảm thiểu việc thiếu thông tin của bên ủy quyền và chi phí giảm thiểu rủi ro thơng tin qua
việc chia sẻ rủi ro với đại lí nhờ những biện pháp kích thích dựa trên kết quả đầu ra.
Mối quan hệ ủy nhiệm xuất hiện rõ trong hai trường hợp quan trọng là giữa cổ đơng với
nhà quản lí doanh nghiệp là người trực tiếp điều hành các hoạt động của công ty và giữa
chủ nợ với các cổ đông của công ty.
Thứ nhất, trong mối quan hệ giữa cổ đông và Ban giám đốc công ty, cổ đông bổ nhiệm các
nhà quản lí đại diện họ trực tiếp điều hành cơng ty với mong muốn các nhà quản lí sẽ làm
gia tăng giá trị công ty và tối đa hóa lợi ích cho cổ đơng. Tuy nhiên, thực tế thì Ban điều
hành đơi khi lại hướng đến lợi ích riêng của mình mà điều đó lại làm ảnh hưởng đến mục
đích của cổ đơng. Chẳng hạn, cổ đơng muốn kết quả kinh doanh tốt kéo dài trong tương lai
là do họ muốn hướng đến tính bền vững. Ngược lại, Ban giám đốc quan tâm đến lợi nhuận
trong thời gian họ điều hành. Do đó, họ có thể thực hiện cắt giảm các khoản chi phí cần


thiết cho sự phát triển lâu dài của công ty. Điều này dẫn đến công ty phải bỏ ra một khoản
chi phí lớn gấp nhiều lần để bù đắp những tổn thất do việc đó gây ra. Thêm vào đó việc
các cổ đơng thường đánh giá các nhà quản lí thơng qua các thơng tin tài chính của cơng ty
như doanh thu, lợi nhuận cũng là một tác nhân khiến các nhà quản lí tác động lên BCTC
để thực hiện mục đích cá nhân của mình. Chính vì vậy, các cổ đông phải xây dựng các chế

độ đãi ngộ (compensation mechanisms) và thiết lập cơ chế giám sát (supervisory
mechanisms) để hạn chế hành vi hạn chế các hành vi tư lợi của các nhà quản trị.
Thứ hai, trong mối quan hệ giữa chủ nợ và cổ đông của công ty thì chủ nợ trao quyền sử
dụng vốn cho cơng ty vay vốn và sau một thời gian sẽ thu hồi vốn vay cùng một khoản lãi.
Những nguy cơ trên tạo nên chi phí ủy nhiệm mà chủ nợ phải gánh chịu khi cho vay, đó là
yếu tố họ sẽ xem xét để quyết định liệu có chấp nhận khoản cho vay hay khơng, và nếu
chấp nhận có cần áp dụng mức lãi suất cao hơn không. Việc đánh giá rủi ro trước khi cho
vay cũng dựa vào các chỉ số tài chính trên BCTC. Thêm vào đó, chủ nợ có thể đòi hỏi thêm
các điều khoản ràng buộc liên quan đến tỉ lệ chia cổ tức, các khoản đầu tư được phép sử
dụng vốn vay… và kiểm tra lại tính hợp lý của chúng bằng các thơng tin được trình bày
trên BCTC.
Từ những phân tích trong nội dung của lý thuyết uỷ nhiệm, đối chiếu với đối tượng là các
ngân hàng thương mại cổ phần, có thể thấy rõ rằng luôn hiện diện các mâu thuẫn giữa bên
ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm. Trái với mong đợi của người ủy nhiệm là tối đa hóa lợi
ích của mình thì người đại diện – thường là các nhà quản trị của ngân hàng đơi khi lại có
những mục đích riêng và vì hướng đến mục đích đó mà những nhà quản trị này lại tiến
hành điều chỉnh lợi nhuận. Hành động đó có thể làm cho một BCTC khơng phản ánh một
cách trung thực, hợp lí tình hình hoạt động của ngân hàng. Và đương nhiên nó khơng cung
cấp được thơng tin hữu ích cho người cần sử dụng như cổ đơng, nhà đầu tư, chủ nợ, các
nhà phân tích tài chính… Có thể nói rằng, lý thuyết này đã cung cấp cơ sở cho lập luận về
mối quan hệ tác động giữa tính độc lập của HĐQT và việc ngân hàng có được kiểm tốn


bởi cơng ty kiểm tốn Big 4 hay khơng với chất lượng thơng tin cơng bố trên báo cáo tài
chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (Resource dependency theory) cung cấp một nền tảng lý
thuyết về vai trò nguồn lực của HĐQT. Những người ủng hộ lý thuyết này chỉ ra đóng góp
của các thành viên HĐQT như là bộ phận thu hẹp ranh giới của tổ chức và mơi trường xung
quanh nó (Dalton, Daily, Johnson & Ellstrand, 1999; Hillman, Cannella & Paetzold, 2000;

Johnson et al, 1996; Pfeffer & Salancik, 1978). Lý thuyết này tập trung vào vai trò của
HĐQT trong việc cung cấp quyền truy cập vào các tài nguyên cần thiết cho công ty
(Abdullah & Valentine, 2009). Ví dụ, thành viên HĐQT bên ngồi cũng là giám đốc điều
hành của tổ chức tài chính có thể hỗ trợ trong việc đảm bảo chu trình tín dụng thuận lợi
(Stearns & Mizruchi, 1993). Việc cung cấp các nguồn lực sẽ tăng cường chức năng tổ chức,
hoạt động và sự sống cịn của cơng ty. Nó tập trung vào thực thi quyền lực, kiểm soát và
sự thương lượng lẫn nhau để đảm bảo sao cho dòng chảy nguồn lực được ổn định và giảm
thiểu mức độ không chắc chắn thuộc về môi trường (Carpenter & Feroz, 2001; Modell,
2001; Oliver, 1991).
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực rõ ràng đã cho thấy vai trò quan trọng của HĐQT, cũng như
đặc điểm nguồn lực ngân hàng trong hiệu quả hoạt động và cả sự tồn tại của ngân hàng. Lý
thuyết đã đưa ra cơ sở cho nghiên cứu phân tích các nhân tố thuộc quản trị ngân hàng đến
chất lượng thơng tin cơng bố trên báo cáo tài chính, cụ thể hơn là về tính độc lập và quy
mơ của HĐQT.

Lý thuyết chi phí chính trị


Các chi phí chính trị là một trong những chi phí và khoản thanh tốn quan trọng nhất của
cơng ty và được xem là các khoản phí tổn phi hợp đồng, nên các cơng ty ln tìm cách
giảm bớt những chi phí này. Theo lý thuyết chi phí chính trị (Political cost theory) của
Watts và Zimmerman (1978) thì chính trị gia có quyền sử dụng các chính sách để phân
phối của cải một lần nữa (như thuế, trợ cấp, các khoản đóng góp, bảo hiểm) của các cơng
ty dưới ảnh hưởng của họ. Nội dung căn bản của lý thuyết chi phí chính trị là một cơng ty
chịu chi phí chính trị cao được dự kiến sẽ tiết lộ thêm nhiều thơng tin đến thị trường nhằm
hạn chế chi phí chính trị này.
Ví dụ như cơng đồn cơng ty sẽ gây sức ép với ban lãnh đạo để được trả lương cao hơn khi
cơng ty có lãi cao. Đó là động lực để ban lãnh đạo phù phép giảm lợi nhuận thơng qua các
thủ thuật kế tốn. Ví dụ cụ thể hơn trên thị trường chứng khoán Việt Nam là trường hợp
Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết phù phép lỗ thành lãi trong hai năm trước khi niêm yết

nhằm đạt được điều kiện tiên quyết để niêm yết cổ phiếu của Bơng Bạch Tuyết trên thị
trường chứng khốn.
Như đã phân tích ở trên, lý thuyết chi phí chính trị cũng có thể giải thích lý do tại sao nhiều
ngân hàng tiến hành điều chỉnh các thông tin trên BCTC. Đồng thời giúp nhóm tác giả có
thêm cơ sở cho lập luận về xây dựng giả thuyết sự tác động của quy mô ngân hàng lên chất
lượng thông tin công bố trên báo cáo tài chính.
Lý thuyết thơng tin hữu ích
Lý thuyết thông tin hữu ích ra đời vào những năm 1960 đã mở đầu giai đoạn định hướng
vào việc sử dụng thơng tin kế tốn hữu ích để phục vụ ra quyết định phù hợp. Vào năm
1973, lý thuyết này được xem xét một cách rộng rãi tại Mỹ với mục tiêu của BCTC là cung
cấp thông tin hữu ích để ra quyết định. Mặt khác, lý thuyết hướng đến tính hữu ích thơng
tin cho người sử dụng hơn là đáp ứng theo yêu cầu của luật pháp. Thông qua định hướng
ra quyết định phù hợp, trọng tâm đã được dịch chuyển từ các nguyên tắc sang kết quả của
q trình kế tốn mà ở đó thơng tin được cung cấp. Giả thiết cho việc chấp nhận cách tiếp
cận ra quyết định trên cơ sở thơng tin hữu ích của kế toán là về mặt lý thuyết, các BCTC


không được lập chuẩn xác mà yêu cầu đặt ra là chúng hữu ích hơn. Cũng trong năm 2006,
nghiên cứu của Deegan và Unerman đã đặt ra câu hỏi là liệu thơng tin cung cấp trên cơ sở
giá phí lịch sử có hữu ích cho việc ra quyết định kinh tế không. Cách tiếp cận này bắt đầu
với câu hỏi các BCTC được lập như thế nào trên cơ sở giá phí lịch sử sẽ có thể tạo nên sự
hữu ích hơn; do vậy, ra quyết định phù hợp là khởi nguồn của tranh luận về giá trị hợp lý
và các phương pháp định giá khác sẽ được kết hợp như thế nào trong BCTC và tranh luận
đó vẫn đang tiếp diễn đến ngày nay.
Chúng ta có thể thấy rằng chất lượng thơng tin trình bày trên BCTC ngân hàng thương mại
cổ phần được xây dựng trên nền tảng tính hữu ích của thơng tin tài chính đối với các đối
tượng sử dụng thông tin của ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước, nhà đầu tư, kiểm tốn, cơng
chúng... Áp dụng lý thuyết thơng tin hữu ích có ý nghĩa trong việc đánh giá chất lượng
thơng tin trình bày trên BCTC ngân hàng thương mại cổ phần, việc đảm bảo chất lượng
thơng tin tài chính khơng chỉ bắt nguồn từ ý thức cung cấp thông tin của ngân hàng mà

trước hết cần phải xuất phát từ nhu cầu của đối tượng sử dụng thơng tin bên ngồi. Lý
thuyết thơng tin hữu ích được sử dụng để giải thích về các quy định pháp lý làm tăng chất
lượng thông tin công bố trên báo cáo tài chính như bắt buộc kiểm tốn độc lập, tăng cường
hệ thống kiểm soát nội bộ, mục tiêu BCTC hướng tới đối tượng sử dụng là công chúng và
trách nhiệm giải trình… để khẳng định rằng thơng tin trên BCTC cung cấp là hữu ích cho
việc ra quyết định.
Lý thuyết tín hiệu
Lý thuyết tín hiệu dựa trên cơ sở đóng góp của 2 nghiên cứu của Arrow (1972) và Schipper
(1981). Lý thuyết tín hiệu xuất hiện đã giải quyết vấn đề bất cân xứng thông tin giữa doanh
nghiệp và các nhà đầu tư. Theo lý thuyết này, các công ty phải công bố thông tin ra thị
trường một cách tự nguyện và đưa tín hiệu tới các nhà đầu tư, như mơ hình tín hiệu trên,
để tạo sự khác biệt về chất lượng hoạt động của mình so với cơng ty khác.
Lý thuyết tín hiệu đã góp phần vào việc giải thích rằng những cơng ty có chất lượng cao sẽ


chọn chính sách kế tốn cho phép chất lượng vượt trội của họ được thể hiện, trong khi
những công ty chất lượng thấp hơn sẽ chọn những chính sách kế toán để cố gắng che bớt
những khuyết điểm này. Động cơ để ra tín hiệu bằng việc lựa chọn chính sách kế tốn sẽ
cao nhất ở những nơi có thơng tin bất cân xứng nhất, thông thường là những công ty có số
lượng cổ đơng lớn và dàn trải. Như vậy, khi thơng tin trình bày trên báo cáo tài chính của
doanh nghiệp có ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, doanh
nghiệp sẽ vận dụng chính sách kế tốn để có thể cung cấp thơng tin có lợi nhất về doanh
nghiệp của họ cho các nhà đầu tư.
Như vậy, nội dung lý thuyết tín hiệu là cơ sở cho tác giả sẽ kỳ vọng các ngân hàng có thời
gian hoạt động càng lâu năm, có quy mơ ngân hàng càng lớn, có lợi nhuận càng cao, và
các ngân hàng được kiểm toán bởi cơng ty kiểm tốn Big 4 thì chất lượng thơng tin cơng
bố trên báo cáo tài chính cũng sẽ cao hơn bởi với bản chất có những tố chất, đặc điểm tốt,
họ muốn đưa tín hiệu đến cho các bên liên quan nhằm tăng sự uy tín, lịng tin để thu hút
đầu tư, gia tăng mối quan hệ làm ăn nên sẽ chủ động báo cáo các thông tin trên BCTC chất
lượng hơn.


Khung nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu đề xuất


Dựa vào lý giải của các giả thuyết ở trên, tác giả đề xuất khung nghiên cứu và các giả
thuyết nghiên cứu có liên quan:
Quy mơ hội đồng quản trị
Tính độc lập của hội đồng quản trị
Quy mô ngân hàng

Chất lượng thơng
tin cơng bố trên
báo cáo tài chính

Thời gian hoạt động
Loại cơng ty kiểm tốn
Lợi nhuận

Hình 1. Khung nghiên cứu đề xuất
(Nguồn: Tác giả đề xuất)
Bảng 1. Giả thuyết nghiên cứu
STT

Nội dung giả thuyết

Lý thuyết liên
quan

Kỳ vọng


1

Quy mô hội đồng quản trị có ảnh hưởng cùng
chiều đến chất lượng thơng tin công bố trên Lý thuyết phụ
thuộc nguồn lực
báo cáo tài chính

+

2

Tính độc lập của hội đồng quản trị có ảnh Lý thuyết ủy nhiệm
hưởng cùng chiều đến chất lượng thơng tin
Lý thuyết phụ
cơng bố trên báo cáo tài chính
thuộc nguồn lực

+

3

Quy mơ ngân hàng có ảnh hưởng ngược
chiều đến chất lượng thơng tin cơng bố trên
báo cáo tài chính

Lý thuyết phụ
thuộc nguồn lực
Lý thuyết chi phí
chính trị


-


Lý thuyết tín hiệu

4

5

Thời giai hoạt động của ngân hàng có ảnh
hưởng cùng chiều đến chất lượng thơng tin Lý thuyết tín hiệu
cơng bố trên báo cáo tài chính

Ngân hàng được kiểm tốn bởi cơng ty
kiểm tốn Big4 có chất lượng thơng tin trên
báo cáo tài chính cao hơn ngân hàng được
kiểm tốn bới cơng ty khơng phải Big4

Lý thuyết
nhiệm

+

ủy

Lý thuyết thơng tin
hữu ích

+


Lý thuyết tín hiệu

6

Lợi nhuận có ảnh hưởng cùng chiều đến
chất lượng thông tin công bố trên báo cáo
tài chính

Lý thuyết tín hiệu

+

(Nguồn: Tác giả đề xuất)

Kết luận
Nghiên cứu này đã đề xuất khung khái niệm cho nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng BTCT của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Khung nghiên cứu này đề xuất
có 6 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin công bố trên BTCT, bao gồm quy mơ hội
đồng quản trị, tính độc lập của hội đồng quản trị, quy mô ngân hàng, thời gian hoạt động
của ngân hàng, loại cơng ty kiểm tốn và lợi nhuận của ngân hàng. Tác giả đã đề xuất
khung nghiên cứu này dựa trên các lý thuyết nền tảng có liên quan như lý thuyết ủy nhiệm,
lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, lý thuyết chi phí chính trị, lý thuyết thơng tin hữu ích và lý
thuyết tín hiệu. Các nghiên cứu trong tương lai có thể dựa vào kết quả nghiên cứu này, tổng
quan thêm các nghiên cứu trước, đo lường các biến trong mơ hình, thu thập dữ liệu thực tế
nhằm phân tích các nhân tác động đến chất lượng thơng tin cơng bố trên báo cáo tài chính
của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Để từ đó, nhà nghiên cứu có thể phân
tích bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BTCT của các ngân
hàng thương mại Việt Nam.



References

Abdullah H., Valentine B. (2009). Fundamentals and Ethics Theories of Corporate
Governance. Middle Eastern Finance and Economics, 4, 88-96.
Akerlof, G. A. (1970). The Market for “Lemons”: Quality Uncertainty and the Market
Mechanism. The Quarterly Journal of Economics, 84(3), 488. doi:10.2307/1879431
( />Arrow, K. J. (1972). Some models of racial discrimination in the labor market. In A.
H. Pascal ed. Racial discrimination in economic life. Lexington, MA: Heath, 187–204.
Carpenter, V. L. & Feroz, E. H. (2001). Institutional theory and accounting rule choice:
an analysis of four US state governments’ decisions to adopt generally accepted accounting
principles, Accounting, Organizations and Society, 26, 565-596.
Dalton D. R., Daily C. M., Johnson L. & Ellstrand A. (1999). Number of Directors and
Financial Performance: A Meta-Analysis, Aca. Manage. J., 42, 674-686.
Deegan, C., & Unerman, J. (2006). Financial Accounting Theory. McGraw-Hill
Education.
Hillman A., Canella A., Paetzold R. (2000). The Resource Dependence Role of
Corporate Directors: Strategic Adaptation of Board Composition in Response to
Environmental Change, J. Manage. Stud., 37 (2), 235- 255.
Jensen, M. C. and Meckling, W. H. (1976). Theory of the firm: managerial behaviour,
agency costs and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3, 305-361.
Johnson, Jonathan L., Catherine M. Daily, and Alan E. Ellstrand. (1996). Boards of
directors: A review and research agenda. Journal of Management, 22.3, 409-438.
Modell, S., 2001. Performance measurement and institutional processes: a study of
managerial responses to public sector reform. Management Accounting Research, 12, 437464.
Oliver, C. (1991). Strategic responses to institutional pressures. Academy of
Management Review, 15(2), 203-223.
Pfeffer, J., and G. Salancik. (1978). The External Control of Organizations: A
Resource Dependency Perspective. Upper Saddle River, Bergen County, New Jersey,
USA: Pearson Education, Inc.



Ross, S. (1973). The economic theory of agency: The princi- pal's problem. American
Economic Review, 63, 134-139.
Ross, L., Watts and Jerold L., Zimmerman. (1978). Towards a Positive Theory of the
Determination of Accounting Standards. The Accounting Review, Vol.53, No.1, 112-134.
Schipper, K. (1981). Discussion of voluntary corporate disclosure: The case of interim
reporting. Journal of Accounting Research, 19, 85–88.
Stearns, Linda Brewster and Mark S. Mizruchi. (1993). “Board composition and
corporate financing: The impact of financial institution representation on borrowing.”
Academy of Management Journal 36, 603-618.
Vũ Hữu Đức. (2010). Những vấn đề cơ bản của lý thuyết kế toán. Hà Nội: Nhà xuất
bản Lao Động.



×