Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (GIÁO TRÌNH DÙNG CHO HỌC VIÊN CAO HỌC) - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.92 KB, 10 trang )

PTS. NGUYÊN ĐĂNG BÌNH

PHƯƠNG PHÁP LUẬN

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(GIÁO TRÌNH DÙNG CHO HỌC VIÊN CAO HỌC)

NĂM 1999


Bài mở đầu
ĐỐI TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC:
Trước đây, hầu như chỉ có triết học mới dành mối quan tâm nghiên cứu về khoa
học như một phạm trù triết học nhằm giải thích nguồn gốc của khoa học, các quy luật
nội tại của khoa học, quan hệ giữa khoa học với khách thể mà khoa học nghiên cứu,
quan hệ giữa khoa học với các hình thái xã hội. Đã có một thời triết học được coi là
khoa học của các khoa học. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, khoa học dã trở thành bộ máy khổng lồ đang nghiên cứu khám phá tất cả các góc
cạnh của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ và mở ra
kỷ nguyên bùng nổ thông tin. Những khám phá mới của khoa học đã làm thay đổi
nhiều quan niệm truyền thống trong sản xuất vật chất và trong đời sống tinh thần của
xã hội. Vì vậy, khoa học ngày nay không chỉ được xem xét trong quan hệ với khách
thể mà khoa học nghiên cứu, mà còn được xem xét trong quan hệ qua lại với hệ thống
chính trị, kinh tế và xã hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng ấy của khoa học và cơng nghệ, đến phần mình,
bản thân khoa học cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một mặt phải tổng
kết thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học, phân loại và hệ thống hố tồn hộ những
tri thức đã nhận thức được. Mặt khác, phải khái quát những lý thuyết về cơ chế và


phương pháp sáng tạo khoa học, cũng như tìm tịi các biện pháp tổ chức, quản lý tốt
quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy là, chính khoa học đã trở thành đối tượng
nghiên cứu.
Theo hướng đó, trong hơn hai nghìn bộ mơn khoa học hiện đại có một số bộ mơn
đã đề cập khá sâu sắc tới nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học và hoạt động nghiên
cứu khoa học như: lịch sử khoa học, tâm lý học sáng tạo, xã hội học khoa học, kinh tế
học khoa học, tổ chức và quản lý khoa học .v.v... Chúng ta có thể kể đến các bộ mơn
quan trọng sau đây:
Bộ môn thứ nhất là Triết học. Triết học nghiên cứu tổng kết tất cả các thành tựu
của khoa học, dựa trên đó đã khái quát các qui luật nhận thức chung của loài người. Hệ
thống quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã trở thành thế giới quan là cơ
sở phương pháp luận chung cho mọi quá trình nhận thức, hướng dẫn các nhà khoa học
trên con đường tìm tịi sáng tạo.
Bộ mơn thứ hai là Lịch sử phát triển khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã tổng kết
thực tiễn nghiên cứu khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật trong lịch sử thế giới, cho chúng
ta bức tranh chung về quá trình phát triển khoa học nhờ đó mà ta có thể phát hiện ra
các qui luật, các xu hướng phát triển khoa học hiện đại.
2


Bộ môn thứ ba là Khoa học luận (Epistomology): Khoa học luận là bộ môn khoa
học "Nghiên cứu tổng hợp và tổng kết về mặt lý luận, kinh nghiệm hoạt động của các
hệ khoa học, nhằm dự báo chính sách khoa học - kỹ thuật, củng cố tiềm lực khoa học
và nâng hiệu suất của q trình khoa họe, thơng qua các biện pháp tác động về mặt tổ
chức và xã hội Đôbrôv G.M. Khoa học về khoa học. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội l976.Tr.31).
Đối tượng của Khoa học luận là bản thân khoa học được xem như một hệ thống
nhất thể. Phương pháp nghiên cứu của Khoa học luận là phân tích và tổng hợp lý luận
và thực tiễn hoạt động của các hệ khoa học. Chính vì vậy Khoa học luận là bộ mơn
khoa học có ý nghĩa to lớn đối với công tác tổ chức, quản lý và điều hành các hoạt

động nghiên cứu khoa học.
Bộ môn thứ tư đặc biệt quan trọng là Phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về
các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.
Các phương pháp nhận thức khoa học hiện đại rất da dạng và cách phân loại
chúng cũng rất khác nhau. Cách thường gặp hơn cả là dựa vào phạm vi tác động của
các quy luật khách quan đã được nhận thức và được khái quát dưới hình thức lý luận,
từ đó hình thành hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động của chủ thể. Theo cách
phân loại này, các phương pháp được chia ra thành phương pháp riêng, phương pháp
chung và phương pháp phổ biến. Phương pháp riêng chỉ thích hợp cho từng bộ mơn
khoa học (phương pháp sinh vật học, phương pháp hố học, phương pháp xã hội học).
Phương pháp chung được sử dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau (các phương
pháp quan sát thí nghiệm, phương pháp mơ hình hố, phương pháp tối ưu hoá, phương
pháp quy hoạch hoá thực nghiệm). Phương pháp phổ biến thích hợp cho mọi ngành
khoa học khác nhau cũng như đối với mọi lĩnh vực trong hoạt động thực tiễn. Phương
pháp biện chứng chính là phương pháp phổ biến và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của
khoa học hiện đại.
Phương pháp luận ( Methodology) là học thuyết hay lý luận về phương pháp.
Đó là hệ thống những quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo xây dựng các nguyên tắc hợp
thành phương pháp xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả. Trong đó,
quan trọng nhất là các nguyên lý có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng
định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tịi, lựa chọn và vận dụng
phương pháp. Phương pháp và phương pháp luận là khác nhau.
Phương pháp luận là phạm trù rất rộng, cho nên phạm vi bao quát của phương
pháp luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng loạt
những nhiệm vụ quan trọng sau đây:
+ Nghiên cứu làm sáng ló bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa
3



học, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại.
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà khoa
học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.
+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát những cách tiếp cận đối tượng nhận
thức đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, với
tư cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể, đây là vấn đề trung tâm
của phương pháp luận.
+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học khơng những
nằm trong lơgíc nhận thức mà cịn nằm trong cấu trúc nội dung một cộng trình khoa
học. Cho nên phương pháp luận nghiên cứu khoa học một mặt xác định các bước đi
trong tiến trình nghiên cứu một đề tài mặt khác cịn tìm ra cấu trúc lơgic nội dung của
các cơng trình khoa học đó.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức,
quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và cơng nghệ, coi đó là một khâu
ứng dụng chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao liềm lực khoa học và tổ chức
quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương
pháp nhận thức khoa học bao gồm các lý thuyết về cơ chế sang tạo, những quan điểm
tiếp cận đối tượng khoa học. Cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp, kỹ thuật và
logic tiến hành nghiên cứu một cơng trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức,
quản lý quá trình ấy.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hoàn thiện và nắm vững phương pháp luận
nghiên cứu khoa học:
1 - Khoa học hiện đại có kết cấu bởi nhiều thành phần, trong đó có ba bộ phận
chủ yếu và quan trọng sau đây:
+ Hệ thống những khái niệm, phạm trù, những quy luật, các lý thuyết, học thuyết
khoa học.
+ Hệ thống trí thức ứng dụng đưa các thành tựu khoa học vào sản xuất và quản
lý xã hội, nhằm cải tạo thực tiễn.

+ Hc thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu về các con đường tìm tịi, sáng
tạo khoa học.
Như vậy, phương pháp luận là một trong ba bộ phận quan trọng của khoa học.
2 - Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong mỗi giai đoạn phát
triển của khoa học hiện đại địi hỏi phải có cách tiếp cận mới đối với khoa học, phải
tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới, phải phát hiện ra các con đường mới để ứng
dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hồn thiện về phương pháp luận là sự địi hỏi
4


thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện đại.
3- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá (rình khái quát lý
thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và nó trở thành cơng cụ sắc bén để chỉ dẫn tất
cả các nhà khoa học và các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành
sáng tạo khoa học .
4- Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hồn thành có chất lượng bất cứ một tại
công việc nào nhà chuyên môn cũng phải là người sáng tạo, có ý thức tìm tòi các con
đường, các phương pháp lao động mới. Thiếu tinh thần sáng tạo khơng có chỗ đứng
trong cuộc sống dậy sôi động. Cải tiến chuyên môn thông qua con đường hoạt động
thực tiễn của mình đã góp phần làm phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, nắm
vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học khơng chỉ có nghĩa đối với các nhà
nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà cịn đối với các nhà chun mơn trong các
lĩnh vực hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng của
khoa học. Hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức về sự
phát triển của bản thân khoa học. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu
khoa học khơng chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà
còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.

5



Chương I
KHOA HỌC, KỸ THUẬT VÀ CƠNG NGHỆ
Để có cơ sở bàn về nghiên cứu khoa học, trước hết cần xem xét các khía cạnh rất
đa dạng và phong phú trong khái niệm hiện đại về khoa học.
Từ khi bắt đấu lịch sử khoa học, các nhà nghiên cứu trong đó có những triết gia
lớn, các nhà khoa học lớn như Aristote, R. Descarte, F. Bacon. F. Hegcl. Marx, Engels,
v.v... đã dành nhiều quan tâm đến việc nhận dạng bản chất và cấu trúc của khoa học
đặc điểm của hoạt động khoa học, chức năng xã hội của khoa học cũng như chính sách
của chính phủ đối với nghiên cứu khoa học. Khoa học, do vậy, đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau.
1.1. KHOA HỌC.
1.1.1. KHOA HỌC LÀ GÌ?
Trong các từ điển cũng như trong các tài liệu chuyên môn khác nhau, khoa học
được giải thích theo nhiều cách khác nhau.
Một số tài liệu chuyên khảo về phương pháp luận nghiên cứu khoa học chỉ hướng
mối quan tâm từ giác độ phương pháp luận nghiên cứu và chỉ giới hạn trong phạm vi
những gì cần thiết cho cơng việc của người làm nghiên cứu khoa học. Trên hướng tiếp
cận này, chắt lọc những ý tưởng cốt lõi trong khái niệm khoa học mà các tác giả khác
nhau đã đề cập, khoa học có thể được xem xét theo một số giác độ sau:
1.1.1.1. Xét theo kết quả của q trình tích lũy trí thức của nhân loại thì KHOA
HỌC LÀ MỘT HỆ THỐNG TRI THỨC VỀ THẾ GIỚI KHÁCH QUAN:
Ngay từ khi xuất hiện, để tồn tại con người phải lao động, cùng với lao động con
người nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức trước hết để thích ứng, tồn tại cùng
với mơi trường sau đó để vận dụng những điều đã biết vào cuộc sống làm cho cuộc
sống ngày càng tốt hơn. Hoạt động nhận thức phát triển theo dòng lịch sử và kết quả
nhận thức ngày một phong phú, trở thành một hệ thống tri thức về mọi lĩnh vực của
dời sống xã hội.
Quá trình nhận thức của con người được thực hiện với nhiều trình độ, bằng các

phương thức khác nhau và tạo ra hai hệ thống tri thức về thế giới.
a. Tri thức thông thường:
Trong cuộc sống đời thường, con người tiếp xúc với thiên nhiên, với xã hội, phải
giải quyết những công việc thực tế hàng ngày, bằng các giác quan con người tri giác,
cảm nhận về bản thân, về thế giới xã hội xung quanh, từ đó mà có những kinh nghiệm
sống, những hiểu biết về mọi mặt. Đó chính là tri thức thơng thường. Tri thức thông
thường được tạo ra từ phép quy nạp đơn giản, khơng có mơ hình lý thuyết, do vậy nó
chưa chỉ ra dược bản chất bên trong, chưa phát hiện được các quy luật của những sự
6


vật, hiện tượng và chưa thành một hệ thống vững chắc.
Tri thức thông thường được con người sử dụng trao đổi với nhau truyền đạt cho
nhau, mỗi ngày chúng được bổ xung, được hồn thiện, tính xã hội được xác lập và trở
thành tri thức dân gian. Tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp nhiều
ích lợi cho cuộc sống hàng ngày của con người.
b. Tri thức khoa học:
Sự phát triển của lao động sản xuất và hoạt động xã hội là nguyên nhân khiến
con người phải đi sâu nghiên cứu đầy đủ hơn về thế giới và tìm hiểu khả năng nhận
thức của chính mình. Để tạo ra công cụ sản xuất, con người phải tìm tịi, nghiên cứu
các loại vật liệu khác nhau. Để thuần dưỡng động vật, con người phải biết về cấu tạo
cơ thể và đặc điểm sinh hoạt của chúng. Để trồng trọt con người phải nghiên cứu đất
đai, cây trồng và thời tiết... Những hiểu biết lúc đầu cịn ít ỏi, về sau tăng dần trở thành
một hệ thống tri thức vững chắc.
Cùng với q trình phân cơng lao động xã hội, xuất hiện những người thơng thái
có khả năng trí tuệ đặc biệt, biết chế tạo và sử dụng những cơng cụ, những phương
pháp độc đáo để tìm hiểu thế giới và kết quả là tạo ra một hệ thống hiếu biết có giá trị
đặc biệt, đó chính là tri thức khoa học. Cũng từ đây có hoạt động nghiên cứu khoa học
chuyên nghiệp.
Như vậy tri thức khoa học là kết quả của q trình nhận thức có mục đích, có kế

hoạch, có phương pháp và phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực
hiện.
Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về các sự vật, hiện tượng của thế
giới và về các qui luật vận động của chúng. Đây là hệ thống tri thức được xác lập trên
các căn cứ xác đáng, có thể kiểm tra được và có tính ứng dụng.
Mỗi kết luận khoa học đều được dựa trên các tài liệu thực tiễn hay lý thuyết, nhờ
có phép suy luận và các thao tác khái qt hố, trìu tượng hố con người gạt bỏ những
cái ngẫu nhiên, đi vào những mối quan hệ bản chất sâu xa bên trong của các sự vật,
hiện tượng, từ đó mà phát hiện ra những quy luật khách quan về thế giới. Như vậy tri
thức khoa học là sản phẩm cao cấp của trí tuệ con người.
Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông thường, theo
gợi ý của những hiểu biết thông thường để tiến hành những nghiên cứu một cách sâu
sắc. Tuy nhiên tri thức khoa học không phải là tri thức thơng thường được hệ thống
hố lại hay những tri thức thơng thường được hồn thiện. Tri thức khoa học là kết quả
của hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể đồng tình với định nghĩa sau đây: “Khoa
học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy về những qui luật phát triển
7


khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này được hình thành
trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội”. (Đại bách khoa
tồn thư Liên Xơ. Quyển XIX, tr.241, bản tiếng Nga).
Phân tích tồn diện khái niệm khoa học ta thấy:
Đối tượng của khoa học là những hình thức tồn tại khác nhau của vật chất đang
vận động và cả những hình thức phản ánh chúng vào ý thức của con người. Nói cách
khác đối tượng của khoa học là thế giới khách quan và cả những Phương tháp nhận
thức thế giới.
Nội dung của khoa học bao gồm:

+ Những tài liệu về thế giới do quan sát, điều tra, thí nghiệm mà có.
+ Những ngun lý được rút ra dựa trên những sự kiện đã được thực nghiệm
chứng minh.
+ Những qui luật, những học thuyết được khái quát bằng tư duy lý luận.
+ Những phương pháp nhận thức sáng tạo khoa học.
+ Những qui trình vận dụng lý thuyết khoa học vào sản xuất và đời sống xã hội.
Chức năng của khoa học là:
+ Khám phá bản chất các hiện tượng của thế giới khách quan: Giải thích nguồn
gốc phát sinh, phát hiện ra các qui luật vận động và phát triển của các hiện tượng ấy .
+ Hệ thống hoá các tri thức đã khám phá được tạo thành các lý thuyết, học thuyết
khoa học.
+ Nghiên cứu ứng dụng những thanh quả sáng tạo khoa học để cải tạo thực tiện.
Động lực của sự phát triển khoa học là nhu cầu thực tiễn của cuộc sống con
người. Nhu cầu thực tiện gợi ý cho mọi đề tài và đồng thời là mục tiêu phải giải quyết
của mọi đề tài khoa học. Thực tiễn vừa là nguồn gốc nhận thức vừa là tiêu chuẩn để
xác minh tính chân thực, vừa là mục tiêu giải quyết của mọi lý thuyết khoa học.
1.1.1.2. Xét trên giác độ xã hội thì Khoa học là một HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ
HỘI VÀ LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
a) KHOA HỌC LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI:
Theo quan điểm triết học Mác được trình bày trong từ điển Triết học của
Rozental, khoa học tồn tại như một hình thái xã hội.
Toàn bộ cuộc sống của xã hội loài người bao gồm hai lĩnh vực: lĩnh vực vật chất
(tồn tại xã hội) và lĩnh vực tinh thần (ý thức xã hội). Tồn tại xã hội là tất cả những gì
đang diễn biến xung quanh chúng ta. Ý thức xã hội là kết qua sự phản ánh tồn tại xã
hội vào bộ não con người. Sự phản ánh này được thực hiện với nhiều mức độ khác
nhau như: ý thức sinh hoạt đời thường, tâm lý, ý thức xã hội, trong đó có hệ tư tưởng.
8


Ý thức đời thường là sự phản ánh những cái cụ thể trực tiếp, gần gũi của cuộc

sống hàng ngày của con người. Ý thức xã hội là sự phản ánh những cái sâu sắc toàn
cách và hệ thống về thế giới.
Ý thức xã hội được phản ánh bằng nhiều hình thái khác nhau như: Tơn giáo, Đạo
đức, Nghệ thuật, Chính trị Khoa học... sự khác nhau giữa các hình thái ý thức xã hội
được qui định bởi mục đích, tính chất và phương thức phản ánh. Thế giới là đối tượng
duy nhất của sự nhận thức và cũng là nguồn gốc duy nhất đem lại nội dung cho sự
nhận thức.
Các hình thái ý thức xã hội là những hình thức khác nhau của sự phản ánh về một
thế giới thống nhất và chúng có chức năng xã hội riêng.
+ Tơn giáo là một hình thái ý thức phản ánh lịng tin khơng có căn cứ của con
người trước lực lượng siêu tự nhiên, mà bản thân con người không hiểu nổi, khơng
giải thích được nó và từ đó thần thánh hố các sức mạnh siêu tự nhiên đó. Tơn giáo
xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, trong điều kiện trình độ nhận thức và thực
tiễn xã hội cịn thấp kém. Tơn giáo làm cho con người lệ thuộc vào thiên nhiên, trở
thành nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên.
+ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan niệm về cái thiện
cái ác trong các mối quan hệ xã hội, về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong
cuộc sống cộng đồng và được biểu hiện bằng những qui tắc, chuẩn mực cụ thể. Tiêu
chuẩn đạo đức không được ghi thành vấn bản, nhưng có giá trị to lớn trong cuộc sống
nhân loại. Đạo đức định hướng giá trị cho cuộc sống cá nhân và điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội. Đạo đức đưa xã hội loài người tới cuộc sống văn minh.
+ Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các hình tượng thẩm mỹ
của thế giới hiện thực thông qua những rung cảm thẩm mỹ cá nhân. Hình tượng nghệ
thuật là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, nó mang dấu ấn độc đáo của chủ
thể sáng tạo. Ý tưởng nghệ thuật xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể, trong điều kiện
sống của cá nhân, trong cộng đồng dân tộc và thời đại. Nghệ thuật là q trình chủ thể
hố đối tượng thẩm mỹ và khách thể hố tình cảm thẩm mỹ. Nghệ thuật có chức năng
nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng giải trí và có vai trị to lớn trong đời sống
nhân loại .
+ Chính trị là hình thái ý thức xã hội phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã hội

vị trí và quyền lợi của các giai cấp, của các quốc gia xung quanh vấn đề lợi ích, trước
hết là lợi ích kinh tế. Chính trị thể hiện trong cuộc dấu tranh giữa các giai cấp để thiết
lập trật tự xã hội và cuộc đấu tranh giữa các quốc gia để xác lập chủ quyền dân tộc,
trong quản lý và bảo vệ đất nước. Chính trị được duy trì bằng các cơng cụ chun
chính. Mọi hình thái ý thức xã hội đều bị chi phối bởi ý thức chính trị, phục tùng
đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.
+ Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan, tạo ra
9


hệ thống chân lý về thế giới. Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các khái niệm,
phạm trù trừu tượng những nguyên lý khái quát, những giả thuyết. học thuyết... Khoa
học phản ánh thế giới bằng các phương thức và công cụ đặc biệt. Khoa học không
những hướng vào giải thích thế giới mà cịn nhằm tới cải tạo thế giới. Khoa học làm
cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của
mình.
Khoa học có vị trí độc lập tương đối trước các hình thái ý thức xã hội khác nhưng
đồng thời lại có mối liên hệ biện chứng với chúng. Tất cả các hình thái ý thức xã hội
đều là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Khoa học có khả năng vạch rõ nguồn gốc
bản chất, xác định tính chính xác của sự phản ánh hiện thực và ý nghĩa xã hội của tất
cả các hình thái ý thức xã hội khác.
b) KHOA HỌC LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT:
Đứng ở góc độ hoạt động, khoa học có thể được hiểu là một lĩnh vực hoạt động
đặc biệt của lồi người, giống như hoạt động văn hố, nghệ thuật khoa học cơng
nghệ... Mỗi loại hình hoạt động có mục đích và phương thức riêng. Khoa học là một
loại hình hoạt động có mục đích khám phá bản chất và các qui luật vận động của thế
giới để ứng dụng chúng vào sản xuất và đời sống xã hội. Về thực chất, ở góc độ này,
khoa học được hiểu là hoạt động nghiên cứu khoa học, là quá trình phát minh sáng tạo
ra tri thức mới cho nhân loại.
1.1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC.

1.1.2.1. Quá trình phát triển của khoa học.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với lịch sử phát triển xã hội loài người. Khoa
học ra đời khi xã hội đã đạt tới trình độ phát triển nhất định và gắn liền với sự xuất
hiện những nhân vật có những năng lực trí tuệ đặc biệt.
+ Ở thời cổ đại khi mới hình thành, khoa học là một thể thống nhất chưa bị phân
chia, mọi lĩnh vực tri thức đều tập trung trong Triết học. Người đặt nền móng cho khoa
học cổ đại chính là Aristôt (384-270 trước CN), mọi tri thức khoa học và triết học thời
đó đều tìm thấy trong tác phẩm của ông. Triết học phát triển cùng với cuộc đấu tranh
của hai trào lưu duy vật và duy tâm.
Khoa học dần dần phát triển cùng với thời gian và trình độ nhận thức của xã hội
loài người. Triết học được phân thành Thiên văn học, Hình học, Cơ học, Tĩnh học...
Những bộ mơn này đạt tới trình độ láy trái đất làm trung tâm trong hệ thống tri thức
thiên văn của Pơtơlêmêm, hình học của Ơclit, tĩnh học của Acsimet.
+ Thời Trung cổ kéo dài hàng nghìn năm, chủ nghĩa duy tâm thống trị xã hội.
Giáo hội bóp nghẹt mọi tư tưởng khoa học, làm cho khoa học tiến lên hết sức chậm
chạp. Tuy nhiên do nhu cầu của thực tiễn xã hội thúc đẩy, tri thức khoa học vẫn được
bổ xung, khoa học vẫn tiếp tục phát triển dù là rất chậm.
10



×