Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

TIẾP CẬN TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU TỪ SỰ ĐỔI MỚI THỂ LOẠI - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 40 trang )

MỤC LỤC

MỤC NỘI DUNG SỐ
TRANG
1 Lời giới thiệu 2
2 Tên sáng kiến 2
3 Tên tác giả 2
4 Chủ đầu tư sáng tạo ra chuyên đề 3
5 Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 3
6 Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 4
7 Mô tả bản chất của sáng kiến 4
8 Những thông tin cần được bảo mật 37
9 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 37
10 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng 38
sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
11 đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) 39
Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) 40
Tài liệu tham khảo

1

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Mục 1. Lời giới thiệu.
1. Ba mươi năm sau ngày giải phóng, đất nước đã trải qua vơ vàn khó khăn, thách
thức, vượt qua giai đoạn khủng hoảng thời hậu chiến để bước vào công cuộc đổi mới tồn
diện. Văn học vốn gắn bó chặt chẽ với đời sống và vận mệnh dân tộc nên sau 1975, văn
học cũng dần chuyển sang một thời kì mới với đặc điểm và qui luật vận động khác trước.
Sau chiến tranh với yêu cầu đặc biệt, cuộc sống lại trở về với nhịp điệu vĩnh hằng
của nó. Những vấn đề nhân sinh, thế sự vốn khuất lấp trong thời kì chiến tranh nay trở thành


đòi hỏi bức thiết trong hiện tại. Những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh, nhân bản được nhìn
nhận và soi chiếu dưới góc nhìn tồn diện và khám phá chân thực hơn bao giờ hết.
Văn học đi đến sự đổi mới quan niệm về văn chương, về cuộc sống và con người
nhờ làn gió đổi mới tồn diện của Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986. Văn học đi theo
xu hướng đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, phát triển mạnh khuynh hướng nhận thức
lại thực tại, phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Văn học thời kì này để lại nhiều tác
phẩm có giá trị và tạo nên diện mạo mới cho văn học.
2. Trong sách giáo khoa Ngữ văn THPT, đây là phần văn học tiếp nối tiến trình văn
học Việt Nam hướng tới văn học đương đại. Ngoài bài khái quát có 4 tác phẩm văn học sau
1975 được đưa vào chương trình, trong đó có tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn
Minh Châu). So với các tác phẩm văn học trung đại hay văn học hiện đại thì đây là những
tác phẩm khá mới mẻ.
3. Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn
Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá
sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông
là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn
thiện nhân cách.
Với nhiều năm qua trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 12, qua thực tế và kinh nghiệm của
bản thân, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ Văn của khối 12, tôi đã chọn đề tài:
Tiếp cận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu từ sự đổi mới thể
loại. Như vậy khi giảng dạy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyên Minh Châu, chúng
tôi sẽ vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực để học sinh tự khám phá, tìm
hiểu văn bản trong chương trình theo đặc trưng thể loại của tác phẩm, từ đó hình thành
kiến thức và kĩ năng, định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học trong đó có
năng lực thẩm mĩ.
Mục 2. Tên sáng kiến: Tiếp cận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu từ sự đổi mới thể loại.
Mục 3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Phạm Thị Bích Ngọc.
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên Trường THPT Võ Thị Sáu.


2

- Số điện thoại: 0965 865 093.
- Email:
Mục 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Giáo viên: Phạm Thị Bích Ngọc.
Mục 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng vào quá trình giảng dạy mơn Ngữ văn
lớp 12.
5.1. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài: “Tiếp cận truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, từ
sự đổi mới thể loại” người viết mong muốn hướng tới:
- Khám phá nét đổi mới của tác phẩm văn học sau 1975 nói chung và tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu nói riêng .
- Đánh giá tác phẩm trên phương diện đặc trưng về thể loại.
- Góp thêm một hướng khám phá tác phẩm văn học sau năm 1975 trong nhà trường
THPT.
5.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
- Khảo sát các vấn đề về đặc trưng thể loại văn học, thể loại truyện ngắn sau 1975; sự
đổi mới trên các phương diện như: Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, Đổi mới
nghệ thuật trần thuật, Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu; hướng tới vận dụng vào việc đổi
mới phương pháp dạy học qua bài giảng Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
một cách cụ thể.
- Thực nghiệm bài giảng tại hai lớp 12A2, 12A5.
Phạm vi nghiên cứu
- Với đề tài này, người viết đi sâu khai thác những đổi mới của các tác phẩm văn học
nói chung và thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đồng thời đưa ra hướng vận dụng và
kết quả đạt được sau khi phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh
Châu theo hướng này.

5.3. Thời gian nghiên cứu, áp dụng chuyên đề:
Trong năm học: 2018 – 2019, áp dụng vào năm học 2019-2020.
5.4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài gồm hai phần: Phần lý thuyết và phần thực nghiệm.
Phần lý thuyết
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về những đổi mới của văn học sau 1975; làm rõ những
đổi mới về thể loại; xem xét truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
trên các phương diện đổi mới . (Đây là những yêu cầu đặt ra đối với giáo viên).
Phần thực nghiệm
Vận dụng kết quả nghiên cứu phần lý thuyết để áp dụng vào phần giúp học sinh tiếp
cận tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa qua bài giảng cụ thể tại lớp 12ª2,12ª5.
5.5. Các phương pháp nghiên cứu chính.

3

- Phương pháp phân tích tác phẩm.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp thực nghiệm.
-Vận dụng hướng nghiên cứu thi pháp học, ngơn ngữ học.
5.6. Đóng góp của chuyên đề.
Từ những tìm tịi, phát hiện nhỏ trên đây, chúng tôi thấy rằng, tiếp cận và cắt nghĩa
những truyện ngắn đương đại trong nhà trường phổ thơng dưới góc độ đổi mới theo thời
đại là một hướng khoa học và hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động đồng sáng tạo tác phẩm văn
chương là sự tích hợp nhiều cách thức và phương pháp khác nhau. Với đề tài này, người
viết mong muốn góp một tiếng nói nhỏ của mình vào thực tiễn giảng dạy những tác phẩm
văn học còn khá mới mẻ trong nhà trường. Âu cũng là để tự tìm kiếm cho mình một đường
hướng giải mã các tác phẩm nghệ thuật cịn mới trong trường phổ thơng ngày nay.
5.7. Cấu trúc của chuyên đề.
Gồm ba phần:


Phần mở đầu.
Phần nội dung.

Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Một số giải pháp cụ thể để thực hiện đề tài.
Chương 3: Thực nghiệm.
Phần kết luận.
Mục 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 25 tháng 09 năm 2018
Hiện tại đang tiếp tục ứng dụng trong năm học 2019-2020.
Mục 7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
1.1. Thể loại văn học và Thể loại truyện ngắn.
1.1.1. Thể loại văn học.
Thể loại là một trong những phạm trù cơ bản của văn học. Thể loại liên quan mật
thiết đến quá trình sáng tạo tác phẩm, đến người đọc và quá trình tiếp nhận. Thể loại cũng
là một phương diện quan trọng trong việc đánh giá tiến trình văn học, sự tiến bộ nghệ thuật
ở mỗi nền văn học.
Hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm nghệ thuật bắt đầu
từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ. Để học sinh trở thành chủ thể của hoạt động này giáo viên
cần thiết kế hoạt động dạy học theo hướng Đọc - hiểu tác phẩm văn học. Q trình này địi
hỏi giáo viên khơng thể không quan tâm đến đặc điểm thể loại của tác phẩm. Bởi lẽ, thể
loại chính là cơ sở tạo nên tính thống nhất chỉnh thể của tác phẩm, qui định cách tổ chức,
liên kết các yếu tố nội dung và hình thức; thể loại cũng định hướng cho việc tiếp nhận tác
phẩm.

4

Trong chương trình Ngữ văn THPT, thể loại là một trục chính để sắp xếp hệ thống
văn bản đưa vào chương trình sách giáo khoa. Vì thế, tri thức về thể loại văn học, kĩ năng

Đọc - hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại có vai trị quan trọng trong hoạt động dạy và
học tác phẩm văn học.

Thể loại là một phạm trù cơ bản và phổ biến của văn học. Bất kì tác phẩm văn học
nào cũng tồn tại trong một dạng thức nhất định. Sự thống nhất đó mang tính chỉnh thể của
một loại nội dung với những phương thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức
lời văn. Thể loại văn học là sự thống nhất giữa nội dung với hình thức văn bản và phương
thức tái hiện đời sống.

Tìm hiểu tiến trình lịch sử văn học của một dân tộc tất yếu phải tìm hiểu sự vận
động, biến đổi của các thể loại trong nền văn học ấy. Bởi vì, trên một phương diện nhất
định, tiến trình lịch sử của văn học cũng là tiến trình vận động và biến đổi của các thể loại.
Đọc - hiểu một tác phẩm văn học không thể không quan tâm đến đặc điểm thể loại của tác
phẩm ấy. Thể loại chính là cơ sở tạo nên tính thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm; tổ
chức liên kết các yếu tố nội dung và hình thức từ đề tài, chủ đề, cảm hứng đến hệ thống
nhân vật, kết cấu và lời văn nghệ thuật. Thể loại còn định hướng cho sự tiếp nhận của độc
giả. Thể loại vừa có tính kế thừa, tính liên tục, lại vừa có tính độc đáo, biến đổi do sự sáng
tạo của tác giả, tạo nên cấu trúc độc đáo, in dấu ấn cá tính của mình.
1.1.2 Thể loại truyện ngắn.

* Khái niệm truyện
“Truyện là loại văn tự sự, kể chuyện, trình bày sự việc… là sự việc được tổ chức
một cách nghệ thuật trong văn học”(Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 1, Nxb GD, H. 2007. tr
151).
Ở văn học trung đại Việt Nam, truyện là thuật ngữ mà văn học vay mượn từ sử học.
Tác phẩm thể truyện có thể được viết bằng thơ hoặc văn xuôi.
Ở văn học hiện đại, truyện là khái niệm khơng thật xác định. Một mặt nó vẫn được
dùng để trỏ mọi loại tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung, mặt khác lại có lối dùng nó
như thuật ngữ trỏ dung lượng tác phẩm (“truyện dài”, “truyện vừa”, “truyện ngắn”).” (Lại
Nguyên Ân; 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H. 1999, tr.349).

* Phân loại truyện
Cách phân loại truyện hợp lí và khoa học hơn cả vẫn là cách phân loại theo tài liệu
hướng dẫn giảng dạy môn Ngữ văn lớp 11. Theo cách này, trong văn học Việt Nam chúng
ta có:
– Truyện dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…
– Truyện trung đại: truyện viết bằng chữ Hán, truyện thơ Nôm.
– Trong văn học hiện đại, theo quy mô văn bản và dung lượng người ta chia thành:
truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.
* Đặc trưng của truyện.

5

Truyện có “tính khách quan trong sự phản ánh; cốt truyện được tổ chức một cách
nghệ thuật; nhân vật được miêu tả chi tiết, sống động gắn với hoàn cảnh; phạm vi miêu tả
không bị hạn chế về không gian và thời gian; ngôn ngữ linh hoạt, gần với ngôn ngữ đời
sống” (Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 1, Nxb GD, H. 2007.

Về mặt hình thức, truyện ngắn thường được phân biệt với tiểu thuyết và truyện vừa
ở dung lượng cỡ nhỏ của nó. Nhưng độ dài ngắn khơng phải là tiêu chí cơ bản mà sự phân
biệt truyện ngắn với các thể loại tự sự khác là ở cách nhìn, cách nắm bắt và thể hiện đời
sống. Truyện ngắn không phản ánh đời sống trong tính tồn vẹn của nó mà chỉ hướng vào
một quan hệ, một trạng thái nào đó để phát hiện một vấn đề tư tưởng hay lối sống, một qui
luật nhân sinh. Nếu tiểu thuyết như một dòng sơng lớn thì truyện ngắn chỉ tập trung vào
những chỗ xoáy nước, những ghềnh thác hay những chỗ trên bề mặt có thể bình lặng nhưng
lại chứa đựng vực sâu, sóng ngầm của dịng sơng. Nhà văn Tơ Hồi cho rằng: Truyện ngắn
là cưa lấy một khúc của đời sống. Cịn Nguyễn Minh Châu thì nói: Nếu tiểu thuyết là một
đoạn của dịng đời thì truyện ngắn là một cái mặt cắt của dòng đời, hoặc như mặt cắt giữa
của một cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau
trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc. Nói như thế khơng có nghĩa là truyện ngắn
khơng thể hiện được cả cuộc đời nhân vật. Người đọc vẫn có thể biết được hết cuộc đời của

nhân vật tuy nhiên truyện ngắn chỉ tập trung khắc họa, dựng lại một vài thời điểm và biến
cố quan trọng trong cuộc đời nhân vật, còn những chặng đường khác chỉ được thuật lại
ngắn gọn để người đọc biết được lai lịch và cảnh ngộ của nhân vật, như là sự chuẩn bị cho
những biến cố quan trọng sẽ được miêu tả trực tiếp.

Đặc điểm trong cái nhìn và cách phản ánh đời sống của truyện ngắn không chỉ là
chỗ tái hiện một “mặt cắt” của dòng đời mà còn là sự phát hiện một vấn đề nào đó của đời
sống. Mỗi truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một chủ đề và đó phải là sự phát hiện mới
của tác giả về một vấn đề trong đời sống - một quan hệ, lối sống, một tư tưởng, một vẻ đẹp
hay thói tật nào đó của con người.
1.2. Sự đổi mới của truyện ngắn sau 1975.

Những biến đổi của nền văn học sau 1975 được thể hiện rõ ràng trong sự đổi mới
thể loại văn học. Văn xuôi được xem là có nhiều thành tựu nổi bật và đi tiên phong trong
công cuộc đổi mới văn học. So với thơ thì giai đoạn này văn xi chiếm vị trí nổi trội. Số
lượng tác phẩm được cơng bố lớn. Lực lượng sáng tác đông đảo. Những nỗ lực cách tân
tạo nên diện mạo phong phú, năng động, sôi nổi cho văn học. Dư luận thời kì này cũng khá
sơi động trước những tìm tịi mới lạ, tạo sự khác biệt rõ rệt so với văn học truyền thống. Sự
phong phú đó khơng thể tránh khỏi đơi chỗ xơ bồ và quá ngưỡng nhưng văn xuôi sau 1975
đang chấp nhận sự kiểm chứng của thời gian để khẳng định giá trị đích thực của mình.
1.2.1. Sự đổi mới khuynh hướng sáng tác trong văn học sau 1975

Khuynh hướng sử thi vẫn được tiếp tục, chủ yếu trong khoảng 10 năm đầu với một
loạt tiểu thuyết, kí sự, hồi kí về chiến tranh. Khuynh hướng này tuy có mờ nhạt dần nhưng
cũng góp phần vào bức tranh văn xuôi trong khoảng 10 năm đầu trong đó có một số tác

6

phẩm thu hút được sự chú ý của công chúng. Đề tài chiến tranh vẫn là mối quan tâm hàng
đầu nhưng đã có những tác phẩm khám phá sâu hơn những va đập của hồn cảnh vào tâm

lí con người, khước từ cái nhìn một chiều về người anh hùng.

Vào những năm đầu của cuộc đổi mới đã phát triển khuynh hướng nhận thức lại.
Đáp ứng nhu cầu nhìn thẳng vào sự thật và phê phán trên quan điểm nhân bản. Xu hướng
này tiến tới tiếp cận đời sống từ góc độ đạo đức - thế sự, trở về mối quan tâm với “cái
thường ngày”, mổ xẻ, phanh phui mặt trái, bất cập và cảnh báo những ảo tưởng, ngộ nhận
của con người trong thời hiện tại. Các nhà văn hướng mạnh vào các vấn đề thế sự mong
khám phá qui luật nhân sinh từ cái hằng ngày, bình dị, đời thường.
1.2.2. Sự đổi mới quan niệm về nhà văn.

Với đặc thù của nền văn học chiến tranh, văn học 1945-1975 gắn với kiểu nhà văn -
chiến sĩ, nhà văn - cách mạng. Họ phát ngơn cho tiếng nói thời đại, nhân danh kinh nghiệm
cộng đồng. Nhiều khi do yêu cầu sống còn của vận mệnh dân tộc, nhà văn cần lựa chọn hi
sinh nghệ thuật và cá tính sáng tạo.

Xu hướng dân chủ từ sau 1975, đặc biệt 1986 tạo nên cho văn học kiểu nhà văn
mới. Họ sáng tạo nhân danh kinh nghiệm cá nhân với ý thức cá tính cao độ. Viết tác phẩm,
tác giả không đứng cao hơn độc giả để phán truyền mà đối thoại với người đọc mà chia sẻ
và kiếm tìm những cách cắt nghĩa mới để sinh thể nghệ thuật của mình ln sống. Quan
niệm này gần gũi với văn học trước 1945 nhưng được ý thức ở trình độ cao hơn.
1.2.3. Đổi mới quan niệm về con người.

Lịch sử văn học là lịch sử của những quan niệm khác nhau về con người. Văn học
chiến tranh đã tạo dựng thành công kiểu con người sử thi, biểu trưng cho cộng đồng. Cuộc
kháng chiến đã đem lại cho con người vẻ đẹp lí tưởng mà nói như A. Niculin, nhân vật
được "tắm rửa sạch sẽ và bao bọc trong bầu khơng khí vơ trùng" (nhân vật của Nguyễn
Minh Châu). Nhân vật ln trùng khít với địa vị xã hội của mình và ln ở trạng thái đơn
trị, nhất phiến.

Sau chiến thắng năm 1975, đất nước bước vào giai đoạn hòa bình. Đổi mới trở thành

nhu cầu cấp thiết trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Văn học có sự thay đổi tư duy nghệ thuật
dẫn đến đổi mới quan niệm về hiện thực, con người, sáng tạo nghệ thuật… đòi hỏi người
viết phải có cái nhìn mới, thỏa đáng hơn cho những vấn đề đang tồn tại và nảy sinh trong
cuộc sống. Người đọc có nhu cầu nhìn hiện thực tồn vẹn trên nhiều phương diện chứ khơng
chỉ thiên về hiện thực của mơ ước như trong văn học trước 1975.

Chiến tranh lùi xa, cuộc sống thay đổi rất nhiều nhưng văn học lại không khác trước
kia là mấy. Nhịp sống đời thường khơng hề giản đơn, xi chiều, những mặt cịn khuất lấp
trong chiến tranh nay trở nên cấp thiết và địi hỏi vị trí xứng đáng của nó. Vơ vàn câu hỏi
đặt ra cho con người trong dịng chảy xơ bồ của cuộc sống đời thường địi hỏi phải có câu
trả lời thỏa đáng. Nhiều quan niệm mang tính chuẩn mực trước đây khơng cịn giữ được
sức thuyết phục. Người đọc tìm đến văn học với khao khát tìm hiểu sự thật, muốn khám
phá cuộc sống phong phú, phức tạp như diện mạo đích thực của nó. Họ muốn có được nhận

7

thức chân xác về cuộc đời để tìm cho mình bài học nhân sinh thế sự với tất cả sự phong phú
và phức tạp của đời sống. Các nhà văn đón nhận nhu cầu này như một thách thức trong quá
trình sáng tạo. Nguyễn Minh Châu được coi là nhà văn tiên phong, người mở đầu tinh anh
trong công cuộc đổi mới văn học. Ông kêu gọi “ Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh, các nhà văn phải tự “cởi trói” trong sáng tác”.

Văn học sau 1975 hướng đến khám phá và tạo dựng con người thế sự - đời tư, con
người cá nhân với những phức tạp và bí ẩn của nó. Nhà văn cắt nghĩa sự tồn tại của con
người không phải ở vị thế nhà đạo đức, nhà tuyên huấn mà là nhà triết học, nhà tư tưởng.
Con người được nhìn ngắm từ nhiều toạ độ nên nhiều chiều, đa nhân cách, vừa có "rồng
phượng lẫn rắn rít, thiên thần và ác quỷ" và nhìn chung, nó tồn diện và sâu sắc hơn.

Văn xuôi trước 1975 nhìn nhận con người và các giá trị của nó theo nguyên tắc của
giai cấp xã hội. Theo đó, các nhân vật thuộc giai cấp công - nông - binh thường được lí

tưởng hóa mang bản chất tốt đẹp của giai cấp mình; địa vị cao mang lại cho con người khả
năng tiếp cận chân lí và hồn thiện mình hơn; con người có sự phân định rành rọt tốt - xấu,
phải - trái. Do đó, các đối tượng có thể được qui vào khuân mẫu nhất định. Sự phản ánh
này không tránh khỏi sự phiến diện trong đánh giá về con người. Khuynh hướng dân chủ
hóa trong văn học sau 1975 giúp nhà văn nhìn nhận cuộc sống đa chiều và con người bình
đẳng trong sự quan sát và phản ánh của nhà văn. Con người với tính cách và số phận cá
nhân trở thành đối tượng khám phá đến tận cùng bản chất. Con người là sự tổng hòa, đan
xen của nhiều mối quan hệ và phẩm chất, có sự cao thượng bên cạnh cái thấp hèn; lí tưởng
đan xen với dục vọng; cái xấu xen lẫn vào cái đẹp. Bản chất đích thực của con người nhiều
khi khơng trùng khít với giá trị và sự thể hiện bên ngoài của nhân vật. Con người với trăm
ngàn mảnh đời khác nhau “đầy vết dập xóa trên thân thể và trong tâm hồn”. Các tác giả
không chỉ đi sâu vào thân phận con người mà còn đề cập đến khát vọng sống, hạnh phúc cá
nhân, tình u đơi lứa. Xóa bỏ nguyên tắc cứng nhắc trong nhận thức về con người, văn
xi sau đổi mới có được sự phong phú trong miêu tả, thể hiện và đi đến khám phá toàn
vẹn về đối tượng này.
1.2.4. Đổi mới quan niệm về hiện thực.

Hiện thực được phản ánh trong văn học 1945-1975 gắn bó chặt chẽ với cuộc kháng
chiến trường kì của dân tộc, âm vang hào khí thời đại. Đó là một hiện thực vận động xi
chiều và nhìn chung rất lạc quan (trừ một số bài thơ chống Pháp có nói đến cái bi tráng).

Sau 1975, các nhà văn không chỉ dừng lại ở phản ánh mà còn nghiền ngẫm hiện
thực. Trước đây, hồn cảnh chiến tranh khơng cho phép họ khám phá tận cùng sự phức tạp,
bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của thời đại, do nhu cầu tự thân của
hoạt động sáng tạo, hiện thực đời sống đi vào văn chương vẹn nguyên sự đa chiều của nó,
được soi sáng, cày xới cả những phần khuất lấp, mờ tối.

Hiện thực trong văn học thời kì đổi mới được nới rộng phạm vi thể hiện. Khơng chỉ
có hiện thực cách mạng, các biến cố trong đời sống cộng đồng mà cịn có hiện thực của
cuộc sống hàng ngày với các quan hệ thế sự phức tạp, đời sống cá nhân riêng tư với hạnh


8

phúc, khát vọng, bi kịch của riêng nó. Nhiều mảng hiện thực mới được bổ sung khiến văn
học có khả năng đi sâu, thâm nhập vào những ngóc ngách của đời sống xã hội và tâm hồn
con người. Dường như khơng cịn có những vùng đất cấm kị với văn xuôi. Những vùng
hiện thực một thời phải né tránh nay lại có sức thu hút mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những
quan niệm ấu trĩ, sai lầm trong quá khứ được lật xới trên tinh thần nhận thức lại. Những
tiêu cực, bất cập trong đời sống được phanh phui, mổ xẻ với thái độ thẳng thắn, nghiêm
khắc nhằm mang lại nhận thức sâu sắc hơn về thực tại.
1.2.5. Đổi mới điểm nhìn trần thuật.

Nhìn chung, văn xi 1945-1975 chủ yếu sử dụng phương thức trần thuật khách
quan được soi chiếu từ điểm nhìn của tác giả. Nhà văn đứng cao hơn nhân vật và trở thành
người phán truyền chân lí.

Sự đổi mới sâu sắc nhất của văn học sau 1975 ở phương diện trần thuật chính là đa
dạng hố điểm nhìn trần thuật. Hiệu quả của việc trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã tạo nên
hệ thống các giá trị khác nhau về con người và hiện tượng. Thực ra, việc di chuyển điểm
nhìn từ tác giả đến người kể chuyện và nhân vật đã có trong văn xi Nam Cao và Nguyên
Hồng song hiệu quả là nhằm tái hiện thế giới nội tâm. Với văn học thời đổi mới, mục đích
sâu xa là nhằm soi chiếu hiện thực từ nhiều chiều, nhiều góc độ. Giọng điệu trần thuật cũng
xuất phát từ yêu cầu chiến tranh, văn học là phương tiện cổ vũ, tuyên truyền cách mạng.
Bởi thế, giọng điệu chủ đạo của văn học thời kì này nhất quán ở sắc thái ngợi ca, trang
nghiêm và đầy lạc quan.

Trong khi đó, văn học sau 1975 đã chuyển từ đơn sang đa giọng. Nhu cầu khẳng
định cá tính, nhận thức và khám phá tận cùng các đối tượng nghệ thuật đã làm nảy sinh các
giọng điệu: hoài nghi, chất vấn, chiêm nghiệm, triết lí, giễu nhại. Chính chất liệu ngơn ngữ
đời thường thô nhám, giàu màu sắc khẩu ngữ ùa vào trang văn làm nên sự đa giọng điệu

này. Có thể nói rằng, q trình đổi mới của văn học sau 1975 diễn ra khá toàn diện và sâu
sắc từ nhà văn đến công chúng, từ bản chất văn học đến tư cách nghệ sĩ, từ tư tưởng đến thi
pháp.
1.3. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận tác phẩm theo thể loại.

Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học mơn Ngữ văn nói riêng đang là
vấn đề cấp thiết nhằm hướng tới khẳng định vai trò năng động, sáng tạo của học sinh như
một bạn đọc đích thực, phát huy năng lực chiếm lĩnh tri thức, thưởng thức tác phẩm, hình
thành phẩm chất, nhân cách…của học sinh. Như vậy, việc giúp các em có một phương pháp
tiếp nhận tác phẩm phù hợp hiệu quả là hạt nhân của quá trình đổi mới phương pháp dạy
học.

Bản chất của quá trình dạy học văn phụ thuộc vào quá trình nhận thức sáng tỏ và đầy
đủ mối quan hệ giữa tính khoa học và tính nghệ thuật của tác phẩm văn chương. Đặc trưng
này khiến cho quá trình dạy học Ngữ văn trở thành quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học
của học sinh. Quá trình tiếp nhận văn học nói chung vốn đã phức tạp. Với đối tượng học
sinh trong nhà trường, quá trình này càng phức tạp hơn, vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố

9

như lứa tuổi, hứng thú, nhu cầu, kinh nghiệm sống…Do đó, đổi mới phương pháp dạy học
cần quan tâm đến những cách tiếp nhận tác phẩm theo đặc thù môn học và đối tượng học
sinh.

Dạy tác phẩm văn học từ góc nhìn thể loại là khám phá tác phẩm từ phương diện
đặc trưng thể loại; phân tích hình thức nghệ thuật đặc trưng từ đó khám phá các phương
diện khác. Cần khai thác các kĩ thuật dạy học mới đặc biệt là phương pháp dạy học nêu vấn
đề là hạt nhân của đổi mới. Với đề tài này, và từ những phương diện đổi mới trên, chúng
tôi những người đang trực tiếp giảng dạy ở các Trường THPT cần có một cái nhìn thấu đáo
để đưa học sinh tiếp cận với tác phẩm văn học, nhất là thể loại truyện ngắn sau năm 1975

bằng góc nhìn từ sự đổi mới thể loại truyện ngắn. Cụ thể là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài
xa của Nguyễn Minh Châu, một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu
và của nền văn học Việt Nam sau năm 1975.
Chương 2: Một số giải pháp để thực hiện đề tài.
2.1. Tìm hiểu thực trạng tiếp nhận thể loại truyện ngắn ở trường THPT.

Đổi mới phương pháp dạy học là chủ trương chung của ngành giáo dục thể hiện rõ
trong chỉ thị về nhiệm vụ năm học. Tuy nhiên, việc đổi mới cịn chậm trong các trường phổ
thơng. Đặc biệt với môn Ngữ văn, tiếp cận phương pháp dạy học mới là u cầu có tính
cấp thiết. Hạt nhân của sự đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính chủ động tích cực
của học sinh trong quá trình khám phá, tiếp nhận tác phẩm từ đó có những biến đổi về nhận
thức và nhân cách theo hướng tích cực.

Giờ học trên lớp không phải là giờ Giảng văn - giờ học thầy cô phô diễn kiến thức
và khám phá của cá nhân; thay vào đó là giờ Đọc – hiểu văn bản với sự chuyển dịch đối
tượng trung tâm là học sinh, chú trọng tới phương pháp để học sinh chủ động nắm bắt kiến
thức và được tiếp nhận tác phẩm văn học. Khám phá tác phẩm từ đặc trưng thể loại là một
hướng đi đáp ứng mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học và có khả năng áp dụng vào thực
tế giảng dạy.

Với học sinh, tác phẩm là sự thử thách với lối tiếp cận mang tính tổng hợp. Thực tế
cho thấy, học sinh thiếu hiểu biết về lí luận văn học, đặc trưng thể loại, thiếu sự đánh giá
tổng hợp về tác phẩm sẽ khơng có cách tiếp cận phù hợp hoặc không hiểu đúng bản chất
của việc tìm hiểu tác phẩm. Các em lúng túng khi chọn cách phân tích tác phẩm vì thiếu
kiến thức cơng cụ để khám phá tác phẩm. Khi không chủ động trong kiến thức, các em có
xu hướng tìm và phụ thuộc vào tài liệu tham khảo. Điều đó khiến các em mất đi sự cảm
nhận của cá nhân, mất hứng thú với tác phẩm và môn học.

Văn học sau 1975 hấp dẫn nhưng không dễ tiếp nhận bởi chiều sâu của tác phẩm.
Nhà văn không phát biểu trực tiếp mà để bạn đọc tự có khám phá riêng của mình. Với học

sinh THPT, vốn kiến thức và kinh nghiệm sống của các em chưa thật phong phú cũng là
mặt hạn chế trong tiếp nhận tác phẩm.

Như chúng ta đã biết, sau 1975, văn học đã có bước chuyển mình quan trọng: khuynh
hướng sử thi, lãng mạn giảm dần, thay vào đó là cảm hứng thế sự. Việc chọn các tác phẩm

10

thuộc giai đoạn 1975 - 2000 đưa vào chương trình cũng đồng thời đặt người giáo viên Ngữ
văn trước những áp lực nhất định. Ấy là một thứ áp lực nẩy sinh khi đối diện với những cái
mới, cái khác trong văn học. Ở đây, những tri thức đọc - hiểu (bao gồm tri thức văn học sử,
đặc trưng thể loại mà sách giáo khoa cung cấp),... là hết sức cần thiết, nhưng chưa đủ. Giáo
viên cũng có thể được gợi ý từ những nhận định của bài Khái quát Văn học Việt Nam từ
cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX ở hai bộ sách (cơ bản và nâng cao). Tuy
nhiên, do khuôn khổ của một bài khái quát, những luận điểm được nêu trong hai bộ sách
nói trên vẫn cịn rất chung chung, chưa thể cung cấp đầy đủ cho giáo viên những tiêu chí
nhận diện cái mới trong văn học sau 1975 so với trước đó, nhất là ở những thể loại cụ thể.
Điều này đòi hỏi giáo viên phải tự trang bị cho mình một vốn hiểu biết sâu rộng hơn, đặc
biệt là những gì liên quan đến sự khác biệt trong văn học hai thời kì (trước và sau 1975).
2.2. Sự đổi mới thể loại truyện ngắn trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu.
2.2.1. Khái quát về truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là truyện ngắn tiêu biểu của
văn học Việt Nam sau 1975. Tác phẩm thể hiện rõ đặc điểm của văn học thời kì đổi mới -
vận động theo khuynh hướng dân chủ hố, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc; Phát triển
đa dạng hơn về đề tài, chủ đề; phong phú và mới mẻ về thủ pháp nghệ thuật, cá tính sáng
tạo của nhà văn được phát huy; Khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và
phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh; đi
vào hành trình tìm kiếm bên trong, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những

hoàn cảnh phức tạp, đời thường; nói nhiều đến mặt trái của xã hội.

Chiếc thuyền ngoài xa cũng là một văn bản giàu giá trị thẩm mĩ – nghệ thuật, có ý
nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, có tính triết lí về con người, về nghệ thuật. Đọc - hiểu tác
phẩm này sẽ đem lại nhiều điều hứng thú, nhiều rung cảm thẩm mĩ cho học sinh.
2.2.2. Sự đổi mới khuynh hướng sáng tác trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là
một sự đổi mới hết sức căn bản.

Sự đổi mới này kéo theo sự thay đổi nhiều phương diện. Có thể thấy rõ điều này qua
hai truyện ngắn sau 1975 có mặt trong chương trình Ngữ văn 12 mà chúng ta đang đề cập.
So với Vợ chồng A Phủ (Tơ Hồi), Vợ nhặt (Kim Lân), Những đứa con trong gia
đình (Nguyễn Thi), Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), Đất (Anh Đức), thì tác phẩm Chiếc
thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu có nhiều nét khác biệt. Không hẹn mà gặp, hai
truyện ngắn này đều miêu tả hiện thực cuộc sống ngay sau chiến tranh. Ở Một người Hà
Nội, đó là những ngày tháng tiếp quản thủ đơ sau chiến thắng Điện Biên Phủ; ở Chiếc
thuyền ngồi xa, đó là sau năm 1975, đất nước thống nhất, chấm dứt ba mươi năm chiến
tranh tàn khốc. Trên cái nền thực tại ấy, vấn đề được đặt ra không còn là số phận của dân
tộc, của cộng đồng trong thử thách máu lửa, trong đấu tranh sinh tử, mất còn, mà là thân
phận con người trong cuộc sống đời thường. Nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà

11

văn, chi phối mọi phương diện của tác phẩm. Nói cách khác, quan niệm của nhà văn về
hiện thực và cách miêu tả hiện thực trong văn học đã có những đổi khác.

Đọc Chiếc thuyền ngồi xa, ta hồn tồn có thể hình dung bối cảnh cuộc sống được
các tác giả dựng nên, làm nền cho sự xuất hiện của các nhân vật. Ngoài bối cảnh chung của
lịch sử xã hội như đã nêu trên (hiện thực sau chiến tranh), độc giả còn được tiếp xúc với
các những mảnh đời cụ thể ở một vùng đất cụ thể. Đó là cuộc sống của một xóm chài ven
biển miền Trung, nơi mỗi gia đình cư ngụ trên một chiếc thuyền lưới vó (Chiếc thuyền

ngồi xa). Khơng thể tìm thấy ở đây những bức tranh cuộc sống được vẽ nên bởi niềm lạc
quan, tin tưởng, bởi dự cảm về một tương lai tươi sáng như những trang viết trước đây của
chính Nguyễn Minh Châu. Đọc truyện ngắn này, độc giả rất cần chú ý những không gian
được miêu tả, gắn với hoạt động, cách hành xử của các nhân vật trong gia đình, họ mạc,
bạn bè... Cuộc sống riêng tư phải được biểu hiện đầy đủ, trọn vẹn trong không gian đời tư,
và chỉ có trong khơng gian đời tư ấy, nhân vật mới bộc lộ rõ nét nhất bản chất, tính cách
của mình. Tương ứng với điều đó, con người được tái hiện trong những truyện ngắn này
khơng cịn là "con người chính trị", "con người mới" với bao nhiêu phẩm chất lí tưởng từng
được nói đến nhiều trong văn học trước 1975.

Cái nhìn của người đọc về thế sự, về cuộc đời cũng không chịu sự ràng buộc, rập
khn, mà bằng chính đơi mắt của mình. Cũng từ cách nhìn nhận riêng của mình về cuộc
sống, người đàn bà làng chài khốn khổ (Chiếc thuyền ngoài xa) đã lay động nhận thức của
những người như Phùng (người làm nghệ thuật) và Đẩu (người thực thi pháp luật): "Lòng
các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được
cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...". Những suy nghĩ, phát ngơn như thế là
kết quả của sự tự ý thức sâu sắc về bản thân, về cuộc sống, hoàn toàn khác với những nhân
vật được "bao cấp tư tưởng" phổ biến trong nền "văn học minh họa" mà Nguyễn Minh Châu
từng "đọc lời ai điếu".

Hiện thực mà chúng ta đang đề cập tới trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu là hiện thực chú trọng đến chuyện miếng ăn, chuyện làm ăn của con
người. Trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, đói khổ, cùng cực,
túng quẫn, vất vả, lam lũ, thiếu đói trở đi trở lại như những điệp khúc xót xa được người
đàn bà làng chài nói lên bằng sự trải nghiệm cay đắng. Thật cô cùng, ám ảnh: chi tiết những
ngày động biển, "cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối". Đặt
chi tiết này vào bối cảnh cuộc sống những năm sau chiến thắng lịch sử 1975, ta càng hiểu
thêm dụng tâm của tác giả. Cách mạng dĩ nhiên là hết sức cao cả, vĩ đại, nhưng thân phận
của con người cũng đâu có vơ nghĩa, nhỏ nhoi. Có những điều tưởng tầm thường, nhỏ nhặt,
hóa ra lại rất hệ trọng, to tát đối với con người. Hạnh phúc hay bi kịch của đời người có khi

bắt đầu từ những "tiểu tiết", từ chuyện không đâu như miếng cơm manh áo. Trước cách
mạng, Nam Cao từng thấm thía điều đó. Văn chương thế sự khác biệt với văn chương sử
thi chính từ những chi tiết "vụn vặt" ấy.

12

2.2.3. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa có sự đối thoại, dân chủ trong quá trình
phản ánh hiện thực.

Nếu văn học trước 1975 thường có xu hướng đơn nhất, thống nhất về ý nghĩa, thì,
tính mơ hồ, đa nghĩa lại là đặc điểm khá nổi bật của các tác phẩm văn học đổi mới. Ở đây,
kiểu cắt nghĩa giản đơn, một chiều, sự độc quyền chân lí khơng cịn chỗ đứng. Ngược lại,
nó mời gọi nhiều lối tiếp cận, nhiều cách đọc, cách diễn dịch khác nhau.

Tính chất "mở" thể hiện trước hết ở những nghịch lí mà nhà văn miêu tả trong tác
phẩm. Những quan hệ nhân - quả hợp lí giữa các sự kiện như thường thấy trong văn học
trước đây đã bị thay thế bằng những quan hệ bất thường, thách đố sự biện giải lí tính.

Đọc Chiếc thuyền ngồi xa, thật khó hiểu được do đâu mà người đàn ông làng chài
lại có hành động tàn nhẫn đến mức kì qi như thế với vợ. Nó khơng diễn ra theo kiểu bột
phát, tức thì hoặc như một thứ phản xạ bản năng thường thấy ở những kẻ vũ phu. Người
chồng ở đây có những biểu hiện thật dị thường. Hắn đủ kiên nhẫn đi theo vợ đến một quãng
xa con thuyền rồi mới ra tay. Đánh vợ mà như báo thù, như một kiểu "thi hành án". Đánh
vợ mà cứ đều đặn "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" như đã được lên lịch
sẵn. Lạ hơn, đó là kiểu đánh mà hắn đã "gia ơn" cho vợ khi chị ta xin hắn khơng phải chịu
địn trên thuyền, trước mặt đàn con. Có một cái gì thật qi đản, rất khó lí giải, cũng như
khơng thể biện minh bằng bất cứ lí do gì.

Nếu sự hung hãn, vũ phu của người chồng là điều cực kì khó hiểu, thì sự cam chịu,
nhẫn nhục của người vợ cũng khơng dễ lí giải hơn. Dù bị chồng xúc phạm nặng nề, đánh

đập tàn nhẫn, người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ chấp nhận như một kiểu "chịu nạn". Hơn thế, khi
tòa cho rằng, trường hợp này khơng thể hịa giải, chỉ có một giải pháp "tối ưu" là chị phải
từ bỏ người đàn ông độc ác ấy, những tưởng chị sẽ cảm thấy nhẹ người, nào ngờ chị ta bỗng
hốt hoảng. Chứng kiến những điều lạ lùng ấy, Đẩu và Phùng đồng thanh thốt lên: "Khơng
thể nào hiểu được !". Có lẽ đó cũng là phản ứng, thái độ của số đông độc giả trước cảnh
ngộ của người đàn bà làng chài - nhân vật chính trong truyện.

Tuy nhiên, thể hiện những nghịch lí cuộc sống, Nguyễn Minh Châu muốn cho độc
giả thấy rằng, cuộc sống thực ra không hề đơn giản như ta vẫn nghĩ. Nó chứa đựng nhiều
góc khuất, nhiều bí ẩn địi hỏi phải được khám phá. Và thực tế, trong tác phẩm của mình,
nhà văn đã "thể nghiệm" một số "phương án". Chẳng hạn, thói vũ phu của người chồng,
nếu như dưới cái nhìn nghiêm khắc của Phùng và Đẩu là đáng lên án, dưới ánh mắt phẫn
nộ của thằng Phác là đáng trừng trị, thì với người vợ - nạn nhân, đó là điều có thể thơng
cảm. Cũng vậy, nhìn một cách khách quan, theo lẽ thường tình, sự nhẫn nhục của người
đàn bà là hết sức phi lí, nhưng nếu ta thử đặt mình vào cảnh ngộ của chị để tìm lối thốt,
thì mới thấy sự thể khơng dễ dàng như ta vẫn tưởng.

Luận đề nghệ thuật - một trong những nội dung quan trọng của tác phẩm - cũng gợi
mở nhiều cách hiểu khác nhau. Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa có ý nghĩa gì? Bức ảnh ghi
lại vẻ đẹp hài hịa đến mức lí tưởng của chiếc thuyền trong sương sớm tương phản bất ngờ
với sự tàn bạo ghê gớm cũng như nỗi đau khổ tận cùng của những con người bước ra từ

13

chính chiếc thuyền ấy, phải chăng đã nói lên cái khoảng cách muôn thuở giữa nghệ thuật
và cuộc sống? Cái đẹp cao cả của nghệ thuật có thể đánh thức những cảm xúc thánh thiện
của tâm hồn, nhưng phải chăng nó vẫn cứ xa cách và bất lực trước thực tế trụi trần, nham
nhở của những kiếp nhân sinh? Hay nghệ thuật dù kì diệu đến đâu cũng khó mà ôm trùm
được mọi khía cạnh phức tạp, đa chiều của muôn mặt cuộc đời? Tại sao người nghệ sĩ mỗi
lần ngắm kĩ bức ảnh đen trắng của mình lại thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương

mai? Và, cuối cùng, tất cả những ý nghĩa của luận đề nghệ thuật ấy phải chăng đã được
Nguyễn Minh Châu ý thức đầy đủ và kín đáo gửi gắm vào tác phẩm bằng "thi pháp gói
rào"? Mỗi câu hỏi như thế có thể tìm thấy bao nhiêu câu trả lời, và hình như khơng có câu
trả lời nào là duy nhất đúng.

Tuy nhiên, chính những vấn đề nêu trên sẽ mở ra khả năng đối thoại cho học sinh -
điều rất thú vị và cũng hết sức cần thiết đối với công việc dạy đọc - hiểu văn bản hiện nay,
khi tính tích cực chủ động của người học đang đòi hỏi phải được phát huy.
2.2.4. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngồi xa có kiểu nhân vật kể chuyện độc đáo - sự đổi
mới về điểm nhìn trần thuật.

Câu chuyện về gia đình làng chài được kể bằng lời của Phùng - người chứng kiến.
Kiểu nhân vật kể chuyện này dễ gây cảm giác về tính xác thực, tính khả tín của câu chuyện.
Qua lời kể của nhân vật khiếm diện này, mọi ngóc ngách cuộc sống, kể cả nội tâm con
người đều được soi tỏ, thấu suốt. Hẳn tác giả có chủ ý khi khước từ phương thức trần thuật
này. Không chọn kiểu nhân vật kể chuyện toàn tri, dường như Nguyễn Minh Châu ý thức
rằng, cuộc sống là phong phú vô tận cũng như con người chứa đựng bao nhiêu bí ẩn, mọi
nỗ lực tái hiện nó bằng văn học dù sao cũng chỉ là kết quả một cách nhìn. Khơng thể xác
quyết rằng, đó là cách nhìn duy nhất đúng, cách nhìn duy nhất có ý nghĩa. Chính cách xử lí
nghệ thuật này đã góp phần mở rộng thêm tính chất đối thoại của tác phẩm, và do vậy, ý
nghĩa của nó sẽ được nhân lên theo khả năng "đọc" của học sinh trong quá trình tiếp nhận.
3.3. Một số phương pháp và hình thức tổ chức – dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu từ sự đổi mới thể loại.

Có nhiều cách để khai thác một văn bản truyện, từ đó mà có rất nhiều hướng dạy
học văn bản Chiếc thuyền ngoài xa. Cách nào để đem lại hứng thú cho học sinh, làm thế
nào để nâng cao hiệu quả phát triển năng lực cho người học trong dạy học Ngữ văn, đó vẫn
là những trăn trở, thơi thúc giáo viên tìm tịi những hướng đi mới trong từng văn bản cụ
thể. Như vậy qua việc tìm hiểu những đổi mới của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa chúng
ta nhận thấy rằng: Dạy học cho học sinh, nhất là học sinh lớp 12, việc nhìn nhận và đánh

giá về cuộc sống hiện thực đã có ít nhiều từ việc học các tác phẩm trong nhà trường, thì
hướng tiếp cận tác phẩm theo thể loại là một trong những hướng đi có tính khả. Và để tài
được thực hiện thuận lợi thì cần phải có phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù
hợp, tạo tính tích cực trong quá trình tiếp nhận của học sinh.

Ở trong đề tài này, chúng tơi đã vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học sau:

14

2.1. Dạy đọc – hiểu:
Dạy đọc – hiểu hướng đến việc cung cấp cho HS cách đọc, cách tiếp cận, khám phá

những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho HS năng lực tự
đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc – hiểu của HS phải
được thực hiện theo trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc
đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi gợi liên tưởng, tưởng
tượng và tư duy. Dạy cách đọc – hiểu văn bản nghệ thuật, GV cần hướng dẫn HS đọc –
hiểu theo đặc trưng thể loại.

Các nhiệm vụ cơ bản của người học khi đọc – hiểu:
- Tìm kiếm thông tin từ văn bản.
- Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối…thông tin để tạo nên hiểu biết
chung về văn bản.
- Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
- Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn bản
khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi gợi dẫn thảo luận kết hợp với phương pháp giảng bình.
- Hệ thống câu hỏi gợi dẫn vừa theo mạch tư duy lô gich: đi từ điều đã biết đến cái
chưa biết, từ dễ đến khó, đồng thời gởi mở theo quy luật tiếp nhận văn chương đi từ những

xúc cảm, trăn trở, thể nghiệm đến liên tưởng, chiêm nghiệm, nhận thức,...; từ lớp nghĩa bề
nổi đến tầng nghĩa sâu xa của văn bản nghệ thuật.
- Kết hợp giảng bình của giáo viên và tạo cơ hội cho học sinh được giảng bình khi
hứng thú. Giảng bình vốn là phương pháp không thể thiếu để làm nên sự truyền cảm, chất
văn, thổi “lửa” cho mỗi giờ học văn.
- Những điểm sáng HS cần giảng bình trong Chiếc thuyền ngồi xa:
+ Chi tiết người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn
+ Chi tiết người đàn bà câm lặng, nhịn nhục chịu đựng đòn roi
+ Những hình ảnh biểu trưng và sự thức nhận đau đớn về bao giá trị sống của nghệ
sĩ Phùng, chánh án Đẩu. Cùng với việc xây dựng tình huống là những hình ảnh biểu trưng
có sức gợi, sức kết lắng ý nghĩa tư tưởng lớn. Trong Chiếc thuyền ngồi xa, những hình
ảnh biểu tượng ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa và chính những hình ảnh này kết lắng và chứa
đựng chủ đề tư tưởng tác phẩm.
2.3. Dạy tích hợp:
Dạy học tích hợp lấy chủ thể người học làm xuất phát điểm và đích đến, trong đó
tích hợp là việc tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho học sinh có thể huy động
nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ
học tập, thơng qua đó lại hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, từ đó phát triển được
những năng lực cần thiết. Trong môn học Ngữ văn, dạy học tích hợp là việc tổ chức các nội
dung của các phân môn văn học, tiếng Việt, làm văn trong các bài học, giúp HS từng bước
nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các

15

kiểu loại và phương thức biểu đạt. Phương pháp tích hợp khơng chỉ có tác dụng củng cố
kiến thức cũ và định hướng giáo dục tư tưởng, lối sống còn cho người hoc.

Để HS có cái nhìn liên hệ, so sánh, tìm kiếm vẻ đẹp chung, sự sáng tạo riêng và hình
thành cho HS năng lực tư duy, suy cảm thẩm mĩ, khi dạy Chiếc thuyền ngồi xa chúng tơi
thường tích hợp với những vấn đề sau:


- Kiến thức lịch sử đời sống trước và sau 1975.
- Giá trị và hạn chế của văn học giai đoạn 1945 – 1975, tinh thần đổi mới văn học sau 1975,
một số tác phẩm cùng cảm hứng luận đề của Nguyễn Minh Châu sau 1975 như Bức tranh,
Bến Quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,...

- Những tác phẩm văn học có ý nghĩa tun ngơn nghệ thuật đã học và sẽ học như
Vũ Như Tô, Chữ người tử tù, Đàn ghi ta của Lorca,...

- Lí luận về bản chất, đặc trưng của văn học nghệ thuật.
Tùy theo hiện trạng tâm lí, tính cách, kiến thức vốn có và năng lực tiếp nhận, hứng
thú tiếp nhận của đối tượng học sinh cụ thể để triển khai những nội dung trên có hiệu quả..
2.4. Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan trọng
ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp, có vấn đề, cần
huy động sự suy nghĩ, hợp tác của nhiều người trong giải quyết vấn đề.
Những vấn đề có thể gợi mở cho học sinh thảo luận khi đọc – hiểu Chiếc thuyền
ngoài xa – Nguyễn Minh Châu:
- Hai phát hiện của Phùng (Tìm điểm giống và khác của hai bức tranh hiện thực khi
chiếc thuyền ở xa và khi vào gần;...)
- Những chuyển biến về nhận thức của Phùng và Đẩu
- Ý nghĩa chi tiết “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên
đạn bắn vào người đàn ơng vồ bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ
xuống những dịng nước mắt” (Chiếc thuyền ngồi xa – Nguyễn Minh Châu), liên hệ với
chi tiết “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Cịn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của
bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân).
- Ý nghĩa chi tiết Tấm ảnh nghệ thuậttrong bộ lịch năm ấy…, liên hệ với hình ảnh
Cửu Trùng Đài trong “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích Vũ Như Tơ – Nguyễn Huy Tưởng).
Tùy vào từng đối tượng học sinh cụ thể, lượng thời gian cho phép và tính chất, mức

độ vấn đề thảo luận để giáo viên lựa chọn thảo luận cặp đơi, cặp 3, nhóm trung bình (4 – 6
HS).
Chương 3: Thực nghiệm.
3.1. Thiết kế bài giảng thực nghiệm.
Ngày soạn:
Ngày giảng:
Tiết thứ: 70, 71

16

ĐỌC VĂN: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
-Nguyễn Minh Châu-

I. Mức độ cần đạt
1. Kiến thức :
a/ Nhận biết: HS nhận biết, nhớ được tên tác giả và hoàn cảnh ra đời của các tác

phẩm.
b/ Thơng hiểu: HS hiểu và lí giải được hồn cảnh sáng tác có tác động và chi phối

như thế nào tới nội dung tư tưởng của tác phẩm.
c/Vận dụng thấp: Khái quát được đặc điểm phong cách tác giả từ tác phẩm.
d/Vận dụng cao:
- Vận dụng hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để phân tích giá trị

nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn xuôi thời hậu chiến;
2. Kĩ năng :
a/ Biết làm: bài nghị luận về một đoạn trích văn xuôi, về 1 ý kiến bàn về văn học;
b/ Thông thạo: các bước làm bài nghị luận văn học
3.Thái độ :

a/ Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại;
b/ Hình thành tính cách: tự tin , sáng tạo khi tìm hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại;
c/Hình thành nhân cách:
- Biết nhận thức được ý nghĩa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam sau 1975 trong

lịch sử văn học dân tộc;
- Có ý thức tìm tịi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh, tình huống truyện… trong truyện

hiện đại Việt Nam .
II. Trọng tâm

1.Kiến thức
- Những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật: phải nhìn
nhận cuộc sống và con người một cách đa diện; nghệ thuật chân chính ln gắn với cuộc
đời, vì cuộc đời.
- Tình huống truyện độc đáo, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.Điểm
nhìn nghệ thuật đa chiều. Lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba.

2. Kĩ năng
Đọc- hiểu truyện ngắn hiện đại.
3. Thái độ:

Cảm thông với nỗi bất hạnh, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ thời hậu
chiến, lên án nạn bạo hành gia đình.

4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm truyện ngắn hiện đại Việt Nam.

17


- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về truyện ngắn hiện đại Việt

Nam.

- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về giá trị tư tưởng và nghệ thuật truyện

của Nguyễn Minh Châu;

- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của truyện hiện hiện đại VN trước và sau

1975;

- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học.

III. Chuẩn bị

1/Thầy

- Giáo án

- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi

- Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh, phim về nhà văn Nguyễn Minh Châu;

- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp

- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà

2/Trò


- Đọc trước ngữ liệu trong SGK để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài

- Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (do giáo viên giao từ tiết trước)

- Đồ dùng học tập

IV. Tổ chức dạy và học.

1. Ổn định tổ chức lớp:

- Kiểm tra sĩ số:

12A5: ………………………………..

12A2…………………………………

2. Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra việc soạn bài của học sinh( 5 phút)

3. Tổ chức dạy và học bài mới:

 1. KHỞI ĐỘNG ( 5 phút)

Chuẩn kiến thức

Hoạt động của Thầy và trò kĩ năng cần đạt,
năng lực cần phát

triển


- GV giao nhiệm vụ: - Nhận thức được

+Trình chiếu tranh ảnh, cho hs xem tranh ảnh (CNTT) nhiệm vụ cần giải

quyết của bài học.

- Tập trung cao và
hợp tác tốt để giải
quyết nhiệm vụ.

18

- Có thái độ tích
cực, hứng thú.

* HS:
+ Nhìn hình đốn tác phẩm của nhà văn Nguyễn Minh Châu
- HS thực hiện nhiệm vụ:
+ Thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm khi xây dựng nhân vật này là
gì? (Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn bến quê của Nguyễn Minh Châu.
Từ cuộc đời của Nhĩ tác giả muốn giửi đến người đọc thơng điệp: cần
biết trân q cuộc sống này, cả những điều nhỏ nhặt nhất, khi còn có
thể).

Từ đó, giáo viên giới thiệu Vào bài: Sau năm 1975, miền Nam
được giải phóng, Bắc Nam đã sum họp một nhà, đất nước Việt Nam
bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong hồ bình. Điều đó cũng
đã mở ra cho văn học những tiền đề mới. Nhiều nhà văn đã trăn trở,
tìm tịi hướng đi mới cho văn học: Khám phá đời sống ở phương diện
đời thường, trên phương diện đạo đức, thế sự. Một trong những cây bút

tiên phong mở đường tinh anh và tài năng nhất là nhà văn Nguyễn Minh
Châu. Ta đã gặp một Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn đầy nghịch
lý “Bến quê” và một lần nữa ta lại được tìm hiểu một truyện ngắn xuất
sắc khác của ơng – truyện ngắn “Chiếc thuyền ngồi xa”.

 2. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC( 70 phút)

Hoạt động của GV - HS Kiến thức cần đạt Năng lực
cần hình
Họat động 1: TÌM HIỂU CHUNG I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả- Nguyễn Minh Châu: 1930- thành
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần 1989.
Tiểu dẫn. (Chiếu ảnh Nguyễn Minh -Năng lực
Châu) thu thập
thông tin.

19

(?) Bằng hiểu biết của mình, em hãy - Quê quán: làng Thơi, huyện Quỳnh -Năng lực
trình bày những nét chính về tiểu sử, Lưu, tỉnh Nghệ An. giải quyết
cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của - Cuộc đời: Đầu năm 1950: ông gia những tình
nhà văn Nguyễn Minh Châu? nhập quân đội; từ 1952 đến 1958, ông huống đặt ra.
- GV chốt lại các ý chính và u cầu cơng tác và chiến đấu tại sư đoàn 320;
học sinh gạch chân trong SGK. năm 1962, ơng về phịng Văn nghệ Năng lực
quân đội, tạp chí Văn nghệ quân đội. giao tiếp
GV yêu cầu HS nêu HCST? - Sự nghiệp sáng tác: tiếng Việt
(Chiếu cảnh chiếc thuyền ngoài xa) + Trước năm 1975 là ngòi bút sử thi có
- Giáo viên: Tích hợp kiến thức thiên hướng trữ tình lãng mạn;
Lịch sử: (?) Vận dụng kiến thức lịch + Từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX
sử Việt Nam từ sau năm 1975 - thời chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với

hậu chiến, căn cứ vào tình hình xã những vấn đề đạo đức và triết lí nhân
hội, em hãy giải thích tác động của sinh; ông được xem là cây bút mở
lịch sử lúc bấy giờ đến sáng tác của đường tinh anh của văn học thời kì đổi
văn học các tác giả nói chung, của mới.
Nguyễn Minh Châu nói riêng? 2. Tác phẩm
- Sáng tác tháng 8/ 1983, lúc đầu in
(?) Học sinh tóm tắt những nét chính trong tập Bến quê, sau đó lấy làm tên
của tác phẩm Chiếc thuyền ngồi chung cho một tập truyện ngắn.
xa? - Chiếc thuyền ngồi xa tiêu biểu cho
Tích hợp kiến thức Lịch sử, địa lí: xu hướng chung của VHVN thời kì đổi
+ Nghệ sĩ Phùng trở lại chiến trường mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số
xưa A So, một vùng thuộc miền phận cá nhân và thân phận con người
Trung, cách Hà Nội 600 cây số. trong cuộc sống đời thường.
+ Cuộc sống của người dân vùng a. Tóm tắt tác phẩm
biển .
- GV nhận xét và chốt lại những ý
chính.

b. Bố cục
20


×