Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học vai trò của đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.6 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN

MÔN: CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI
Đề tài:

VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN 5
1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân......5
1.2. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấpcơng nhân.....................................................................................................7
CHƯƠNG 2. VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN......13
2.1. Luận cứ lý luận.........................................................................................13
2.2. Luận cứ thực tiễn.....................................................................................16
CHƯƠNG 3. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ CỦNG CỐ, TĂNG CƯỜNG....21
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỀN NAY.....................................................................................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................23

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Trong giai đoạn mới hiện nay, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện


đại hố đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong
thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới cịn đang
có nhiều biến động, tiêu cực... thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả
trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản
nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác -
Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát triển hết sức hoàn thiện trong
trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương diện lịch
sử, những nhận định và lý luận của các ơng về giai cấp cơng nhân có
tác dụng to lớn và đúng đắn.Còn đối với nước ta, vấn đề trên được
Đảng ta rất chú trọng.

Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ thể
hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc, mà đây còn là
một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà
nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên. Sự tác
động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hưởng
tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế
này sang hình thái kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế
độ kinh tế khác ... mà cịn làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội
trên tồn thế giới, nó tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt
phát triển của thế giới.

Từ những thực tiễn đặt ra, vấn đề nghiên cứu sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng
là vơ cùng cần thiết. Đó là lý do tơi chọn đề tài: “Vai trò của Đảng


1

Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân”, làm đề tài nghiên cứu.

Đề tài của tơi vẫn cịn nhiều thiếu sót, cần bổ sung, kính mong
quý thầy cơ góp ý và nhận xét để bài viết này hoàn thiện hơn.

2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, có thể liệt

kế một số các trình như sau:
“Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn

hiện nay” ( Luận văn thạc sĩ);
“luận điểm cơ bản của Lêninvề Đảng kiểu mớicủa giai cấp công

nhân” .
Tài liệu Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo giai cấp công nhân

trong những năm 1986-2011.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ cơ sở về vấn đề vai trò của Đảng Cộng sản trong quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích và làm sáng tỏ vai trị của Đảng Cộng sản trong quá

trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân trên thế nói
chung và ở Việt Nam nói riêng;

- Chỉ ra và đánh giá thực trạng vai trò của Đảng Cộng sản trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân;

- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao về vai
trị của Đảng Cộng sản trong q trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trong thời gian tới – cụ thể là Đảng Cộng sản Việt
Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

2

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của Đảng Cộng sản
trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân ở Việt Nam hiện nay.

Về không gian, thời gian: Khảo sát từ năm 2015 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận


Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan điểm về vai trò của Đảng Cộng
sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu và có sự phối
hợp giữa chúng khi nghiên cứu, đó là các phương pháp cơ bản sau đây:
Phương pháp phân tích; lịch sử, so sánh; tổng hợp và khảo cứu tài
liệu…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về vai
trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, cụ
thể là vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
cách mạng tại Việt Nam hiện nay.
6.2. Thực tiễn của đề tài

Đề tài đưa ra những giải pháp, những kiến nghị làm cơ sở thực
tiễn về vị trí, chức năng, vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong quá trình Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện

3

sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – là đội tiên phong lãnh đạo
cách mạng, đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghiã.
7. Kết cấu của đề tài


Bài tiểu luận ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thi có
ba phần: Phần mở đầu, nội dung và kết luận.

Phần mở đầu gồm: Lý do chọn đề tài; mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu; đối tượng và phạm vi nghiên cứu; cơ sở lý luận và phương
pháp nghiên cứu; Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài; kết cấu của
tiểu luận.

Phần nội dung gồm ba phần, cụ thể:
- Chương 1. Cơ sở vấn đề lý luận về giai cấp công nhân;
- Chương 2. vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân;
- Chương 3. Những biện pháp để củng cố, tăng cường sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.

4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1.1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân.
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân

Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu
xem giai cấp vơ sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân
nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử “. Để chỉ giai cấp
công nhân, các nhà kinh điển dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô
sản, giai cấp xã hội, giai cấp cơng nhân ... hồn toàn chỉ dựa vào việc
bán sức lao động của mình và lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp
vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại

công nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm.

Trong các thuật ngữ này, tuỳ từng điều kiện mà ta sử dụng. Tuy
nhiên, các thuật ngữ đó đều nói lên: Giai cấp công nhân- con đẻ của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Ngoài các thuật
ngữ trên, C.Mác và Ph.Ăngghen cịn dùng những thuật ngữ có nội dung
hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau, trong các
giai đoạn khác nhau của cơng nghiệp như: cơng nhân cơ khí là cơng
nhân làm trong ngành cơ khí; cơng nhân dệt là cơng nhân làm trong
ngành dệt; công nhân công trường thủ công là công nhân làm trong các
công trường; công nhân nông nghiệp là công nhân làm trong ngành
nơng nghiệp có sử dụng các trang thiết bị của công nghiệp ...

Mặc dù các thuật ngữ trên có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào
đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen chúng vẫn chỉ mang hai thuộc tính
căn bản.

5

Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai
cấp công nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ
sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.

Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là
những người lao động khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.

Trong hai tiêu trí này, C.Mác và Ph.Ăngghen tới tiêu chí một đó
là công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp

công nhân hiện đại. Hai ông cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vô
sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một
phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... cơng nhân
Anh là đứa con đầu lịng của nền đại cơng nghiệp hiện đại”.

Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn
mạnh vì chính điều này khiến cho người cơng nhân trở thành giai cấp
đối kháng với giai cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên
thì giai cấp vơ sản, giai cấp cơng nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có
thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc
làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản- cũng phát triển theo.
Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một,
là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món
hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi
sự lên xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những
đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp cơng nhân dưới chế độ tư bản, do đó
C.Mác và Ph.Ăngghen cịn gọi giai cấp cơng nhân là giai cấp vơ sản.

Tóm lại, có thể nói rằng, những quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp cơng nhân cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta
nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ

6

mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Từ hai
tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp cơng nhân là một tập đồn
xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với q trình hình thành
và phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của

lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hố ngày càng cao; là lực lượng
sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội”.

1.2. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch
sử của giai cấpcông nhân

1.2.1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất hiện đại, lực
lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, đại biểu
cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về
mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao
động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp
bức, bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm chống Đuyrinh khi nói về vai trị lịch sử của
giai cấp công nhân, Ăngghen chỉ rõ: “ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy,
nếu không sẽ bị diệt vong “ và “ thực hiện sự nghiệp giải phóng ấy, đó
là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại “
Mác và Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết
để giai cấp cơng nhân hồn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
Lênin chỉ rõ: “ điểm chủ yếu trong học thuyết Mác là ở chỗ nó làm

7

sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã

hội xã hội chủ nghĩa”

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải trải qua hai bước:
bước thứ nhất, “ Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và
biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước”, thứ hai “…giai
cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vơ sản, chính vì thế
mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp,
và cũng xóa bỏ nhà nước với tư cách nhà nước”. Hai bước này quan hệ
chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ
nhất thì cũng khơng thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai là
quan trọng nhất để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của
mình.

Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân
phải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới về mọi mặt từ kinh tế tới chính trị và văn hóa, tư tưởng.

Tiến lên một xã hội khơng cịn giai cấp và thực hiện được
ngun tắc bình đẳng lý tưởng “ làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu” như Mác dự báo là một quá trình khó khăn phức tạp, lâu dài.
Trong q trình tiến lên một xã hội như vậy giai cấp công nhân gặp vơ
cùng khó khăn, gặp phải sự chống đối quyết liệt của kẻ thù giai cấp,
gặp phải tính tự phát của người sản xuất nhỏ,…

1.2.2. Những điều kiện khách quan
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trị
lịch sử của giai cấp cơng nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó
hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết đã chứng minh sứ

mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều
kiện kinh tế, xã hội khách quan.

8

1.2.2.1. về địa vị kinh tế - xã hội
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự
hình thành phát triển của nền đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa, được
nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực
lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp càng phát triển, tập trung làm
phá sản những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ xung lực lượng cho giai
cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ xung lực
lượng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lượng lao động từ nhiều
ngành, nhiềunghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản thân sự
phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng người lao
động, tập thể lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng
nhất
trong các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội
tư bản. Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã
hội hoá ngày càng cao. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên
nền tảng của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà giai cấp
tư sản là đại diện. Bởi thế, ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
hố ngày càng cao (mà giai cấp cơng nhân là đại diện) với quan hệ sản
xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư sản là đại diện).
Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và khơng thể khắc phục được nếu
khơng xố bỏ đợc chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của
mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp

tư sản. Sự vận động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản
và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Như vậy giai cấp công nhân gắn liền

9

với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền sự phát triển của công nghiệp

ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế tri thức.

Do khơng có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức

lao động

làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hồn

tồn vào q trình phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong

nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp cơng nhân bị tồn bộ giai cấp tư

sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, khơng có

quyền trong tổ chức, điều hành lao động, phân phối sản phẩm lao động.

Do đó giai cấp cơng nhân khơng được làm chủ trong xã hội tư bản chủ

nghĩa. Họ bị bần cùng hố so với giai cấp tư sản (bị bóc lột trong q

trình sản xuất, ngồi q trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều sâu).


Giai cấp công nhân hiện nay ở các nớc tư bản có đời sống vật

chất cao vẫn bị bóc lột, bần cùng hố theo đúng nghĩa của nó. Cơng

nhân có cổ phần, tức là đã ra nhập vào quá trình sản xuất, điều hành sản

xuất đó là cơng nhân tư bản nhân dân nhưng con số này vẫn còn rất

khiêm tốn. Còn ở các nớc tư bản phá triển, cơng nhân bị bóc lột cao

hơn rất nhiều, từ 200% tới 300% và sự chênh lệch giàu nghèo cũng khá

cao. Trong tất cả các giai cấp đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có

giai cấp cơng nhân là thực sự cách mạng vì nó là sản phẩm của nền đại

công nghiệp, đại diện cho lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hố

ngày càng cao, và nó lao động trong nền đại cơng nghiệp với trình độ

công nghệ ngày càng hiện đại và sản xuất ra tuyệt đại của cải cho xã

hội.

Từ địa vị giai cấp công nhân và giai cấp cơng nhân có lợi ích cơ

bản thống nhất với lợi ích của đơng đảo nhân dân lao động đã tạo điều

kiện cho giai cấp cơng nhân đồn kết với giai cấp khác, đi đầu trong


công cuộc đấu tranh để thực hiện q trình giải phóng dân tộc, giải

phóng xã hội. Họ có khả năng đồn kết giai cấp khác (tất cả giai cấp vô

10

sản) vì giai cấp cơng nhân: có cùng lợi ích cơ bản, thống nhất nhau do
bị bóc lột giá trị thặng dư; cùng tồn tại trong một môi trường sản xuất
nhau có tính chất cơng nghiệp thậm chí dịch vụ; có cùng tư bản trong
nước và quốc tế bóc lột; có cùng mục tiêu, sứ mệnh lịch sử tiêu diệt tư
sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1.2.2.2. Về đặc điểm chính trị - xã hội
Từ địa vị kinh tế - xã hội nêu trên đã tạo cho giai cấp cơng nhân
có những đặc điểm chính trị - xã hội mà những giai cấp khác khơng thể
có được, đó là những đặc điểm sau đây:
Một là: Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa, phương thức sản xuất gắn liền với nền khoa học cơng nhiệp
hiện đại; gia cấp cơng nhân có hệ tư tưởng tiên phong của thời đại ngày
nay là tư tưởng Mác-Lênin mang tính cách mạng và khoa học. Chủ
nghĩa Mác-Lênin được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên, những tri thức tiên tiến nhất của thời
đại. Giai cấp công nhân khơng chỉ tiên phong trong lý luận mà cịn tiên
phong trong hành động, luôn luôn đi đầu trong moik phong trào cách
mạng, bằng hành động tiên phong của mình mà lôi kéo các giai cấp,
tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
Hai là: Giai cấp cơng nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng
triệt để nhất

Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần
cách mạng trong thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi
giai cấp này đã giành được chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng đi với giai
cấp tư sản trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. khác với giai cấp tư
sản, giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, lại bị

11

giai cấp tư sản bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với
lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế
độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy, họ chỉ có thể được giải phóng
bằng cách giải phóng tồn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã chỉ
rõ: “ trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì
chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng…

Các tầng lớp trung đẳng là những nhà tiểu công nghiệp, tiểu
thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp
tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng lớp
trung đẳng. cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ “.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân
không gắn với tư hữu, do vậy, họ cũng kiên định trong công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống chế độ áp bức, bóc
lột, xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất.

Ba là: Giai cấp cơng nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật

cao

Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại cơng nghiệp
với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc
khẩn trương, buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao
động, cùng với cuộc sống đơ thị đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt
chẽ của giai cấp công nhân.

Khi giai cấp công nhân tham gia vào các tổ chức nghiệp đồn,
cơng đồn, tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản cũng
địi hỏi giai cấp này phải có ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ. Nhất là khi
giai cấp công nhân được sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, tổ chức ra
đảng cộng sản thì ý thức tổ chức kỷ luật lại càng được nâng lên. Giai

12

cấp cơng nhân khơng có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì khơng thể giành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.

Bốn là: Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế
Chủ nghĩa Mac-Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng
quốc tế, giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính
nước họ mà cịn bóc lột giai cấp cơng nhân ở các nước thuộc địa. Ngày
nay, voiứ sự phát triển mạnh mẽ của lực lường sản xuất, sản xuất mang
tính tồn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước khác là
một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước
sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng
doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa
phong trào cơng nhân các nước. Có như vậy, phong trào cơng nhân mới

có thể giành được thắng lợi. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: “cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình
thức đấu tranh dân tộc”. Sau này Lênin chỉ rõ: “…khơng có sự ủng hộ
của cách mạng quốc tế thì thắng lợi của cách mạng vơ sản khơng thể có
được” vì “tư bản là một lực lượng quốc tế”. Muốn thắng nó cần có sự
liên minh quốc tế.

13

CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

2.1. Luận cứ lý luận
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp này qui định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành
hiện thực thì phải thơng qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân.
Trong những nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập đảng cộng sản, một
đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định
nhất đảm bảo cho giai cấp cơng nhân hồn thành được sứ mệnh lịch sử
của mình.
2.1.1. Tính tất yếu và qui luật hình thành, phát triển chính
đảng của giai cấp công nhân
Trong thực tế lịch sử, phong trào của công nhân chống lại giai
cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát
triển, theo qui luật có áp bức có đấu tranh. Mặc dù phong trào cơng
nhân có thể phát triển về số lượng, qui mơ cuộc đấu tranh có thể được
mó rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì khơng có một hệ thống lý
luận soi đường. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt đến trình độ tự giác

bằng cách tiếp thu lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin thì lúc đó phong trào cách mạng của giai cấp này mới thật sự là
phong trào mang tính chất chhính trị.
Khi Đảng Cộng sản ra đời, thông qua sự tuyên truyền, giác ngộ
của Đảng làm cho giai cấp cơng nhân nhận thúc được vị trí của mình
trong xã hội, hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, từ
đó, đứng lên tập hợp nhân dân lao động thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa
tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng tồn xã hội và tổ chức xây
dựng xã hội mới về mọi mặt. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là điều kiện

14

để giai cấp cơng nhân hồn thành được sứ mệnh lịch sử của mình,
nhưng giai cấp cơng nhân có thực hiện được vai trị của mình hay
khơng cịn tùy thuộc vào sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng
Cộng sản vào phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin có chiến
thắng được các trào lưu xã hội - dân chủ và những trào lưu cơ hội chủ
nghĩa hay không.

Đảng Cộng sản muốn hồn thành vai trị lãnh đạo cách mạng thì
trước hết Đảng phải ln ln chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ
chức, phải luôn luôn làm cho Đảng vững mạnh về chính trị, khơng
ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với nhân dân, có năng lực lãnh đạo
và hoạt động thực tiễn.Thực tế cách mạng trên thế giới cũng đã chứng
minh: những Đảng nào không đảm bảo được những u cầu trên thì
cũng khơng thể giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ
chế độ tư bản chủ nghĩa, không thể lãnh đạo nhân dân xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.

2.1.2. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công

nhân

Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp cơng
nhân, nó đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp cơng nhân và toàn
thể nhân dân lao động.

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Mác và
Ăngghen đã chỉ rõ: “ những người cộng sản không phải là một đảng
riêng biệt, đối lập với các đảng cơng nhân khác. Họ tuyệt nhiên khơng
có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của tồn thể giai cấp vô sản”.

Giai cấp công nhân là cơ sở gia cấp của Đảng cộng sản, là nguồn
bổ sung lực lượng phong phú cho Đảng cộng sản. Những đảng viên của
đảng là những người cơng nhân có giác ngộ lý tưởng cách mạng, được
trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tự giác gia nhập Đảng và được
các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu cho

15

Đảng. Trong hàng ngũ Đảng có những đảng viên khơng phải là công
nhân, nhưng phải là người giác ngộ vè sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và luôn ln đứng trên lập trường, trên lợi ích của giai cấp
công nhân.

Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng
cũng chính là sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Giai cấp cơng nhân
thực hiện vai trị lãnh đạo của mình thơng qua đảng cộng sản. Tuy
nhiên, khơng thể đồng nhất Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân.
Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những cơng nhân tiên tiến,
có giác ngộ lý tưởng cách mạng, được tranh bị lý luận chủ nghĩa Mác -

Lênin, do vậy, Đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính
trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.

Là đội tiên phong chiến đấu, Đảng có sự tiên phong trong lý luận
và hành động cách mạng. Đảng viên là những người được trang bị lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm được quan điểm, đường lối của Đảng,
do vậy “ họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản”.
Cũng do đó, đảng viên phải thực hiện cơng tác tuyên truyền, đưa chủ
nghĩa Mác - Lênin vào giác ngộ giai cấp công nhân. Cán bộ, đảng viên
phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lơi cuốn quần
chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.

Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của
giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Vì thế, Đảng có
thể thực hiện giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các
phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần chúng nhân dân, huy
động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì những
chủ truơng, đường lối của Đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân mới thực hiện được.

16

Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân
và cả dân tộc. Khi nói tới vai trị tham mưu chiến đấu của Đảng là
muốn nói tới vai trị đưa ra những quyết định của Đảng, nhất là trong
những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo
điều kiện đưa phong trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây ra
những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ Đảng cộng sản trở thành bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc, vì Đảng bao gồm

những người tiên tiến trong giai cấp công nhân và dân tộc, được trang
bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và là những người từng trải trong
phong trào cách mạng, có nhiều kinh nghiệm trong công tác đấu tranh
hay trong công tác tổ chức, xây dựng trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.

2.2. Luận cứ thực tiễn
2.2.1. Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện giai cấp công nhân
vươn lên thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp
ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này,
trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp
đối kháng với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, một thứ
chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công
nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển
chậm.
Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều
tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt
Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng
ở nước ta do những điều kiện sau đây:
- Giai cấp cơng nhân Việt Nam sinh ra trong lịng một dân tộc có
truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công

17

nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết
hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính
triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.


- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành
trong không khí sơi sục của một loạt phong trào u nước và các cuộc
khởi nghĩa chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi chủ nghĩa đế quốc
Pháp đặt chân lên đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi
nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hồng Hoa Thám, các cuộc vận động
yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học,
v.v… đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí
bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nơ lệ của toàn thể nhân dân
ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng
dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.

- Vào lúc đó, phong trào cộng sản và cơng nhân thế giới phát
triển, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh
hưởng đến phong trào dân tộc dân chủ ở nước khác, nhất là ở Trung
Quốc, trong đó có phong trào cách mạng ở nước ta. Chính vào lúc đó,
nhà u nước Nguyễn ái Quốc trên hành trình tìm đường cứu nước đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác- Lênin bí
quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó, Người đã đề
ra con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam - con đường
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều
nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận
lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc
tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của
chủ nghĩa Mác -Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp

18



×