Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Skkn xay dung lop tu quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.48 KB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

A Tên đề tài : Xây dựng tập thể lớp tự quản, hoạt động tốt.

B Cấu trúc nội dung :

PHẦN 1 : MỞ ĐẦU

1) Lý do :
Công tác chủ nhiệm lớp nghe đơn thuần chỉ là công việc của một giáo viên phụ

trách quản lý một tập thể lớp nào đó do nhà trường phân cơng. Với lớp gồm nhiều học
sinh ngoan, học giỏi, tập trung ở trên một địa bàn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển “đức”,“trí”, “thể”, “mỹ” và sự quan tâm đúng mức của phụ huynh học sinh, thì
cơng tác quản lý, chỉ đạo của giáo viên phụ trách đỡ phần vất vả. Nhưng với những
lớp khơng có đủ các điều kiện “tốt” như trên mà gồm nhiều học sinh cá biệt, chất
lượng học tập thấp, tự quản chưa cao, khơng chịu “hoạt động” thì địi hỏi giáo viên
chủ nhiệm phải có những nội dung và giải pháp chỉ đạo phù hợp, hiệu quả. Căn cứ
vào kinh nghiệm của bản thân qua thời gian kiêm nhiệm công tác Đội, thực tiễn của
phong trào nhà trường và tình hình lớp đã chủ nhiệm 8A cũng như lớp 9A đang chủ
nhiệm, bản thân tôi mạnh dạn nêu lên những nội dung nhằm đẩy mạnh hiệu quả công
tác của giáo viên chủ nhiệm và xây dựng tập thể lớp tự quản tốt, tiến bộ.

2) Nhiệm vụ của đề tài:
1 Đẩy mạnh vai trò, hoạt động của cán bộ lớp (BCH Chi đội) như thế nào?
2 Làm thế nào để xây dựng một tập thể lớp tự quản tốt ?
3 Gắn kết hợp gia đình học sinh với giáo viên chủ nhiệm(GVCN) và nhà trường.

3) Phương pháp tiến hành :
Trước hết phải xác định rõ: giáo viên chủ nhiệm là một thầy(cô) phụ trách Đội,


có “một phần” nghiệp vụ cơng tác Đội, tâm huyết với nghề dạy học, xem tập thể lớp

như một “gia đình nhỏ” của mình mà giáo viên chủ nhiệm đóng vai trị như một người
huynh trưởng, người cha, người mẹ vậy !

Tâm lý của giáo viên chủ nhiệm, ai cũng muốn học sinh lớp mình phụ trách phải
ngoan, học giỏi, tập thể lớp hoạt động và luôn tiến bộ… Nhưng thực tế khơng như ta
mong muốn. Trong cái tốt nhất phải có một vài điểm chưa tốt, với tập thể lớp ta
thường gặp những “học sinh cá biệt” luôn làm “đau đầu” giáo viên phụ trách. Trong
nhóm “học sinh cá biệt” ta nên phân biệt có hai loại: học khá giỏi nhưng ưa nghịch và
học dở nhưng thích “quậy”. Cho nên khi tiếp nhận lớp, giáo viên chủ nhiệm thường
quan tâm lớp mình có bao nhiêu học sinh khá giỏi và bao nhiêu cơ, cậu có thành
tích“bất hảo” để chiếu cố. Vấn đề đặt ra là :

1Làm thế nào để đẩy mạnh vai trò, hoạt động của cán bộ lớp (BCH Chi đội)?
Vì đây là cánh tay phải đắc lực của GVCN. Lớp có hoạt động, phong trào tốt… thì
đội ngũ cán bộ lớp phải tốt. Cơng việc này GVCN nào cũng có thể chọn cho mình
thành phần “nội cát” theo ý riêng. Tiêu chuẩn đầu tiên cán bộ lớp theo tôi phải là
những học sinh:

1 Học khá, giỏi ( để lời nói có trọng lượng).

1 Đạo đức, tác phong tốt ( làm gương cho bạn khác noi theo).

1 Nhiệt tình và có trách nhiệm với tập thể (để quán xuyến, chỉ đạo lớp ).

1 Năng lực lãnh đạo. Năng lực này nhiều khi các em vốn có (do làm cán bộ
lớp nhiều năm) hoặc do giáo viên bồi dưỡng. Muốn vậy, đầu năm khi bầu xong cán
bộ lớp, GVCN phải cho các em dự lớp tập huấn do Liên đội tổ chức hoặc chính
GVCN trang bị cho các em: hướng dẫn cách thức, lề lối làm việc, giao nhiệm vụ cụ

thể cho từng thành viên.

Để lời nói các em có trọng lượng trước tập thể, các bạn phục tùng làm theo,
GVCN phải làm tư tưởng trước lớp: giao quyền cho các em xử lý những sai phạm của
tập thể (ghi sổ báo lại cho GVCN) hoặc những vấn đề chung của lớp cần hỏi ý kiến
của bạn Lớp trưởng, lớp phó, ủy viên như thế nào ? Để từ đó các em có “uy” trước tập
thể (cơng việc này khơng nên giao hẳn mà GVCN phải giám sát, nếu sai phải uốn nắn,
cịn đúng thì cứ thế mà làm ). Có như thế các em cán bộ lớp mới có chỗ dựa mà mạnh
dạn lãnh đạo lớp. Trong thực tế vẫn có những cán bộ lớp xin “nghỉ việc” vì ngại khổ,
đụng chạm dễ làm mích lịng bạn bè, ảnh hưởng đến việc học … trường hợp này
GVCN phải gặp riêng phân tích, động viên các em. Cũng như khi các em mắc khuyết
điểm, một mặt gặp riêng nhắc nhở và trước lớp phải xử lý như bao bạn khác. Có như
thế các em khơng ỷ lại, tự điều chỉnh hành vi của mình cho đúng và tập thể lớp nhìn
vào đấy để khơng so bì.

Tính đồn kết trong BCH Chi đội cũng là một yếu tố không thể thiếu. GVCN
phải tổ chức cho các em họp mặt thảo luận, thống nhất trước khi đưa ra một vấn đề
của tập thể hoặc giải quyết những tình huống của lớp. Sự thống nhất này sẽ tạo được
niềm tin ở các em và tập thể lớp. Có thế chúng ta sẽ :

2Xây dựng tổ chức lớp tự quản và tiến bộ.
- Lớp tự quản, đây là vấn đề mà nhà trường và đội ngũ GV phụ trách luôn nêu ra.
Nhưng làm thế nào để xây dựng được một tập thể lớp tự quản theo đúng nghĩa của nó.
Tức là các em tự quản lí: hành vi, đạo đức tác phong, nề nếp, hoạt động lớp mình khi
khơng có giáo viên. Điều này GVCN phải tạo trước cho các em ý thức tự giác và việc
quản lí theo dõi hoạt động của đội ngũ cán bộ lớp và đội Sao đỏ. Muốn vậy, ngay từ
đầu năm học GVCN cho tiến hành việc theo dõi thi đua của các tổ. Các tổ trưởng và
tổ phó tự quản lí thành viên tổ mình, phân công theo dõi, trực chéo nhau giữa các tổ,
dưới sự giám sát của đội sao đỏ và cán bộ lớp tương ứng với từng nội dung hoạt động.
Ví dụ:

. Sinh hoạt 15 phút đầu buổi. Các tổ trưởng sẽ kiểm tra việc chuẩn bị bài các bộ
mơn trong buổi học hơm đó của các bạn trong tổ như thế nào. Cán sự các môn và lớp
phó học tập sẽ kiểm tra việc chuẩn bị của các tổ trưởng.
. Tiết trống hoặc khơng có giáo viên, lớp sẽ ơn bài hoặc hoạt động tập thể ( ca
múa hát tập thể, tập nghi thức, đọc báo Đội…) dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng hoặc ủy
viên văn thể mỹ.
Những sai phạm của các tổ, thành viên trong lớp được ghi tên và nêu ra trong tiết
sinh hoạt lớp cuối tuần.
- Tiết sinh hoạt lớp, đây là tiết quan trọng nhất trong một tuần khơng nên sinh
hoạt qua loa, chiếu lệ. Vì làm như thế các em sẽ có thói quen xem thường và dễ tái
diễn các sai phạm, hành vi xấu. Thời lượng chỉ có 45 phút mà cơng việc lớp trong
tuần có rất nhiều thì làm sao giải quyết, chuyển tải hết ! Vấn đề này GVCN phải tập
cho lớp việc đánh giá, xếp thi đua trước. Mỗi bộ phận có sẵn bảng tổng hợp báo cáo.
Để đến tiết sinh hoạt, từng thành viên vi phạm tuần trước đọc bản kiểm điểm (có xác
nhận của PHHS); các em tự thơng báo kết quả thi đua, các nội dung thực hiện được
trong tuần (những việc đã làm được và không làm được với lí do…), tình hình lớp
trong tuần, số bạn vi phạm học tập (không chuẩn bị bài, không thuộc bài tiết nào…),
vi phạm việc rèn luyện đạo đức tác phong ( không đồng phục, không ca lô, gây gỗ
đánh nhau, trốn học, mất trật tự trong giờ học…), vi phạm về công tác văn thể, lao
động, việc tự quản…
GVCN theo dõi ghi sổ từng nội dung sinh hoạt trong tuần thông qua báo cáo của
từng bộ phận. Lần lượt giải quyết từng nhóm vụ việc: lí do sai phạm, đưa ra biện pháp
xử phạt, ý kiến của cán bộ lớp. GVCN nhận xét kết quả thi đua, tuyên dương tổ, cá
nhân tốt. Triển khai nội dung tuần tiếp theo và nhắc nhở các em thực hiện tốt các nội
dung của lớp tuần đến.
Trong bất kỳ phong trào nào, động viên khen thưởng luôn là yếu tố không thể
thiếu. Tùy theo tình hình, đặc thù của lớp mà GVCN nên áp dụng những nội dung
biểu điểm thi đua cho phù hợp. Yêu cầu của đề tài không thuộc phạm vi trên nên tôi
không tiện nêu lên những nội dung, biện pháp thi đua.


3Gắn kết hợp giữa gia đình học sinh với GVCN.
Học sinh trên địa bàn nông thôn, chúng ta nên nhìn nhận sự quan tâm việc học
tập, rèn luyện của phụ huynh học sinh đối với con em mình đại đa số chưa đạt yêu
cầu. Hầu hết gia đình nghèo, phụ huynh lo bương chải làm ăn mọi việc của học sinh
khốn trắng cho nhà trường “Trăm sự trơng cậy vào q thầy, q cơ”. Cá biệt có phụ
huynh khơng biết con em mình, do thầy (cơ) nào chủ nhiệm. Thậm chí có phụ huynh
khơng biết con em mình đang học lớp mấy ! Một nghịch lý của cuộc sống: vất vả lo
kinh tế gia đình, vì tương lai của con nhưng không chăm lo cho tương lai của con em
mình ? Từ thực tế như vậy, việc gắn kết cơng tác giáo dục học sinh giữa gia đình và
nhà trường thông qua GVCN là yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện được yêu cầu trên,
ngay khi nhận lớp phụ trách GVCN phải nắm bắt được:

8 Tình hình lớp mình phụ trách: đặc điểm lớp, khả năng, mặt tích cực, hạn chế,
hồn cảnh lý lịch từng học sinh … ( phần này có sẵn trong phiếu điều tra đầu năm,
tiếp xúc, hỏi thăm học sinh, giáo viên trong trường hoặc trực tiếp đến tận nhà ).

8 Sự quan tâm của phụ huynh đối với việc học tập của con em. Thể hiện qua các
buổi họp PHHS, việc chuẩn bị dụng cụ học tập, nhắc nhở kiểm tra việc học tập của
con em …

8 Tình hình Giáo viên bộ mơn và việc học tập của học sinh các môn như thế
nào ?

Ngay từ buổi họp mặt PHHS đầu năm, GVCN thơng qua tình hình, kế họach
của lớp, những vướng mắc trong tình hình chung của lớp cần thảo luận và giải quyết.
Điều hiển nhiên GVCN phải thông qua các nội dung yêu cầu việc học tập, các khoản
đóng góp, quỹ lớp, quỹ khuyến học… mà cái chính là PHHS muốn lắng nghe những
biện pháp nhằm đẩy mạnh việc rèn luyện, nâng cao chất lượng học tập của con em họ
như thế nào ? Điều ấy tuỳ thuộc vào cách trình bày và kết quả của lớp mà GVCN đem
lại có thuyết phục được PHHS hay khơng !


Qua tìm tịi nghiên cứu, tơi mạnh dạn đưa ra trước PHHS các giải pháp :
* Hằng tháng báo cáo cho Phụ huynh tình hình của học sinh. Muốn có số liệu này
GVCN phải họp ban thi đua của lớp: các tổ trưởng, Sao đỏ, cán bộ lớp… theo mẫu
xếp thi đua hằng tháng(có mẫu kèm theo).
* Ý kiến của PHHS nhận xét trong ô của bảng theo gửi về nhà, phần nào giúp cho
GVCN nắm được sự quan tâm của gia đình với học sinh và tiếp tục giáo dục học sinh
những vấn đề gì.
* Hầu hết PHHS đều nhất trí ủng hộ việc theo dõi đánh giá này để biết tình hình
của con em họ.

* Đa số học sinh rất “lo sợ” bảng theo dõi đánh giá hằng tháng này. Học sinh
ngoan, chăm chỉ sẽ được gia đình động viên, tạo điều kiện thêm; học sinh có nhiều vi
phạm nhất là không chuẩn bị bài, không thuộc bài, vi phạm đạo đức… sẽ được gia

đình “củng cố”. Cần lưu ý tránh hiện tượng học sinh vì sợ bố mẹ mà giả mạo chữ ký
và lời nhận xét hoặc nhờ người thân ghi, ký hộ.

Muốn có những số liệu chính xác trên để báo cáo phải thơng qua việc theo dõi
thi đua của tổ, đội sao đỏ lớp, cán bộ lớp trong từng tiết học, buổi học và thông tin của
giáo viên bộ môn.

4) Cơ sở và thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài :
Lớp chủ nhiệm 8A1 năm học 2004-2005.

Chủ nhiệm 9A2 năm học 2005-2006.
Chủ nhiệm 9A1 năm học 2006-2007.
Chủ nhiệm 9A1 năm học 2007-2008.
Chủ nhiệm 9A2 năm học 2008-2009.
Trường THCS Bưng Bàng.


Với lớp chủ nhiệm 8A1 năm học 2004-2005. Qua nắm bắt thơng tin từ GVCN
trước đó và kết quả rèn luyện của lớp 7A2 năm học trước (2003-2004), cùng với kinh
nghiệm làm công tác phong trào 24 năm qua; tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp
trên để áp dụng cho lớp mà mình phụ trách.

Phần 2: KẾT QUẢ

1) Mơ tả tình trạng sự việc hiện tại làm đối chứng:
Bước đầøu áp dụng đề tài với lớp chủ nhiệm 8A4 đã tạo cho các lớp một luồng
sinh khí mới:

11 Ban chỉ huy chi đội hoạt động có hiệu quả rõ rệt, đã lãnh đạo lớp thực hiện tốt
các nhiệm vụ được giao.

11 Từ lớp yếu của phong trào thi đua liên đội, 8A4 đã vươn lên tốp dẫn đầu.
Tham gia đầy đủ các phong trào nhà trường, liên đội và đều đạt giải. Duy trì được
việc tự quản trong sinh hoạt và học tập.

11 Phụ huynh học sinh biết quan tâm, lo lắng hơn cho việc học tập của con em
mình. Thường xuyên theo dõi việc học tập, rèn luyện con em mình qua bảng đánh giá
xếp loại hằng tháng. Mong đợi kết quả con em mình khi GVCN chưa kịp thời báo
cáo.

Các số liệu và kết quả hoạt động đối chứng:

 Lớp 7A1 - Năm học: 2003-2004

Hạnh kiểm Học lực


Tốt Kha ù T.Bình Giỏi Kha ù T.Bình Yếu Kém

14 25 3 0 4 26 12 0

33,33% 59,5% 7,1% 0% 9,5% 62% 28,5% 0%

1 Sĩ số đầu năm : 44/27

2 Sĩ số cuối năm : 42/27 ( 2 em bỏ học)

* Cuối năm Chi đội 7A1 xếp thi đua (loại yếu) : Vị thứ 7/7 trong Liên đội.

 Lớp 8A1 – Năm học: 2004-2005

Hạnh kiểm Học lực

Tốt Kha ù T.Bình Giỏi Kha ù T.Bình Yếu Kém

29/21nữ 10/3 nữ 0 0 9/6 nữ 24/15 nữ 6/3 nữ 0

74,4% 25,6% 0% 0% 23,1% 61,5% 13,4% 0%

2 Sĩ số đầu năm: 39/24nữ . (nhận 1 HS lưu ban: Lê Thành Hải)

3 Sĩ số cuối năm: 39/24 nữ.

4 100% tham gia viết bài “Sáng mãi phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ”được Liên đội

đầu năm tuyên dương.


5 Có 37/39 bạn tham gia viết bài dự thi UPU.

6 Viết bài “ Tìm hiểu thân thế sự nghiệp, tư tưởng Hồ chi Minh” và “Bảo hiểm Y

tế học sinh” chi đội tham gia100%.

7 100% các bạn tham gia viết bài sáng tác thơ văn nhân ngày Nhà giáo Việt Nam

20/11. Bài viết của bạn Nguyễn Thị Mỹ Trâm đạt giải khuyến khích của Liên đội.

8 Các tiết mục văn nghệ của nhóm “ Ca khúc Măng non” chi đội được tuyên

dương và khen thưởng dịp Chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.

9 Hội thi cờ Vua, cờ Tướng do Liên đội tổ chức nhân ngày thành lập Quân đội

nhân dân Việt Nam 22/12 : bạn Lê Hữu Phi đạt giải nhất nam cờ Tướng khối 8; bạn

Nguyễn Thị Lụa đạt giải nhất nữ cờ Vua khối 8.

10 Hội thi Nghi thức, ca múa hát tập thể chi đội đạt giải nhì khối 8.

11 Hội thi làm báo tường chào mừng 30 năm giải phóng quê hương An Nhơn, tờ

báo “Nắng Mới” của chi đội đạt giải nhất khối 8.

12 Mỗi bạn đóng góp 1000 đồng để xây dựng tủ sách nhà trường.

13 100% tham gia phong trào”Viên gạch hồng”.


14 100% đóng góp quỹ Kế hoạch nhỏ và tấm lòng vàng.

* Cuối năm Chi đội 8A1 xếp thứ: 3/7 trong Liên đội. Đạt Chi đội mạnh.

 Lớp 9A2 – Năm học: 2005-2006

Hạnh kiểm Học lực

Tốt Kha ù T.Bình Giỏi Kha ù T.Bình Yếu Kém
0
36/24nữ 0 0 2/1 nữ 16/12 nữ 18/11 nữ 0

100% 0% 0% 5,6% 44,4% 50% 0% 0%

15 Sĩ số đầu năm: 36/24nữ .

16 Sĩ số cuối năm: 36/24 nữ.

17 Tham gia tốt các hội thi, bài viết dự thi do Liên đội tổ chức.

18 Giải Nhất báo tường khối 9.

19 Giải Nhất cờ Vua nam khối 9.

20 Giải khuyến khích cây cảnh mini toàn trường.

21 Giải Nhất Đố vui để học khối 9.

22 Giải Nhất hội thi Nghi thức -ca múa hát tập thể khối 9.


23 Giải Nhất toàn đoàn dịp trại chào mừng 75 năm thành lập Đoàn 26/3.

24 Đạt nhiều tuần, tháng học tốt và tuần lễ kỉ luật do Liên đội phát động.

25 Mỗi bạn đóng góp 1000 đồng để xây dựng tủ sách nhà trường.

* Cuối năm Chi đội 9A2 xếp thứ: 1/7 trong Liên đội. Đạt Chi đội xuất sắc.

 Lớp 9A2 – Năm học: 2006-2007

Hạnh kiểm Học lực

Tốt Kha ù T.Bình Giỏi Kha ù T.Bình Yếu Kém

36/17nữ 5 0 1/1 nữ 11/8 nữ 24/12 nữ 0 0

86,1% 13,9% 0% 2,8% 30,6% 66,7% 0% 0%

26 Sĩ số đầu năm: 36/21nữ .

27 Sĩ số cuối năm: 36/21 nữ.

28 Là lớp có lực lượng cán bộ lớp đầu năm rất yếu (không biết chọn bạn nào để

làm lớp trưởng) nhưng các em đã từng bước nêu cao vai trò lãnh đạo để đưa tập thể đi

lên.

29 Giải nhì vở sạch chữ đẹp của khối


30 Đạt hai tuần đăng kí học tốt tháng 11

31 Giải Nhì cắm hoa đẹp

32 Giải nhất Nghi thức – Ca múa hát tập thể

33 Giải nhì bóng chuyền khối 9

* Cuối năm Chi đội 9A6 xếp thứ: 4/7 trong Liên đội. Đạt Chi đội xuất sắc.

 Lớp 9A5 – Năm học: 2007-2008

Hạnh kiểm Học lực

Tốt Kha ù T.Bình Giỏi Kha ù T.Bình Yếu Kém
0
21/7nữ 13/9 nữ 2 3/1 nữ 10/8 nữ 23/8 nữ 0
0%
58,3% 36,1% 5,55% 8,33% 27,8% 63,9% 0%

34 Sĩ số đầu năm: 36/17nữ .

35 Sĩ số cuối năm: 36/17 nữ.
36 Giải nhất Hội thi Đố vui để học khối 9
37 Giải nhất ‘’ Trí tuệ học đường
38 Giải nhất ‘’ Hóa trang độc đáo
39 Giải nhất ‘’ Đua thuyền trên cạn
40 Giải nhất ‘’ Kẹp bóng chạy thi
41 Giải nhì ‘’ Nhảy dây
* Cuối năm Chi đội 9A1 xếp thứ: 4/7 trong Liên đội. Đạt Chi đội xuất sắc.


 Lớp 9A2 – Năm học: 2008-2009

Hạnh kiểm Học lực

Tốt Kha ù T.Bình Giỏi Kha ù T.Bình Yếu Kém
0
20/12nữ 18/10 nữ 2 3/1 nữ 11/7 nữ 26/14 nữ 0
0%
50% 45% 5% 7,5% 27,5% 65% 0%

42 Sĩ số đầu năm: 40/22nữ .
43 Sĩ số cuối năm: 40/22 nữ.
44 Giải nhất Hội thi Rung chng vàng(Tồn)
45 Giải nhất ‘’ Tập san chào mừng 20/11
46 Giải nhất ‘’ Thi Vở sạch chữ đẹp
47 Giải nhất ‘’ Thi Kể chuyện Bác Hồ
48 Giải nhất ‘’ Thi chuyên hiệu Đ.Viên
49 Giải nhất ‘’ Nghi thức-Ca múa T.Thểû
50 Giải nhất ‘’ Thi Nhảy bao bố đôi
51 Giải nhất ‘’ Thi xe đạp chậm
52 Giải nhất ‘’ Thi nắm chân đi bộ
53 Giải nhi ‘’ Đưa Bộ Đội qua sơng
54 Giải nhì ‘’ Hóa trang độc đáo
55 Giải nhì ‘’ Thi vẽ tranh
56 Giải nhì ‘’ Thi kéo co Nam+nữ
57 Giải ba ‘’ Ném bóng cấp Huyện (Đặng Thị Mỹ Thoa)
* Cuối năm Chi đội 9A2 xếp thứ: 2/7 trong Liên đội. Đạt Chi đội xuất sắc.

2) Mô tả nội dung giải pháp mới:

a) Đẩy mạnh vai trò, hoạt động của cán bộ lớp:

- Ban chỉ huy chi đội các em đã mạnh dạn hơn trong lãnh đạo và quản lý lớp,
biết lo lắng cho phong trào lớp. Một điều hay là các em biết tự nhận khuyết điểm mỗi
khi chưa hoàn thành nhiệm vụ hoặc có vi phạm nhỏ sửa sai ngay, khơng bao che
những sai phạm của bạn. Tự giác làm việc theo nhiệm vụ của mình được phân cơng,
các bạn đồng tình ủng hộ ( bạn ấy làm vậy vì lớp mình, vì thầy chủ nhiệm phân công
hoặc thầy chủ nhiệm cũng kiểm điểm các bạn ấy khi có lỗi ).

- Mỗi em trong BCH chi đội và ban thi đua đều có sổ sách ghi chép cơng tác
mình làm và hiểu được nội dung của cơng việc mình phụ trách. Cuối tuần đến tiết
sinh hoạt lớp, các em tự giác xếp thi đua theo tổ, số liệu từng mảng cơng tác để trình
bày trước lớp và thầy chủ nhiệm. Tiết sinh hoạt lớp GVCN như người dự buổi sinh
hoạt của các em, nghe các em báo cáo; chờ ý kiến chỉ đạo và triển khai công tác mới
của thầy “cố vấn”.

- Gắn các em vào các phong trào ( nhất là giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động
ngoài giờ lên lớp) để các em cảm thấy tự tin hơn, mình được thầy và các bạn tín
nhiệm nên cố gắng làm việc cho thật tốt.

- Về quyền lợi : GVCN luôn động viên các em cán bộ lớp qua việc tuyên
dương, khen thưởng(nếu có) mỗi đợt thi đua để cổ vũ tinh thần các em.

- Suốt năm học 2004-2005 với lớp 8A1 và cả năm học (2005 – 2006) với lớp
9A2 GVCN chưa nghe một lời chỉ trích nào của các thành viên trong lớp đối với đội
ngũ cán bộ lớp. Rất ít những vi phạm của cán bộ lớp trong rèn luyện và học tập (vì
GVCN đã động viên các em trước: mình làm cán bộ lớp phải gương mẫu, học và rèn
luyện trước hết cho mình và làm gương cho các bạn noi theo).

- Một điều cần quan tâm là GVCN phải linh động từng nội dung cơng tác, kết

hợp thật hài hịa việc thực hiện, giảm bớt thời gian khơng đáng có để các em tập trung
vào việc học tập là chính.

b) Xây dựng tổ chức lớp tự quản và tiến bộ:
- Bước đầu phải tập cho các em cách tự quản lớp trong buổi đầu giờ, tiết vắng
giáo viên... Có thể buổi đầu chưa quen, kết quả chưa đạt nhưng gắn nội dung sinh
hoạt theo chủ đề nào đó thiết thực: cán sự bộ môn lên giải bài tập… sau nhiều lần các
em sẽ thực hiện được. Từ đó việc tự quản sẽ đi vào nề nếp, trở thành thói quen. Trong
những buổi đầu duy trì phong trào này rất cần sự quan tâm, theo dõi nhắc nhở của
GVCN.
- Một tập thể đoàn kết, tham gia tốt các phong trào rất hiếm khi tự dưng mà có.
Phải là kết quả của q trình đầu tư làm công tác tư tưởng, “dằn mặt” các phần tử học
sinh cá biệt thường “gây rối” và dàn hịa các nhóm, phe đối nghịch trong tập thể.
Thường là sự chia rẽ nội bộ xảy ra ở các nhóm bạn khác thơn, khác xóm hoặc giữa
các nhóm khác nhau về sở thích, về sức học… Điều này GVCN phải nên nắm bắt để
có biện pháp dàn xếp, xử lý.

. Xử lý những học sinh cá biệt: công việc này GVCN nào cũng có những biện
pháp riêng và cụ thể. Có giáo viên dùng cách răng đe bằng việc xếp đạo đức, thông
báo với phụ huynh hoặc tùy theo mức độ “sở trường” mà phân công vào nhiệm vụ để
“lấy độc trị độc” ( có kiểm tra theo dõi của GVCN).

Ví dụ: Lớp 8A4 có 4 em học sinh dạng cá biệt:
- Cặp song sinh: Nguyễn Bá Song- Nguyễn Bá Toàn: hay trêu chọc các bạn nữ
trong và ngồi lớp, nói chuyện trong giờ học; thường xun khơng học bài và không
chuẩn bị bài trước khi đến lớp… bằng động thái GVCN gặp riêng nhắc nhở, mời phụ
huynh đến trao đổi- gửi kết quả bảng báo cáo tình hình về gia đình ở tháng 10, thì
tháng 11 em Nguyễn Bá Song được khen thưởng về tiến bộ trong việc rèn luyện đạo
đức tác phong, đơi lúc có phát biểu ý kiến xây dựng bài. Lấy gương của Song là anh
để tiếp tục giáo dục em Toàn. Do vậy đến cuối năm cặp song sinh này đã có những

tiến bộ được các giáo viên bộ mơn nhìn nhận.
-Nguyễn Văn Phú: không giữ vệ sinh trong lớp (nhổ nước bọt xung quanh chỗ
ngồi), hay gây sự bạn bè, nói chuyện trong lớp, phá không cho bạn khác học, thường
xuyên không học bài và không chuẩn bị bài trước khi đến lớp…qua các lần gặp riêng,
GVCN nhắc nhở khuyên răn, mời gặp PHHS trao đổi…Ở học kỳ II em Nguyễn Văn
Phú đã giảm hẳn các hành vi xấu và có chăm học hơn.
-Lê Thành Hải ( học sinh lưu ban, thường vi phạm đạo đức tác phong, hay trốn
học, bỏ tiết, nói chuyện trong giờ học, trêu chọc bạn trong lớp và gây gỗ với các bạn
lớp khác …) được phân công làm Sao đỏ. Từ học sinh các biệt em Hải đã trở thành
đội viên gương mẫu có nhiều tiến bộ rõ rệt trong rèn luyện, học tập và được vinh dự
đứng vào hàng ngũ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh dịp 26/3/2005.
. Với các phe nhóm bất hịa trong lớp: GVCN phải tìm hiểu ngun nhân. Mâu
thuẫn này phát sinh trong hoàn cảnh nào và tự bao giờ, bạn nào là thủ lĩnh của mỗi
phe…
Ví dụ: Lớp 8A4 giai đoạn cuối học kì I có hai nhóm nữ ở Thanh Mai và Lộc
Thuận khơng hợp nhau, nên thường có “lời qua tiếng lại”, hay sự bất hịa giữa hai
nhóm nữ trong lơp trên địa bàn Tịnh Bình – Lộc Thuận- lớp 9A6 (2006- 2007).
Các trường hợp bất hòa trên đều xảy ra ở các bạn nữ. Khi gặp các tình huống như
thế GVCN phải bình tĩnh cho họp mặt hai bên trao đổi cởi mở rồi phân tích, giải
quyết các gút mắc, đồng thời thu thập thông tin của học sinh “trung lập” trong lớp để
có biện pháp giải quyết. Từ đó các em sẽ cảm thơng và xích lại gần nhau hơn.
. Với các nhóm có sức học khác nhau thường xảy ra việc ganh đua: vấn đề này
đơi khi cũng xảy ra. Ví dụ: trường hợp của nhóm nữ Định Thuận – Tịnh Bình – Nhơn
Thiện (lớp 9A2 năm học 2008 – 2009). Muốn dàn hịa GVCN phải tế nhị phân tích, vì
đây là thành phần thường lắm lời nhiều lẽ.
Giải quyết công việc nội bộ là vấn đề thường xuyên mà GVCN thường “đau
đầu nhức óc” nhất là với những học sinh lớp nhỏ. Nhưng dù gì cũng phải lấy tình

thương và trách nhiệm của người anh, người thầy để xử lí các tình huống trên tính
khách quan, khơng thiên vị, hợp tình đạt lý sẽ mang lại hiệu quả.


Khơng dừng ở đó, vai trị động viên của GVCN góp phần rất to lớn vào kết quả
phong trào thi đua của lớp. Phải biết khích lệ, nêu gương điển hình, so sánh hoặc
“khích thì” lịng nhiệt tình của các em (Lớp mình thế này mà làm không được hay dở
hơn lớp….hay sao).

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tập thể.
Muốn phong trào đạt kết quả, điều trước tiên phải : Xây dựng hạt nhân trong
phong trào. Tùy theo tình hình, khả năng của lớp mà GVCN lựa chọn lực lượng nòng
cốt để xây dựng phong trào học tập, văn thể… Đa số học sinh khá giỏi thường ham
thích hoạt động và có năng lực trong cơng tác, nên GVCN dễ chỉ mặt đăït tên và
tuyển chọn. Nhưng với những lớp đa số là học sinh yếu, trung bình, chỉ vài học sinh
khá thì việc xây dựng phong trào học tập sẽ ra sao ? Chúng ta vẫn thường nói “liệu
cơm gắp mắm”, trong cái chưa hoàn thiện hay chưa tốt ấy vẫn có những điển hình.
Ta so đũa cột cờ mà chọn những em có thành tích học tập tốt nhất vào ban học
tập(cán sự bộ môn)của lớp. Để đẩy mạnh chất lượng học tập của tập thể đòi hỏi
GVCN phải xây dựng kế hoạch như thế nào cho hiệu quả.

Ví dụ: Tình hình lớp 8A1 (2004-2005) như Hội đồng sư phạm nhà trường đã biết
chất lượng học tập của các em năm học trước cũng như khảo sát đầu năm vào loại yếu
nhất khối 8. Khi bắt tay vào xây dựng phong trào học tập của lớp tơi rất lo ngại vì tinh
thần, thái độ, mức độ tiếp thu kiến thức của các em quá yếu ! Nên kế hoạch chỉ đạo
của GVCN chia làm hai giai đoạn :

. Học kỳ I : xây dựng nề nếp học tập của lớp, buộc các em phải chịu học, khơng
cịn nói chuyện thiếu tập trung trong lớp. Phân hạng từng đối tượng: hỏng kiến thức từ
lớp dưới ( thành phần này thường quậy phá, đi học cho vui lòng bố mẹ); chịu học
nhưng tiếp thu chậm ; học được nhưng hơi ngỗ nghịch và nhóm học khá. Trên cơ sở
phân hạng từng đối tượng, tơi tiến hành phân chia vị trí chỗ ngồi (mặc dù theo tổ
nhưng phải xen kẽ các đối tượng). Đưa việc thi đua vào để chấm dứt hẳn việc nói

chuyện riêng trong tiết học (khơng cịn “bạn” nói chuyện các em dần sẽ lắng nghe và
khỏi quấy rầy các bạn ngồi bên). Bên cạnh ấy GVCN còn khuyến khích các em phát
biểu xây dựng bài để được tuyên dương cuối tuần và cộng điểm thi đua cho tổ. Nên
tuyên dương, khen các em học yếu những tiết học vừa qua, tuần vừa qua có cố gắng
nổ lực và nhất là phát biểu ý kiến xây dựng bài (vào tiết sinh hoạt lớp). Việc làm tuy
đơn sơ chỉ là lời khen, tràng pháo tay của các bạn nhưng với các em ấy là cả niềm
động viên khích lệ để lần sau mình được khen nữa. Đánh giá phần này chắc nhiều
GVCN chúng ta thường xử lí các em không chuẩn bị bài, không thuộc bài thông qua
bảng điểm thi đua của lớp và học sinh viết bản kiểm điểm gửi về cha mẹ ký xác nhận
(vì các em rất sợ bố mẹ biết mình ở trường khơng học bài, làm bài…). Những biện
pháp rắn nêu trên giúp răn đe cho các em chịu học, nhưng chúng ta còn phải mềm

mỏng nhỏ to, phân tích cho các em thấy được việc tích cực, tự giác trong học tập sẽ
mang lại lợi ích đối với bản thân sau này… Nói chung công việc này phải thực hiện
và kiểm tra thường xuyên mới mang lại hiệu quả.

. Học kỳ II: tiến hành nâng cao thêm mức phấn đấu của các em. Nếu ở HKI lớp
duy trì việc tự quản để ôn bài, cán bộ lớp kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà thì HKII
chú trọng hơn nội dung sinh hoạt 15 phút đầu buổi. Phát huy khả năng, vai trị của cán
sự bộ mơn, phân cơng học theo nhóm như ta thường làm (cần chú ý các em học nhóm,
tổ mà tổ chức đi chơi hoặc ngồi nói chuyện tán gẫu khơng đạt hiệu quả). Tăng cường
gửi giấy mời và trao đổi với PHHS của những em chay lười học tập ( ở HKI ba lần
không chuẩn bị bài hoặc không thuộc bài mời phụ huynh, ở HKII chỉ hai lần) và mời
cho bằng được PHHS, nếu khơng gặp được phụ huynh thì tạm thời đình chỉ việc học
tập! của học sinh đó, báo cáo với nhà trường hổ trợ giải quyết.

Trường hợp này cũng tương tự như lớp 9A1 (2009 – 2010).

* Với chi đội 9A2 trong năm học (2005-2006) theo nhận xét của giáo viên bộ
mơn: lớp có nề nếp, học tương đối đều nhất của khối 9. Lớp có nhiều thành tích nhất

trong các hoạt động. Được chọn là lớp chỉ đạo điểm.

Tuy được xếp lớp theo thứ tự a, b, c …tên học sinh, không phải là lớp chọn, nên
không khỏi những học sinh cá biệt, lười học…Nhưng với những biện pháp giáo dục
gắn chặt với công tác thi đua các em đã có nhiều cố găng trong rèn luyện và học tập.
Trong suốt cả năm học, chưa có học sinh 9A2 bị nhà trường nhắc nhở trước trường.

- Các hoạt động rèn luyện khác thì sao ? Phải thực hiện tốt để hổ trợ tích cực cho
việc học tập của các em. Như phần mở đầu tôi đề cập là GVCN phải có chút vốn nào
đấy am hiểu về cơng tác Đội hoặc lịng nhiệt tình (chẳng hạn hướng dẫn lớp tập nghi
thức mà GVCN khơng biết tí gì về các đội hình tập họp và động tác cá nhân đội viên
thì căng q). Ở nội dung đề tài này tơi không đi sâu vào công tác Đội mà chỉ đề cập
vấn đề công tác Đội hổ trợ rất nhiều cho phong trào lớp và giúp hoạt động các em có
màu sắc hơn, khỏi xơ cứng khô khan. Chúng ta đều biết mọi kết quả đạt được của lớp
qua các hoạt động đều có phần hướng dẫn chỉ đạo, cố vấn rất lớn của GVCN, trừ rất
ít lớp đạt kết quả cao do tự thân vận động mà khơng có sự chỉ đạo của GVCN. Thế thì
vai trị của GVCN trong cơng tác này là gì ?

. Tổ chức, tạo khơng khí sơi nổi cho các em chuẩn bị tham gia hoạt động với khí
thế thi đua không thua kém các lớp bạn và quyết tâm đạt giải. Ngồi phương pháp
khích lệ phần trên GVCN cịn ra tay hướng dẫn cụ thể các em, để các em thấy sự quan
tâm của thầy(cơ), từ đó có quyết tâm cao.

. Nếu cần GVCN kiểm tra việc thực hiện các nội dung của các em tiến hành đến
đâu để bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Phải nắm được điểm mạnh và hạn chế của các
em trong từng hoạt động để chỉ đạo thiết thực. Chẳng hạn: việc luyện tập Nghi thức
Đội các em thường sai ở những nội dung nào, động tác nào, bạn nào chưa thực hiện

được. Hay phong trào văn thể của lớp các em có máu văn nghệ khơng, những cây văn
nghệ hoạt động ra sao để tạo điều kiện bồi dưỡng , phát hiện năng khiếu…


58 Quan tâm tình hình thi đua của chi đội mình phụ trách trong Liên đội thông
qua việc đánh giá xếp loại thi đua hằng tuần, tháng. Có thế GVCN mới có cái nhìn
tổng quát hơn với lớp chủ nhiệm. Từ đó GVCN mới có những định hướng chỉ đạo cụ
thể và uốn nắn kịp thời những tồn tại của lớp.

Phần 3: KẾT LUẬN

1) Khái quát các kết luận:
Đẩy mạnh vai trò, hoạt động của đội ngũ cán bộ lớp là một nhu cầu cấp thiết
trong phong trào xây dựng tập thể chi đội mạnh. Thực hiện việc “Trả Đội lại cho các
em” như bấy lâu này chúng ta thường làm thay, không tin tưởng ở các em. Muốn tạo
cho các em tính tự giác, độc lập và khả năng quản lý lãnh đạo lớp tốt GVCN phải
thực hiện quá trình chuyển giao. Bồi dưỡng cho các em lịng tin và khả năng ở chính
mình. Biết đồn kết trong ban chỉ huy qua sự nhiệt tình gương mẫu của mình làm
gương cho tập thể. Cơng việc này địi hỏi GVCN phải dành nhiều thời gian đầu tư,
mềm mỏng trong vai trị cố vấn; ln là chỗ dựa cho lực lượng các bộ lớp. Chính đội
ngũ cán bộ lớp tốt, hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần to lớn trong phong trào thi đua
của chi đội. Một vấn đề mang tính quyết định để xây dựng tập thể lớp tốt là gắn chặt
các hoạt động vào thi đua. Có thi đua tốt các em mới chịu rèn luyện và học tập, mới tự
giác tham gia các hoạt động. Kết quả việc rèn luyện của học sinh luôn là sự quan tâm
của các lực lượng giáo dục, trong đó vai trò GVCN rất quan trọng. Định hướng, trực
tiếp chỉ đạo một tập thể lớp, cầu nối giữa gia đình học sinh và nhà trường. Đa số phụ
huynh học sinh rất hoan nghênh việc trao đổi thông tin qua bản đánh giá, xếp loại mà
GVCN gửi về gia đình hằng tháng. Điều đó sẽ giúp GVCN có cơ sở , thấy được sự
đồng tình hơn trong việc chỉ đạo lớp.
Theo chủ quan bản thân tơi, nếu thực hiện đầy đủ các trình tự của việc đánh giá
xếp loại học sinh theo các biểu mẫu hằng tháng, sẽ mang lại kết quả rõ rệt cho hoạt
động của lớp nhất là ổn định nề nếp lớp và nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Điều này rất tốn công sức của GVCN, nhưng rất dễ dàng theo dõi tình hình lớp. Nói

như một số giáo viên: có thể điều khiển từ xa phong trào lớp.

2) Lợi ích và khả năng vận dụng của đề tài:
Đề tài này áp dụng rợng rãi cho giáo viên trong việc quản lý, giáo dục học sinh
với các cấp học phổ thông. Đặc biệt là giáo viên mới ra trường, vốn thừa lịng nhiệt
tình cùng với đề tài sẽ là mảnh đất tốt để ươm trồng bao hoài bão được ấp ủ bấy lâu.

3) Đề xuất, kiến nghị:

Nội dung đề tài có thể nói là bảng tổng hợp các q trình thử nghiệm của bản
thân tôi đối với công tác chủ nhiệm. Cũng có thể nói đây là bảng đúc kết kinh nghiệm
của q trình làm cơng tác giáo dục học sinh mà bản thân tơi thu lượm và đóng góp
của đồng nghiệp. Nhưng tơi thiết nghĩ, có nhiều khi chúng ta đã từng làm, từng trông
thấy các hiện tượng sự việc diễn ra rồi nhận xét, nhưng chưa đi sâu thêm tìm hiểu kỹ
vì sao như thế ! Đề tài có thể là cái gợi nhớ để thầy cô chúng ta tiếp tục cùng nhau
trao đổi và thực hiện tốt vai trò của người giáo viên nhân dân mà xã hội giao cho.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×