Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt: Nghiên cứu ứng xử cơ nhiệt của kết cấu cầu sử dụng bê tông có phụ gia khoáng silica fume

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI

TRẦN ĐỨC TÂM

NGHIÊN CỨU ỨNG XỬ CƠ - NHIỆT CỦA KẾT CẤU CẦU SỬ
DỤNG BÊ TƠNG CĨ PHỤ GIA KHỐNG SILICA FUME

Ngành : Kỹ thuật Xây dựng Cơng trình giao thơng
Mã số : 9580205

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT

HÀ NỘI- 2024

CƠNG TRÌNH ĐƯỢC HỒN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Đỗ Anh Tú
2. TS. Hoàng Việt Hải

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Trường tại Trường Đại học
Giao thông Vận tải,

vào hồi giờ ngày tháng năm


Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
- Thư viện Trường Đại học Giao thông vận tải;
- Thư viện Quốc Gia.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bê tơng với chất kết dính chính là xi măng Pooc-lăng được sử dụng nhiều trong

xây dựng hạ tầng giao thông vận tải. Nhiệt được giải phóng trong q trình thủy hóa xi
măng gây ra sự phân bố nhiệt độ khơng đồng đều trong kết cấu bê tông. Vấn đề này có
thể nghiêm trọng hơn khi bê tơng trong giai đoạn đơng cứng: nhiệt vẫn được sinh ra từ
q trình thủy hóa xi măng trong khi bề mặt của bê tơng đang nguội dần theo nhiệt độ
môi trường. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa lõi bê tông và bề mặt bên ngồi của nó có thể
gây ra ứng suất kéo đáng kể có thể làm tăng nguy cơ nứt ở bê tông tuổi sớm. Nứt trong
các cấu kiện bê tông khối lớn (BTKL) do ứng suất nhiệt là một vấn đề đã xuất hiện từ
lâu, rõ ràng nhất là khi nó được phát hiện lần đầu tiên trong các cơng trình đập thủy điện
trên thế giới từ đầu thế kỷ XX. Khái niệm "bê tơng khối lớn" từ đó cũng thường được
hiểu là các kết cấu BT có kích thước lớn như đập, khối móng lớn. Tuy nhiên gần đây,
thuật ngữ này cũng được sử dụng cho các bộ phận công trình cầu có kích thước lớn như
bệ móng, trụ, xà mũ, dầm hộp,... Các tiêu chuẩn về BTKL luôn yêu cầu phải kiểm soát
sự chênh lệch nhiệt độ giữa lõi và bề mặt của BT, từ đó giảm thiểu hoặc hạn chế vết nứt
nhiệt ngay trong giai đoạn xây dựng.

Xu thế hiện nay khi chế tạo bê tơng cường độ cao, tính năng cao,... là sử dụng
hàm lượng xi măng Pooc-lăng lớn và giảm tỉ lệ nước/xi măng. Ngoài ra, các phụ gia
khống hoạt tính như silica fume (SF), xỉ lị cao, tro bay,... cũng được sử dụng nhằm
giảm bớt lượng xi măng, giảm nhiệt tỏa ra, nhưng phần nào đó vẫn đảm bảo bê tông đạt

được cường độ mong muốn. Các hỗn hợp bê tơng sử dụng tro bay, xỉ lị cao cịn góp
phần giảm khí thải CO2 ra mơi trường. Với SF, sản phẩm phụ trong q trình thuỷ hố
xi măng sẽ phản ứng với silica và các khống có trong hỗn hợp tạo thêm pha rắn có tính
chất kết dính. Các sản phẩm đó làm tăng tỷ lệ rắn/lỏng trong hệ và tạo cho xi măng xỉ
có cường độ dài ngày cao hơn xi măng truyền thống. Đây là nguyên nhân làm tăng tính
bền vững của xi măng ở tuổi dài ngày. Tuy nhiên các nghiên cứu đó chưa xét được một
cách định lượng, việc thay thế xi măng bằng silica fume như vậy sẽ giảm nhiệt được bao
nhiêu và cường độ bê tơng ở tuổi sớm khi đó sẽ tăng, giảm như thế nào, có đảm bảo
được khả năng chống nứt nhiệt như mong muốn hay không.

Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu ứng xử cơ - nhiệt của kết cấu cầu sử dụng bê tơng
có phụ gia khống silica fume” sẽ góp phần giải quyết câu hỏi nêu trên. Luận án sẽ tiến
hành thực nghiệm về nhiệt và cường độ cho một số hỗn hợp bê tông cường độ cao có sử
dụng phụ gia khống là silica fume. Dựa vào kết quả thực nghiệm sẽ đánh giá định lượng
được ảnh hưởng của tỉ lệ theo % SF đến đặc tính nhiệt, cường độ và khả năng nứt nhiệt
của bê tông kết cấu cầu.
2. Mục tiêu của luận án

- Xác định được các đặc trưng nhiệt thủy hóa bao gồm: độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt,
nhiệt lượng tích lũy, tốc độ sinh nhiệt, các tham số đường cong nhiệt thủy hóa của BT
SF có sử dụng phụ gia khoáng SF bằng thực nghiệm.

- Phân tích ứng xử cơ - nhiệt, qua đó đánh giá sự phát triển nhiệt, ứng suất nhiệt
và rủi ro nứt nhiệt của trụ cầu sử dụng BT sử dụng hàm lượng SF thay thế xi măng khác
nhau (từ 0% đến 15%), từ đó đưa ra được bê tông với tỉ lệ SF hợp lý.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu

Các tham số và thuộc tính về nhiệt của bê tơng SF, ứng suất nhiệt, nứt nhiệt của
bê tông ở tuổi sớm trong kết cấu trụ cầu.

b) Phạm vi nghiên cứu

2

- Bê tơng có cường độ nén đặc trưng 50 MPa (thí nghiệm trong phịng) sử dụng
phụ gia khống SF thay thế xi măng từ 0 ÷15%; kết cấu trụ cầu có kích thước mặt cắt
ngang 2,8 m × 3,5 m ở tuổi sớm từ 0 ÷ 7 ngày tuổi.

- Nghiên cứu chủ yếu về ứng suất nhiệt (do nội và ngoại nhiệt), chưa xét đến các
ảnh hưởng về co ngót và phân bố cốt thép.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu thực nghiệm: thực nghiệm đo nhiệt độ đoạn nhiệt của bê tông và
thí nghiệm cường độ bê tơng.

- Nghiên cứu lý thuyết: thiết lập các mối quan hệ toán học trên các dữ liệu thí
nghiệm đã có, lập mơ hình tính tốn theo phương pháp sai phân hữu hạn và phần tử hữu
hạn để khảo sát và đánh giá.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Luận án đã nghiên cứu thực nghiệm cường độ ở tuổi sớm và các tham số nhiệt
thủy hóa từ phép đo nhiệt lượng đoạn nhiệt của một số cấp phối BT SF có sử dụng SF.
Qua so sánh, luận án đã tìm ra được hàm lượng thay thế SF hợp lý là 10% - 15% (trong
dải từ 0% đến 15%) đảm bảo rủi ro nứt nhiệt thấp. Đây có thể được coi là một giải pháp
vật liệu để kiểm soát nhiệt và hạn chế nứt nhiệt trong cấu kiện bê tơng cơng trình cầu.

Phương pháp luận nghiên cứu của luận án có thể được áp dụng để phân tích, đánh
giá cho các loại BT khác nhau và các cấu kiện khác nhau của cơng trình cầu, giúp đảm
bảo sự tồn vẹn, khả năng chịu lực và tuổi thọ khai thác của kết cấu.
6. Điểm mới của luận án


- Luận án đã xác định được nhiệt thủy hóa cho 4 hỗn hợp SF bằng thiết bị thí
nghiệm nhiệt lượng đoạn nhiệt: Hỗn hợp chứa 0% SF (SF00), hỗn hợp chứa 5% SF
(SF05), hỗn hợp chứa 10% SF (SF10) và hỗn hợp chứa 15% SF (SF15). Độ tăng nhiệt
độ đoạn nhiệt của các hỗn hợp lần lượt là 56,1; 54,9; 53,2; và 52,0C ghi nhận được tại các
mẫu SF00, SF05, SF10 và SF15. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các mẫu là không lớn, chỉ tối đa
là 4,1C.

- Bộ tham số nhiệt thủy hóa quan trọng của SF, bao gồm αu,  và  đã được xác
định dựa vào đường cong thực nghiệm sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Trong đó mức độ thủy hóa cuối cùng αu tăng khi tăng hàm lượng SF thay thế xi măng.
Luận án kiến nghị công thức hồi quy để xét đến ảnh hưởng của hàm lượng SF thay thế
xi măng đến mức độ thủy hóa cuối cùng như sau:

 u   u,0  kSF pSF   u,0  0, 23 pSF

trong đó: αu,0 là mức độ thủy hóa cuối cùng được xác định từ thực nghiệm của hỗn hợp
SF00 chứa 100% xi măng, pSF là hàm lượng SF trên tổng khối lượng chất kết dính.

- Hệ số giãn nở nhiệt CTE của các hỗn hợp được xác định bằng thực nghiệm bằng
máy Gilson HM-271F (Mỹ), theo tiêu chuẩn AASHTO 336T. CTE của các hỗn hợp BT SF
có độ chênh lệch không lớn khi thay đổi hàm lượng SF, giá trị trong khoảng 8.95 – 9.9310-
6/C. Đây là 1 trong các hệ số quan trọng về đặc tính vật lý của vật liệu BT, là một tham
số quan trọng bổ sung vào bộ tham số về nhiệt của BT, phục vụ bài tốn mơ hình và
đánh giá ứng suất nhiệt và rủi ro nứt nhiệt của BT do tác động của nội nhiệt và ngoại
nhiệt đồng thời ở tuổi sớm của kết cấu.

- Khi sử dụng hỗn hợp SF00 và SF05 cho kết cấu trụ có mặt cắt 2,8 m x 3,5 m,
thì hệ số  (là tỉ số giữa ứng suất nhiệt và cường độ chịu kéo khi ép chẻ theo thời gian)
vượt quá 1.0 trong khoảng thời gian 48 – 90 h (2 – 4 ngày), còn trụ cầu sử dụng hỗn hợp

SF10 và SF15 ln có hệ số  < 1.0 trong suốt khoảng thời gian 7 ngày đầu sau khi đổ
BT. Như vậy, SF10 và SF15 làm giảm nguy cơ nứt nhiệt so với SF00 và SF05 trong

3
cùng điều kiện về kích thước kết cấu và nhiệt độ môi trường xung quanh. Luận án đề
xuất sử dụng hỗn hợp bê tơng SF có hàm lượng SF thay thế hợp lý là từ 10-15% để giảm
thiểu rủi ro nứt nhiệt ở tuổi sớm.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HIỆU ỨNG NHIỆT CỦA BÊ TÔNG SỬ
DỤNG CHẤT KẾT DÍNH BỔ SUNG TRONG KẾT CẤU CẦU

1.1. Bê tơng xi măng và q trình thủy hóa của xi măng
1.1.1. Các phản ứng của q trình thủy hóa

Q trình thủy hóa của xi măng là phản ứng của các khoáng vật thành phần xi
măng với nước dẫn đến các thay đổi hóa học và cơ lý. Quá trình này sinh ra một lượng
nhiệt nhất định nào đó. Nhiệt thủy hóa là một đặc tính của xi măng Pc –lăng, lượng
nhiệt được giải phóng phụ thuộc vào thành phần xi măng, nhiệt độ bảo dưỡng, tỷ lệ
nước/xi măng và độ mịn của xi măng
1.1.2. Nhiệt thủy hóa

Dưới các điều kiện thông thường, luồng nhiệt sản sinh ra trong q trình thủy hóa
của xi măng được phân thành 5 giai đoạn (Hình 1.1) .

Hình 1. 1. Tốc độ tỏa nhiệt trong q trình thủy hóa của xi măng

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng nhiệt thủy hóa và sự phát triển nhiệt thủy hóa
1.1.4. Mức độ thủy hóa

Một số tác giả đã đề xuất các phương trình thực nghiệm để xác định mức độ

thủy hóa có thể đạt được đối với xi măng Pc-lăng. Trong các mơ hình này, w/c là tỷ
lệ nước/xi măng và Slag, FA là hàm lượng xỉ và tro bay trong hỗn hợp chất kết dính.

1.2. Các đặc tính của bê tơng ở tuổi sớm

Tuổi sớm là vài giờ hoặc vài ngày đầu sau khi trộn bê tơng, được đặc trưng bởi
hai q trình chính: đơng kết (mất dần trạng thái dẻo) và đóng rắn (tăng cường độ).
Trong các quá trình này, kết cấu đa pha chất lỏng của bê tông tươi chuyển thành kết cấu
cứng do tiến trình của các phản ứng thủy hóa, dẫn đến sự phát triển của các tính chất cơ
học, giải phóng nhiệt và các biến dạng co ngót. Do đó, sự liên kết giữa các đặc tính nhiệt
và cơ học của bê tông tuổi sớm là quan trọng hơn rất nhiều so với bê tông ở tuổi dài
ngày. Hơn nữa, việc bảo dưỡng hợp lí sau khi đổ bê tơng là vơ cùng quan trọng để duy
trì độ ẩm và nhiệt độ thích hợp trong bê tơng ở giai đoạn đầu này để các đặc tính mong
muốn có thể phát triển sau đó.

1.3. Hiệu ứng nhiệt của bê tơng ở tuổi sớm

Trong suốt giai đoạn tuổi sớm, sự phân bố trường nhiệt độ không đều gây mất
cân đối trong sự giãn nở nhiệt của kết cấu bê tông. Bề mặt với nhiệt độ thấp hơn phải
chịu ứng suất kéo do sự giãn nở nhiệt của phần bê tơng phía trong. Bề mặt của bê tông
chịu ứng suất kéo ngay từ khi bê tông đơng kết cho đến khi nhiệt thủy hóa phân tán hồn
tồn ra mơi trường xung quanh. Việc ứng suất kéo cao tại bề mặt có thể gây ra nứt nhiệt

4

hay không phụ thuộc vào tỉ số ứng suất kéo/cường độ chịu kéo. Trong suốt q trình
thủy hóa của bê tông tuổi sớm, cả ứng suất nhiệt và cường độ của bê tông đều được phát
triển nhưng ở tốc độ khác nhau. Khi ứng suất nhiệt từ sự mở rộng này vượt quá cường
độ chịu kéo của vật liệu, bê tông sẽ nứt. Hiện tượng này được coi là vấn đề nứt nhiệt.


1.4. Các yếu tố về vật liệu ảnh hưởng đến nhiệt độ và nứt nhiệt ở tuổi sớm của
bê tông
Vật liệu bê tơng có thể được tối ưu hóa để kiểm sốt sự phát triển nhiệt độ trong

bê tơng và do đó kiểm sốt các ứng suất nhiệt. Hầu hết các biện pháp tập trung vào việc
gián tiếp giảm khả năng nứt bằng cách giảm chênh lệch nhiệt độ và gradients nhiệt trong
bê tông.

Thiết kế hỗn hợp bê tông tối ưu được coi là cách dễ nhất để giảm thiểu các tác
động tiêu cực trong bê tông tuổi sớm. Việc lựa chọn các hỗn hợp thích hợp để giảm
thiểu sự phát triển nhiệt thường dựa trên sự kiểm soát của một hoặc một số biến vật liệu
sau:

 loại, lượng và độ mịn của xi măng, bao gồm loại và lượng phụ gia khoáng
hoạt tính,

 lượng nước và tỷ lệ nước/chất kết dính
 loại và thành phần của cốt liệu,
Để hạn chế sự tăng nhiệt độ trong kết cấu bê tơng, các phụ gia khống (muội
silic, tro bay, xỉ lị cao) được sử dụng ngày càng nhiều để thay thế một phần xi măng
Pooc-lăng.
* SF: SF là một loại phụ gia siêu mịn, có nguồn gốc từ q trình sản xuất kim loại silic
hoặc ferrosilicon. SF có hàm lượng SiO2 cao và diện tích bề mặt lớn, cho phép nó phản
ứng pozzolanic với hạt xi măng trong bê tông, tạo ra sản phẩm C-S-H (calcium silicate
hydrate) có tính chất kết dính và chống ăn mịn cao (ACI 234R-06). SF được sử dụng
rộng rãi trong ngành công nghiệp xi măng và bê tông để cải thiện hiệu suất và độ bền
của vật liệu xây dựng. SF xốp, diện tích bề mặt lớn vì vậy SF rất dễ hấp thụ, ví dụ trong
khơng khí ẩm silica hấp phụ nước trên bề mặt tạo các nhóm OH. Silica khơng hịa tan
trong nước và bất kỳ dung môi, không độc, không mùi, ổn định hóa học. SF đã được sử
dụng như là phụ gia khống cho BT trong các cơng trình cầu trên thế giới. Một số cơng

trình cầu sử dụng BT SF phải kể đến như là cầu dây võng Tsing Ma Bridge (Hong
Kong), trong đó BT SF được sử dụng để xây dựng trụ tháp cầu. Các cơng trình cầu nổi
tiếng khác sử dụng BT SF như Stolma Bridge (Na Uy), các cầu vượt nút giao I-25 ở
Denver, Colorado (Mỹ).
1.5. Tổng quan về nghiên cứu ứng xử nhiệt của bê tông ở tuổi sớm
1.5.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trước đây, việc sử dụng các biện pháp kiểm soát nhiệt độ chỉ giới hạn ở đập và
các kết cấu rất lớn. Kiểm soát nhiệt độ và sự phát triển ứng suất nhiệt trong cấu kiện bê
tông nhỏ hơn như các cấu kiện của cơng trình cầu, thường khơng được xem xét.
Với sự ra đời của bê tông cường độ cao, nứt ở giai đoạn tuổi sớm khơng cịn là
đặc thù của các kết cấu khối lớn. Thuật ngữ bê tông khối lớn được sử dụng theo nghĩa
rộng, bao gồm tất cả các loại cấu kiện bê tơng mà tác động của q trình thủy hóa xi
măng có thể dẫn đến rủi ro nứt nhiệt.
Theo tiêu chuẩn Nhật Bản JSCE 2007 và JCI 2008, các kết cấu sàn có độ dày
trên 80 cm và tường bị kiềm chế chuyển vị, có độ dày trên 50 cm đã có thể được coi là
kết cấu bê tơng khối lớn và địi hỏi phải có biện pháp kiểm sốt nhiệt thủy hóa.
Theo Neville khi độ chênh nhiệt độ giữa bề mặt và lõi của khối bê tơng vượt q
20C thì vết nứt bắt đầu hình thành, có thể tại bề mặt của bê tông hoặc bên trong của

5

khối.
Sở giao thông Florida (FDOT) cho phép độ chênh nhiệt độ tối đa là 20oC(hoặc

35oF) giữa nhiệt độ lõi và bề mặt ngồi của cấu kiện bê tơng khi đo bằng các cảm biến
nhiệt độ (FDOT 2007).

ACI 207.2R 1997 cũng khuyến nghị độ chênh nhiệt độ lớn nhất là 20oC và nhiệt
độ tối đa bên trong (thường là 71oC) để kiểm sốt nứt nhiệt và hình thành ettringite muộn
(DEF).


Năm 2001, ACI 363 đã thông qua định nghĩa sau của bê tông CĐC: bê tơng
cường độ cao có cường độ chịu nén đặc trưng 8000 psi (55 MPa) hoặc lớn hơn. Nhu
cầu sử dụng bê tông CĐC bắt đầu từ những năm 1970, chủ yếu trong xây dựng các cột
và tường nhà cao tầng. Sau đó bê tơng CĐC tiếp tục được sử dụng rộng rãi trên khắp thế
giới.

Việc sử dụng bê tông CĐC trong xây dựng cầu đã bắt đầu ở Hoa Kỳ vào giữa
những năm 1990 thông qua một loạt các dự án. Bê tông cường độ cao cũng được sử
dụng trong cầu dầm hộp nhịp dài và cầu dây văng.

Các mẫu bê tơng CĐC có xu hướng nứt nhiều hơn do co ngót của nhiệt và khô
tăng lên. Các vết nứt trên mũ trụ cầu xuất hiện là do việc sử dụng lượng lớn xi măng
trong bê tông. Trong 1 cuộc khảo sát năm 1995, Chương trình nghiên cứu hợp tác đường
quốc lộ (NCHRP) của Mỹ đã báo cáo qua khảo sát một loạt sàn cầu bê tông tại Mỹ cho
thấy đầy đủ chiều sâu của vết nứt ngang, ngay cả khi các cấu trúc mới hình thành chưa
được 1 tháng.
1.5.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Năm 2012 Bộ Xây dựng đã ra tiêu chuẩn TCXD VN 9341:2012 '' Bê tông khối
lớn - Thi công và nghiệm thu" trong đó quy định kết cấu bê tơng hoặc bê tông cốt thép
được coi là khối lớn khi có kích thước đủ để gây ra ứng suất kéo, phát sinh do hiệu ứng
nhiệt thuỷ hoá của xi măng, vượt quá giới hạn kéo của bê tông, làm nứt bê tơng, và do
đó cần phải có biện pháp để phòng ngừa vết nứt.

Một số các nghiên cứu điển hình phải kể đến như nghiên cứu của Đỗ Văn Lượng
(2005), Nguyễn Thống (2010), Hồ Ngọc Khoa và Nguyễn Chí Cơng (2012), Lê Quốc
Toàn (2015), Nguyễn Văn Liên (2018) và Nguyễn Văn Hướng (2019). Các nghiên cứu
này đa số đề cập đến các kết cấu sử dụng bê tông thường, và đưa ra một số giải pháp
hạn chế nhiệt và nứt nhiệt trong BTKL.

1.6. Tổng quan về ứng dụng BT sử dụng phụ gia khống SF trong cơng trình cầu

Hiện nay trong xây dựng công trình cầu, hàm lượng SF thay thế xi măng tối ưu
là từ 5 - 15% trong hỗn hợp BT. Khi sử dụng hàm lượng SF hợp lý và kết hợp các yếu
tố khác, cường độ bê tơng có thể đạt đến 100 - 150 MPa. Điều này là do SF giúp giảm
lượng nước cần thiết cho quá trình trộn, làm giảm tỷ lệ nước/xi măng, và tạo ra một
mạng lưới cấu trúc vi mô trong bê tông đặc chắc hơn.

Tuy nhiên, việc sử dụng SF cũng có một số hạn chế và thách thức. Một trong
những hạn chế là việc SF làm giảm độ sụt của bê tơng, do đó cần phải sử dụng các chất
siêu giảm nước để duy trì độ sụt mong muốn. Một hạn chế khác là việc SF có thể làm
tăng độ dính của bê tơng, do đó cần phải tăng cường quá trình trộn và đổ bê tông. Một
thách thức là việc xác định liều lượng tối ưu của SF trong bê tông, phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như loại và lượng xi măng, loại và lượng vữa, loại và lượng nước, loại và lượng
phụ gia khác, và điều kiện thi công.

SF đã được sử dụng như là phụ gia khống cho BT trong các cơng trình cầu trên
thế giới. Một số cơng trình cầu sử dụng BT SF phải kể đến như là cầu dây võng Tsing
Ma Bridge (Hong Kong) (Hình 1.9), trong đó BT SF được sử dụng để xây dựng trụ tháp

6
cầu. Các cơng trình cầu nổi tiếng khác sử dụng BT SF như Stolma Bridge (Na Uy) (Hình
1.10), dầm ứng suất trước cầu vượt nút giao I-25 ở Denver, Colorado (Mỹ) (Hình 1.11).

Hình 1.9. Cầu Tsing Ma Bridge (Hồng Kơng) (ACI 234R-06) [17].

Hình 1.10. Cầu Stolma Bridge (Na Uy) (ACI 234R-06) [17].

Hình 1.11. Cầu vượt nút giao I-25 ở Denver, Colorado (Mỹ) (ACI 234R-06) [17].
Ở Việt Nam, SF đã được sản xuất ở quy mô công nghiệp, và đã được sử dụng

làm phụ gia khoáng cho BT xây dựng cầu. BT sử dụng SF đã được chứng minh tính
hiệu quả về mặt cường độ, độ bền, tính chống thấm,... Một số cơng trình cầu điển hình
sử dụng BT có phụ gia khống SF được sản xuất bởi hãng Sika có thể kể đến như là cầu
cầu Cửa Lục 1 (Hình 1.12) và cầu Cửa Lục 3 (Quảng Ninh), cầu Bến Rừng nối Hải
Phòng với Quảng Ninh, cảng Lạch Huyện (Hải Phòng),...

7

Hình 1.12. Cầu Cửa Lục 1 (Quảng Ninh).
1.7. Kết luận chương 1.

Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về nhiệt tỏa ra trong q trình thủy hóa
xi măng đã khẳng định phản ứng thủy hóa là phản ứng tỏa nhiệt và kích hoạt nhiệt. Điều
này có nghĩa là q trình sinh nhiệt thủy hóa có hiệu ứng thứ cấp, tức là tốc độ tỏa nhiệt
tức thời tại một điểm nhất định trong BT (cùng 1 loại hỗn hợp) sẽ phụ thuộc vào nhiệt
độ tại điểm đó. Ngồi ra, các tính chất của vật liệu và hiện tượng liên quan đến sự phát
triển thủy hóa, chẳng hạn như cường độ, mô đun đàn hồi, từ biến ở tuổi sớm, sẽ thay đổi
tùy theo sự kéo dài của phản ứng.

BT sử dụng các chất kết dính bổ sung (tro bay, xỉ lò cao nghiền mịn, silica fume
và nano silica,...) thay thế 1 phần xi măng đã và đang là xu thế trong xây dựng cơng
trình giao thơng do chúng mang đến nhiều lợi ích khác nhau như giảm lượng xi măng
được sử dụng, giảm nhiệt tỏa ra trong quá trình thủy hóa xi măng, giảm hiện tượng phát
thải khí CO2 góp phần bảo vệ môi trường. Sử dụng tro bay thay thế xi măng cịn làm
tăng tính cơng tác của bê tông do tác dụng bôi trơn của các hạt tro bay hình cầu. Bê tơng
sử dụng xỉ lị cao nghiền mịn làm tăng độ bền xâm thực nước biển, xâm thực sunfat, đạt
cường độ và tính năng cao hơn. SF khi được sử dụng thay thế một phần xi măng trong
các hỗn hợp bê tơng truyền thống thì ngồi việc tăng độ bền, khả năng chống thấm, cịn
có thể làm tăng cường độ và cải thiện chất lượng BT.


Hiện nay trên thế giới, việc sử dụng SF cho bê tông trong xây dựng cơng trình đã
được hướng dẫn trong ACI 234R-06. Ở Việt Nam, SF đã được sản xuất cơng nghiệp
hóa (ví dụ như sản phẩm PP1 của hãng Sika...), và vì vậy phù hợp với việc sử dụng trong
bê tông cho cơng trình cầu ở quy mơ cơng nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu đánh giá ảnh
hưởng của hàm lượng silica fume đến nhiệt tỏa ra trong q trình thủy hóa của xi măng
và khả năng giảm thiểu rủi ro nứt do nhiệt ở tuổi sớm còn thiếu khuyết. Việc đánh giá
hiệu ứng cơ và nhiệt đồng thời của kết cấu cầu sử dụng BT có SF ở tuổi sớm cần được
tiến hành nghiên cứu một cách chuyên sâu và đầy đủ.

Từ những nhận xét trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu phân tích sự phát triển nhiệt
độ và ứng suất trong bộ phận kết cấu cầu bê tông sử dụng silica fume, từ đó đánh giá
hiệu ứng cơ - nhiệt nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro nứt nhiệt ở tuổi sớm cho kết cấu
cầu.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ỨNG XỬ CƠ – NHIỆT CỦA BÊ
TƠNG KẾT CẤU Ở TUỔI SỚM CĨ SỬ DỤNG PHỤ GIA KHOÁNG
SILICA FUME

2.1. Cơ sở lý thuyết về ứng xử cơ - nhiệt của bê tông kết cấu ở tuổi sớm
Phương trình vi phân truyền nhiệt trong khơng gian 3 chiều có xét đến nguồn sinh

nhiệt bên trong, có thể áp dụng để mơ tả q trình phát sinh và truyền nhiệt của bê tơng
trong q trình thủy hóa xi măng.

T   T    T    T 
ρcp   k    k    k   qh (2.8)

t x  x  y  y  z  z 

Trong đó:


qh - tốc độ nhiệt lượng sinh ra trong 1 đơn vị thể tích (W/m3),

ρ - khối lượng riêng của bê tơng (kg/m3),

cp - nhiệt dung riêng của bê tông (J/kg.°C),

k - hệ số dẫn nhiệt của bê tông (W/m.°C),

T - nhiệt độ (°C),

8

t - thời gian (s).

Truyền nhiệt qua đối lưu

Đối lưu nhiệt là quá trình trao đổi nhiệt được thực hiện nhờ sự chuyển động của chất

lỏng hay chất khí giữa các vùng có nhiệt độ khác nhau hoặc sự truyền nhiệt từ một hệ

rắn sang một hệ lỏng (hoặc khí) và ngược lại, được thể hiện qua định luật Newton về

trạng thái làm mát:

qc  hAs (Ts  Ta ) (2.9)

Trong đó:

qc - tốc độ truyền nhiệt qua đối lưu (W)


Ts - nhiệt độ tại bề mặt (°C)

Ta - nhiệt độ của khơng khí (hoặc chất lỏng) (°C)
As - diện tích bề mặt (m2)
h - hệ số truyền nhiệt đối lưu (W/m2.°C)

Tốc độ sinh nhiệt

Mơ hình tốn học biểu diễn q trình sinh nhiệt được sử dụng phổ biến nhất hiện

nay là mơ hình kết hợp phương pháp tuổi tương đương của bê tông (equivalent age

maturity method) và đường cong dạng mũ mức độ thủy hóa của xi măng. Phương pháp

này dùng để xác định tốc độ phát sinh nhiệt, biểu diễn bởi phương trình (2.11). Tuổi

tương đương (te) và mức độ hydrat hóa cuối cùng (u) có thể được tính tương ứng bằng

phương trình (2.12) và phương trình (2.13). Các tham số nhiệt thủy hóa,  và  có thể

được xác định từ dữ liệu thực nghiệm bằng phương pháp mịn hóa đường cong.

    (2.11)
 (te )  u exp     
 te  
 

t  Ea  1 1  (2.12)


te  exp   dt

0  R  Tr Tc (t) 

u  1, 031.w / cm  0,5. pFA  0, 3. pslag (2.13)

0,194  w / cm

Tổng nhiệt lượng tỏa ra Q(te) theo tuổi tương đương có thể được tính bằng

phương trình (2.15). Tốc độ tỏa nhiệt q(te) có thể được tính là đạo hàm bậc nhất của

Q(te) như trong phương trình (2.16), và tốc độ tỏa nhiệt thủy hóa theo thời gian thực

q(t) được tính như phương trình (2.17).

Q te   Qc. te  (2.15)



dQ   
qte    Qc. te .  .
dte  te  te (2.16)
(2.17)

     Ea  1 1 
dQ dQ dte
qt   .  Q dt dt c. te .  . .exp e dt  te  te    R     T  r Tc t 

Hàm độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt


Độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt (khơng có trao đổi nhiệt với bên ngồi) được xác định

từ nhiệt lượng tích lũy theo quan hệ (2.20) dưới đây.

Q (2.20)
T 

mC p

trong đó:

ΔQ - độ tăng nhiệt lượng (J),

9

m - khối lượng của mẫu (kg),
Cp - nhiệt dung riêng của mẫu (J/kg.°C),
ΔT - thay đổi về nhiệt độ hay độ tăng nhiệt độ (°C).
Q trình tính tốn:
Chương trình máy tính “EACTSA” kết hợp phương pháp SPHH và PTHH được
dùng để phân tích nhiệt và ứng suất. Trong quá trình phân tích, chương trình EACTSA
thực hiện tính tốn nhiệt độ trước. Dữ liệu nhiệt độ tại mỗi phần tử sau đó được sử dụng
để tính ứng suất. So với các phần mềm thương mại (như Midas Civil) thì ở đây chương
trình tính có những ưu điểm như sau:
1- Tính tốn được tốc độ sinh nhiệt tại từng điểm khác nhau trong BT, ngoài

việc phụ thuộc vào bản chất của loại hỗn hợp BT, còn xét được ảnh hưởng
của nhiệt độ tại điểm đó theo thời gian: q(te) = q(t,T). Nói cách khác, mỗi
điểm trong BT sẽ có tốc độ sinh nhiệt khác nhau.

2- Ứng xử đàn nhớt của BT ở tuổi sớm cũng được xét đến chi tiết theo từng giờ
thông qua hàm tuân thủ từ biến, bằng việc sử dụng mô đun đàn hồi hiệu dụng
Eeff để đưa vào công thức phần tử hữu hạn.
Q trình phân tích sử dụng bước thời gian là 1h. Sơ đồ khối thuật tốn được
trình bày dưới đây:

Hình 2.7. Sơ đồ khối tính tốn q trình Hình 2.8. Sơ đồ khối tính tốn ứng suất

sinh nhiệt và truyền nhiệt. nhiệt.

Các mơ hình số mô phỏng ứng xử nhiệt tuổi sớm của bê tông

Trước đây, các nghiên cứu ban đầu chủ yếu tập trung vào việc sử dụng các hàm

lý thuyết mô tả sự phát sinh nhiệt trong q trình thủy hóa xi măng để tính tốn độ tăng

nhiệt độ đoạn nhiệt, sau đó áp dụng vào mơ hình tính. Các mơ hình tính tốn trên thế

giới gần đây đã xét đến vai trị của các phụ gia khống hoạt tính trong hỗn hợp bê tông

10

và sự phức tạp của tải trọng nhiệt không đồng đều từ nhiệt thủy hóa cũng như đặc tính
vật liệu của bê tông tuổi sớm không đều phụ thuộc nhiệt độ đã được đưa vào tính tốn
để dự đốn tốt hơn về ứng xử của bê tông. Các mô hình số ngày càng phức tạp để gần
hơn với thực tế cả về mặt hình học và hiện tượng học được xem xét để đánh giá ứng
suất nhiệt trong kết cấu.

Các mô hình tính tốn sự phát triển nhiệt và ứng suất trong BT ở tuổi sớm chủ
yếu được các nhà nghiên cứu xây dựng bằng phương pháp PTHH, điển hình là sử dụng

các phần mềm tính tốn ABAQUS [25], TNO DIANA [96], ANSYS [144] và Midas
Civil [5], các mơ hình này đã được tóm tắt trong mục tổng quan ở Chương 1. Trong
nghiên cứu này, tác giả sử dụng kết hợp phương pháp sai phân hữu hạn và PTHH thông
qua chương trình tính EACTSA để giải quyết bài tốn.

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến ứng xử cơ – nhiệt của BT sử dụng phụ gia
khoáng

Trước đây, việc nghiên cứu ứng xử cơ – nhiệt của BT kết cấu chủ yếu được tiến
hành trên đối tượng là "bê tông khối lớn" - là các khối kết cấu BT có kích thước lớn như
đập, móng khối lớn,... Với BTKL, nhiệt do phản ứng thủy hóa xi măng tích tụ trong lịng
của khối và do khối có kích thước lớn nên q trình dẫn nhiệt ra bề mặt và ra môi trường
xung quanh diễn ra rất chậm. Chính vì vậy sự chênh lệch nhiệt độ giữa lõi và bề mặt của
BT là lớn, gây ra biến dạng và ứng suất nhiệt lớn, là tiền đề gây nứt nhiệt của khối BT.
Hiện nay, ngành xây dựng cầu đã ứng dụng nhiều loại vật liệu bê tông cường độ cao,
tính năng cao, siêu cao... sử dụng hàm lượng xi măng lớn trong thành phần hỗn hợp.
Khái niệm BTKL khơng cịn đơn thuần là kết cấu có kích thước lớn nữa, mà ngay cả
các kết cấu thanh mảnh cũng có nguy cơ nứt nhiệt khi sử dụng bê tơng có hàm lượng xi
măng lớn.

Xu thế hiện nay khi chế tạo bê tơng cường độ cao, tính năng cao,... là sử dụng
hàm lượng xi măng Pooc-lăng lớn và giảm tỉ lệ nước/xi măng. Ngồi ra, các phụ gia
khống như xỉ lị cao, tro bay, SF, metakaolin,... cũng được sử dụng nhằm giảm bớt
lượng xi măng, giảm nhiệt tỏa ra trong quá trình thủy hóa xi măng, từ đó có khả năng
giảm được biến dạng nhiệt và rủi ro nứt nhiệt. Phụ gia khoáng tro bay được sử dụng
tương đối phổ biến - như là chất độn trơ - nhằm giảm nhiệt sinh ra trong lòng khối. Tuy
nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc thay thế một phần xi măng bằng tro bay tuy
làm giảm nhiệt nhưng lại đồng thời làm giảm cường độ chịu nén và cường độ chịu kéo
của BT, từ đó làm giảm khả năng kháng nứt của BT. Tương tự như tro bay, xỉ lò cao
nghiền mịn khi sử dụng trong hỗn hợp BT sẽ làm tăng độ sụt và tính cơng tác của BT

tưới. Với xỉ, cường độ bê tơng có suy giảm ở tuổi sớm, tuy nhiên ở tuổi 60 và nhất là 90
ngày, cường độ chịu nén của bê tông được cải thiện khi tỷ lệ xỉ ở mức 20% đến 40% so
với tổng lượng vật liệu chất kết dính.

Nứt trong bê tông tuổi sớm xảy ra khi ứng suất kéo vượt quá cường độ chịu kéo
tại một thời điểm nào đó ở tuổi sớm. Hầu hết các giải pháp vật liệu kể trên tập trung vào
việc làm khả năng nứt bằng cách giảm nhiệt, giảm chênh lệch nhiệt độ của khối bê tông
kết cấu. Tuy nhiên, việc xem xét các tính chất cơ học khác như sự phát triển cường độ,
mô đun đàn hồi,... là cần thiết để ngăn ngừa nứt nhiệt tuổi sớm. Đối với BT ở tuổi sớm,
sự phát triển của cường độ chịu kéo là một yếu tố rất quan trọng trong việc giảm thiểu
nứt sớm trong kết cấu.

Như đã nêu tổng quan ở Chương 1, vật liệu phụ gia khoáng SF khi được sử dụng
thay thế một phần xi măng trong các hỗn hợp bê tơng truyền thống thì ngồi việc tăng
độ bền, khả năng chống thấm, cịn có thể làm tăng cường độ nén và cường độ kéo của
BT, đặc biệt là ở tuổi sớm. Mặt khác, hiện nay trên thế giới, việc sử dụng SF cho bê tông

11

trong xây dựng cơng trình đã được hướng dẫn trong tiêu chuẩn (ACI 234R-06). Ở Việt
Nam, SF đã được sản xuất cơng nghiệp hóa (ví dụ như sản phẩm PP1 của hãng Sika...),
và vì vậy phù hợp với việc sử dụng trong bê tơng cho cơng trình cầu ở quy mơ cơng
nghiệp. Vì vậy, trong các mục tiếp theo, luận án sẽ trình bày các hiệu ứng cơ – nhiệt của
vật liệu SF và của BT kết cấu có sử dụng SF ở tuổi sớm, nhằm xây dựng giả thiết cho
bài toán trước khi tiến hành thực nghiệm và đánh giá sâu hơn ở Chương 3 và 4.

2.3. Hiệu ứng cơ – nhiệt của BT kết cấu có sử dụng phụ gia khoáng SF

2.3.1. Silica fume
Silica fume là một loại phụ gia khống khơng kết tinh, rất mịn, có nguồn gốc từ


quá trình sản xuất kim loại silicon hoặc ferrosilicon trong lò hồ quang điện. SF được
phát hiện lần đầu tiên vào những năm 1940 tại Na Uy, khi các nhà khoa học nhận thấy
sự xuất hiện của một loại bột mịn trong khói từ lị nung sản xuất kim loại silicon và
ferrosilicon. Sau đó, các phương pháp thu thập và xử lý SF từ khói đã được nghiên cứu
và phát triển, đồng thời tiêu chuẩn hóa các đặc tính kỹ thuật của SF [69]. Đến năm 1976,
SF đã được công nhận là một phụ gia khoáng chất lượng cao trong sản xuất xi măng và
bê tông. SF là vật liệu có tính "pozzolanic" cao được sử dụng để tăng cường tính chất
cơ học và độ bền của bê tơng. Nó có thể được thêm trực tiếp vào trong hỗn hợp bê tông
như một thành phần riêng lẻ hoặc được trộn sẵn với xi măng Poóc lăng tạo thành xi
măng Poóc lăng hỗn hợp (silica-fume blended cement). Năm 2006, ủy ban ACI 234R-
06 [17] ước tính có khoảng 130.000 tấn SF được sử dụng cho bê tơng hàng năm trên
tồn thế giới - ứng với hơn 6 triệu mét khối bê tơng SF được sử dụng trên tồn cầu mỗi
năm.

Sự quan tâm đến việc sử dụng silica fume xuất phát từ việc thực thi nghiêm ngặt
các biện pháp chống ơ nhiễm khơng khí để ngăn chặn việc thải SF vào môi trường. Việc
sử dụng silica fume trong bê tông ban đầu chủ yếu là để thay thế xi măng, cùng với các
phụ gia giảm nước (WRA). Cuối cùng, sự ra đời của các phụ gia giảm nước ở mức độ
cao (HRWR, thường được gọi là phụ gia siêu dẻo) đã mang lại những khả năng mới cho
việc sử dụng silica fume để tạo ra BT hiệu suất cao ACI 234R-06 [17].

SF ngưng tụ từ khí thốt ra từ lị nung, có hàm lượng silicon dioxide (SiO2) vơ
định hình rất cao và bao gồm các hạt hình cầu rất mịn thường có kích thước (đường
kính) trung bình từ 0,1 đến 0,2 µm. Kích thước của hạt SF riêng lẻ bằng khoảng 1/100
kích thước trung bình của hạt xi măng. Thông thường, một số hạt riêng lẻ có thể được
hợp nhất với nhau để tạo thành các khối kết tụ nhỏ.

Silica fume ban đầu được xem như một vật liệu thay thế xi măng, nhưng hiện nay
lý do quan trọng nhất cho việc sử dụng nó là để sản xuất bê tơng tính năng cao (HPC),

trong đó việc bổ sung silica fume giúp cải thiện các đặc tính của bê tơng. Với vai trị
này, silica fume đã được sử dụng để sản xuất bê tơng có cường độ nén cao và có dải độ
bền rất cao. Ở Hoa Kỳ, silica fume được sử dụng chủ yếu để sản xuất bê tơng có khả
năng chống xâm nhập clorua cao hơn cho các kết cấu bãi đậu xe, cầu và bản mặt cầu.
Lĩnh vực ứng dụng ngày càng tăng của SF là làm chất phụ gia cho bê tơng phun, trong
đó SF thường làm giảm lượng mất mát khi bị bật ra khỏi bề mặt, cho phép tăng độ dày
phun và nói chung là cải thiện chất lượng của vật liệu được đổ [17].

SF có hàm lượng SiO2 cao và diện tích bề mặt lớn. Do độ mịn của vật liệu cao
nên việc thêm SF vào hỗn hợp bê tông sẽ làm tăng nhu cầu về nước. Để sản xuất bê tông
chất lượng cao, độ bền cao cần duy trì (hoặc giảm) tỷ lệ nước/chất kết dính (w/cm). Do
đó, phụ gia siêu dẻo (HRWR), đôi khi được kết hợp với phụ gia giảm nước (WRA),
được sử dụng để đạt được tính năng và độ cơng tác cần thiết. Bê tơng SF sẽ có tính kết

12

dính cao hơn bê tơng thơng thường; do đó, thiết kế độ sụt cao hơn một chút thường sẽ

được u cầu để duy trì tính cơng tác tương đương.

2.3.2. Tính chất vật lý của SF:

Màu sắc: Hầu hết SF có màu từ xám nhạt đến xám đậm. Tỷ trọng: Tỷ trọng của

silica fume khoảng từ 2,2 đến 2,33 (tỷ trọng của xi măng Poóc lăng là xấp xỉ 3,1). Khối

lượng thể tích: Khối lượng thể tích của SF thu được từ quá trình sản xuất kim loại
silicon và hợp kim ferrosilicon thường dao động từ 130 đến 430 kg/m3, thông thường

nhất là giá trị ở gần giữa phạm vi này. Độ mịn: SF chủ yếu bao gồm các hạt tinh thể

hình cầu rất mịn với diện tích bề mặt xấp xỉ 20.000 m2/kg khi đo bằng phương pháp hấp

phụ nitơ.

2.3.3. Thành phần hóa học của SF:

SF thường chứa hơn 90% silicon dioxide (SiO2). Thành phần hóa học của SF

thay đổi tùy theo loại hợp kim được sản xuất. Các thành phần hóa học khác có thể gồm:

Al2O3, Fe2O3, CaO, MgO, Na2O, K2O, S, SO3 và C.

2.3.4. Cơ chế của BT có SF:

Cơ chế vật lý và hóa học có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc vi mô của hồ xi

măng, từ đó ảnh hưởng tới tính chất của hồ xi măng, vữa xi măng và BT.

Cohen và cộng sự [53] đã tính tốn rằng khi thay thế 15% silicafume cho xi măng,

có khoảng 2 triệu hạt silica fume cho mỗi hạt xi măng trong hỗn hợp bê tông. Vì vậy,

khơng có gì ngạc nhiên khi silica fume có ảnh hưởng rõ rệt đến tính chất của bê tơng.

Tuy nhiên hiệu quả phụ thuộc vào sự phân tán triệt để các hạt silica-fume trong hỗn hợp.

Điều này đòi hỏi phải bổ sung đủ lượng phụ gia hóa học để phá vỡ lực bề mặt, đảm bảo

sự phân tán tốt và do đó thúc đẩy việc lèn chặt các hạt rắn. Việc cho nguyên liệu vào


máy trộn theo đúng trình tự cũng như trộn kỹ cũng rất cần thiết.

2.3.4.1. Hiệu ứng vật lý:

SF tăng cường tính chất của bê tơng theo cả cơ chế vật lý và hóa học. Các cơ chế

vật lý bao gồm giảm phân tách nước, cung cấp các vị trí tạo mầm và chèn kín các hạt

rắn hiệu quả hơn.

2.3.4.2. Hiệu ứng hóa học:

SF là một loại pozzolan có tính phản ứng cao. Trong hồ xi măng đang thủy hóa,

silica fume sẽ phản ứng với CH (sản phẩm phụ trong q trình thuỷ hố) để tạo thành

canxi-silicat hydrat (CSH) – đây là pha rắn có tính chất kết dính – theo phương trình

dưới đây:

3Ca(OH)2 + 2SiO2 + H2O = 3CaO.2SiO2.H2O (2.1)

Buck và Burkes [47] đã nghiên cứu khả năng phản ứng của SF với CH trong nước

ở nhiệt độ 38°C. Họ phát hiện ra rằng dạng CSH kết tinh tốt được hình thành sau 7 ngày

dưỡng hộ. Kurbus và cộng sự. [92] nhận thấy tốc độ phản ứng tăng lên rất nhiều ở nhiệt

độ cao. Ở 90°C, 95% CH được thêm vào đã phản ứng chỉ sau 2,5 giờ trong hỗn hợp SF


và CH có tỉ lệ SF:CH = 4:1.

2.3.4.3. Thay đổi cấu trúc vi mơ

Tác dụng chính của SF là làm giảm độ xốp của vùng chuyển tiếp giữa hồ xi măng

và cốt liệu, đây là liên kết yếu trong hầu hết bê tơng. Nó cũng tinh chỉnh các lỗ rỗng

trong hồ xi măng rời bằng nhiều cơ chế khác nhau được mô tả trong phần này. Kết quả

cuối cùng là cường độ của bê tông tăng lên và giảm độ thấm và độ khuếch tán của nó.

2.3.4.4. Tự hút ẩm và nước cho thủy hóa

Bê tơng silica-fume có w/cm thấp có xu hướng tự hút ẩm, giống như bất kỳ loại

bê tơng nào có w/cm thấp. Tuy nhiên, khơng giống như bê tơng khơng có silica fume,

bê tơng silica fume có thể tiếp tục tăng cường độ mà khơng cần thêm nước.

13

2.3.4.5. Nhiệt thủy hóa
Sự hiện diện của silica fume làm tăng tốc độ sinh nhiệt do hiệu ứng tăng tốc quá

trình thủy hóa xi măng ([17]). Silica fume, do diện tích bề mặt cao, làm tăng tốc q
trình hydrat hóa alite (Malhotra et al. 1987b [103]). Sự phát triển nhiệt ban đầu của alite
được tăng cường khi có mặt silica hoạt động (Kurdowski và Nocun-Wczelik 1983 [93]).
Vì vậy, có thể kỳ vọng rằng xi măng Poóc lăng có hàm lượng alite cao sẽ được hưởng
lợi từ silica fume; nhiều CH được tạo ra hơn, do đó, có sẵn để phản ứng pozzolan với

SF.

Dữ liệu về nhiệt thủy hóa của hệ xi măng poóc lăng và SF được lấy từ các thí
nghiệm ở tuổi sớm. Huang và Feldman ([56]) đã đo nhiệt thủy hóa bằng thiết bị đo đẳng
nhiệt cho các hỗn hợp hồ xi măng chứa 0, 10, 20 và 30% silica fume. Kết quả cho thấy,
mặc dù tốc độ sinh nhiệt từ phản ứng lớn hơn khi lượng silica fume thay thế tăng lên,
nhưng tổng lượng nhiệt giải phóng, biểu thị trên tổng chất rắn trong hỗn hợp, lại giảm
đi một chút khi tăng hàm lượng silica fume thay thế xi măng.

Dữ liệu của Kumar và Roy (1984) [91] chỉ ra rằng tổng lượng nhiệt có thể giảm
từ 15 đến 30%, tùy thuộc vào loại xi măng cụ thể và lượng silica fume được sử dụng.
Sự giảm tổng nhiệt lượng thủy hóa cũng quan sát được bởi Meland (1983) [107] trên
kết quả đo nhiệt lượng đẳng nhiệt của các hỗn hợp hồ xi măng và SF, với % SF thay thế
xi măng là 10% và 20% khi so sánh với hồ xi măng không có SF. Ngồi ra, các nghiên
cứu cịn cho thấy BT có SF đóng rắn nhanh hơn nhiều so với BT khơng có SF.
2.3.5. Ảnh hưởng của SF lên tính chất của BT tươi

Nhu cầu nước của bê tông chứa SF tăng lên khi lượng silica fume ngày càng tăng.
Sự gia tăng này chủ yếu là do diện tích bề mặt cao của SF. Để đạt được sự cải thiện tối
đa về cường độ và độ bền, bê tông silica fume phải chứa phụ gia giảm nước, phụ gia
siêu dẻo hoặc cả hai. Liều lượng phụ gia hóa học sẽ phụ thuộc vào lượng silica fume và
loại phụ gia được sử dụng.

Bê tơng tươi có chứa silica fume có độ kết dính cao hơn và ít bị phân tầng hơn
bê tơng khơng có silica fume. Khi hàm lượng silica fume tăng lên, bê tông sẽ trở nên
dính. Cần phải tăng độ sụt ban đầu của bê tơng có SF lên khoảng 50 mm so với u cầu
đối với bê tơng xi măng pc lăng thơng thường để duy trì tính cơng tác tương đương.

ACI 234R-06 [17] chỉ ra rằng thời gian đông kết của BT không bị ảnh hưởng
đáng kể bởi việc sử dụng chỉ riêng silica fume. Các phụ gia hóa học thường được sử

dụng trong bê tơng silica-fume có thể ảnh hưởng đến thời gian đơng kết của bê tơng.
Việc kiểm sốt thực tế thời gian đơng kết có thể đạt được bằng cách sử dụng các phụ
gia hóa học thích hợp.
2.3.6. Ảnh hưởng của SF lên tính chất của BT đã đóng rắn

- Bê tông SF có cường độ nén cao hơn BT khơng sử dụng SF khi so sánh với
cùng tỉ lệ nước/CKD (w/cm). Cường độ nén của BT SF phát triển nhanh hơn ở tuổi sớm
so với BT không sử dụng SF. Tuy nhiên ở tuổi muộn (trên 90 ngày) thì cường độ nén
của BT SF lại thấp hơn so với BT không sử dụng SF.

- Ở nhiệt độ thấp, silica fume khơng có hiệu quả như xi măng trong việc gia tăng
cường độ sớm, trong khi nhiệt độ bảo dưỡng cao sẽ đẩy nhanh hơn hiệu quả của SF.

- Khi bảo dưỡng ở nhiệt độ cao, cường độ nén của bê tơng silica fume giảm ít
hơn nhiều so với bê tông không sử dụng SF.

Sự phát triển cường độ kéo uốn và ép chẻ của bê tơng có chứa SF tương tự như
bê tơng khơng có SF. Đối với cả hai loại bê tông, khi cường độ nén tăng thì cường độ
kéo uốn và ép chẻ cũng tăng, nhưng với tỷ lệ giảm từ từ. Trong bê tông đã đông cứng,
tỷ lệ cường độ kéo và cường độ nén bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tính chất của vật liệu sử

14
dụng; do đó, khơng tồn tại mối quan hệ thường xuyên giữa cường độ nén và cường độ
kéo uốn hay cường độ ép chẻ. Do đó, để xây dựng mối quan hệ giữa các loại cường độ
cho một hỗn hợp BT SF cụ thể nào đó thì cần phải tiến hành các thí nghiệm riêng.

2.4. Luận bàn về hiệu ứng cơ-nhiệt của BT SF tới khả năng nứt nhiệt của
khối BT kết cấu cầu ở tuổi sớm

Từ các phân tích ở Chương tổng quan (Chương 1) và các mục ở trên, luận án đưa

ra 3 giả thiết về xu hướng xảy ra khi sử dụng SF thay thế xi măng trong BT cho kết cấu
cầu:

1) Khi tăng hàm lượng SF thay thế xi măng trong BT thì làm giảm nhiệt thủy
hóa, làm giảm T, từ đó làm giảm khả năng nứt nhiệt (hiệu ứng pha lãng trội hơn – Hình
2.12a).

2) Khi tăng hàm lượng SF thay thế xi măng trong BT thì làm tăng cường độ của
BT ở tuổi sớm, từ đó làm giảm khả năng nứt nhiệt (hiệu ứng cơ học trội hơn – Hình
2.12b).

3) Đồng thời cả 2 xu hướng trên.

a) Giảm ứng suất nhiệt do hiệu ứng pha loãng b) Tăng cường độ của BT do SF
Hình 2.12. Giả thiết về xu hướng xảy ra khi sử dụng SF thay thế xi măng trong BT.
Từ các giả thiết đặt ra, ở Chương 3, luận án sẽ tiến hành thực nghiệm về nhiệt và

cường độ. Sau đó hiệu ứng cơ-nhiệt sẽ được định lượng hóa và đánh giá chi tiết ở
Chương 4.

2.5. Kết luận chương 2

Chương 2 đã trình bày khái niệm về SF, việc sử dụng SF như phụ gia khoáng
thay thế một phần xi măng trong BT, cũng như nêu phản ứng thủy hóa pozzolan của SF
với CH để tạo thêm pha rắn có tính chất kết dính trong BT. Hiệu quả của BT SF khi sử
dụng cho cơng trình cầu được minh họa qua các cơng trình cầu đã được xây dựng trên
thế giới và ở Việt Nam.

Chương 2 cịn trình bày cơ sở lý thuyết về dẫn nhiệt trong BT và trao đổi nhiệt
với mặt thống, trong đó có xét đến q trình phát sinh nhiệt do phản ứng thủy hóa xi

măng. Phương pháp SPHH và PTHH được ứng dụng để tính tốn nhiệt và ứng suất trong
kết cấu BT ở tuổi sớm, thông qua mô tả quy trình tính tốn của chương trình EACTSA.
Đây là cơng cụ đã được kiểm chứng và sẽ được sử dụng để tính tốn, khảo sát và phân
tích trong Chương 4.

Cuối cùng, Chương 2 của luận án đưa ra 3 giả thiết về xu hướng xảy ra khi sử
dụng SF thay thế xi măng trong BT cho kết cấu cầu: 1) hiệu ứng pha lãng trội hơn, 2)
hiệu ứng cơ học trội hơn, hay 3) cả 2 hiệu ứng đồng thời (không hiệu ứng nào rõ rệt
hơn). Từ các giả thiết đặt ra, ở Chương 3, luận án sẽ tiến hành thực nghiệm về nhiệt và
cường độ. Sau đó hiệu ứng cơ-nhiệt sẽ được định lượng hóa và đánh giá chi tiết ở
Chương 4.

15

CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM XÁC ĐỊNH ĐẶC TRƯNG NHIỆT VÀ
CƯỜNG ĐỘ CỦA BÊ TÔNG SỬ DỤNG PHỤ GIA KHOÁNG SILICA

FUME TRONG CƠNG TRÌNH CẦU
3.1. Mục đích thí nghiệm

Từ các tiếp cận ở Chương 1, tác giả sẽ tiến hành xây dựng chương trình thí
nghiệm bao gồm thí nghiệm về nhiệt và cường độ của BT có chất kết dính bổ sung silica
fume dùng cho cơng trình cầu. Mục đích là để tìm ra các con số định lượng về nhiệt và
cường độ cho các hỗn hợp BT có hàm lượng SF khác nhau, từ đó so sánh và đánh giá
theo tiêu chí về nứt nhiệt.

Theo ACI 211.4R-08, tỷ lệ SF thay thế xi măng (%) từ 0÷15% là hợp lý. Để khảo
sát sự biến thiên về nhiệt và cường độ khi thay đổi hàm lượng SF thay thế xi măng, trong
phạm vi nghiên cứu này, tác giả lựa chọn các cấp phối bê tơng có tổng hàm lượng chất
kết dính khơng đổi, giữ ngun tỉ lệ nước/chất kết dính và thay đổi hàm lượng SF thay

thế với các mức chênh đều nhau, lần lượt là 0%, 5%, 10% và 15%.

Chương trình thí nghiệm bao gồm 4 phần: thí nghiệm cường độ (cường độ chịu
nén và cường độ chịu kéo khi ép chẻ của mẫu BT), hệ số giãn nở nhiệt (CTE) và đo
nhiệt thủy hóa của các hỗn hợp bê tông theo phương pháp đoạn nhiệt. Từ kết quả thực
nghiệm này, đường cong mức độ thủy hóa, tốc độ sinh nhiệt cũng như đường cong phát
triển cường độ của BT sẽ được mô tả và được sử dụng làm đầu vào cho mơ hình số dự
đốn sự phát triển nhiệt độ và ứng suất trong kết cấu cơng trình cầu.

3.2. Thí nghiệm cường độ

3.2.1. Thành phần hỗn hợp BT SF thí nghiệm
Thành phần cấp phối cho các hỗn hợp bê tơng SF được tính tốn theo hướng

dẫn ACI 211.4R-08 và thể hiện trong Bảng 3.10:
Bảng 3.10. Thành phần cấp phối chuẩn cho 1m3

BT % thay N/CKD Nước Xi măng SF Đá (kg) Cát Phụ gia
(kg)
thế (lít) (kg) (kg) (kg)

SF00 0% 0,32 169 530 0 1098,2 620,4 5,5

SF05 5% 0,32 169 503.5 26,5 1098,2 611,8 5,5

SF10 10% 0,32 169 477 53 1098,2 603,2 5,5

SF15 15% 0,32 169 450.5 79,5 1098,2 594,6 5,5

3.2.2. Thí nghiệm xác định cường độ chịu nén


Cường độ chịu nén của 60 mẫu trụ 0,15m0,3m sử dụng 4 hỗn hợp bê tông SF đã
được đo ở 1, 2, 3, 7 và 28 ngày tuổi theo tiêu chuẩn ASTM C39 .

Bảng 3.11. Cường độ chịu nén theo ngày tuổi (MPa)

Tuổi (ngày) SF00 SF05 SF10 SF15

1 38.54 39.26 39.13 41.24

2 49.02 50.53 50.72 50.23

3 51.23 53.52 55.80 56.62

7 52.45 60.44 61.03 62.63

28 66.26 69.06 73.34 71.65

3.2.3. Thí nghiệm đo cường độ chịu ép chẻ

Cường độ chịu ép chẻ của 60 mẫu trụ 0,15m0,3m sử dụng 4 hỗn hợp bê tông đã

được đo ở 1, 2, 3, 7 và 28 ngày tuổi theo tiêu chuẩn ASTM 496 -04.

16

Bảng 3.13. Cường độ chịu ép chẻ theo ngày tuổi (MPa)

Tuổi (ngày) SF00 SF05 SF10 SF15


1 3.21 3.78 3.54 3.78

2 3.75 4.04 4.22 4.32

3 4.15 4.34 4.29 4.45

7 4.27 4.49 4.80 4.56

28 4.70 4.89 5.13 5.07

3.3. Thí nghiệm đo nhiệt thủy hóa

Nhiệt thủy hóa của 4 hỗn hợp bê tông đã được đo theo phương pháp đoạn nhiệt bằng

thiết bị thí nghiệm được chế tạo tại Trường Đại học Giao thơng Vận tải (Hình 3.8) dựa

trên khái niệm được mô tả bởi Gibbon và cộng sự và được cải tiến bởi Lin và Chen

(2015).

Hình 3.8. Thiết bị thí nghiệm đo nhiệt lượng đoạn nhiệt được dùng trong nghiên cứu.
Nhiệt độ ban đầu của các mẫu SF00, SF05, SF10 và SF15 lần lượt là 24,1; 29,7; 27,4

và 28,0C. Nhiệt độ của các mẫu này đạt giá trị tối đa lần lượt là 80,2; 84,6; 80,6 và 80,0C ở
thời điểm cuối của q trình thí nghiệm. Độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt cao nhất của các mẫu
SF00, SF05, SF10 và SF15 lần lượt là 56,1; 54,9, 53,2; và 52,0C.

90 60

80 50


70 SF00

40 SF00

SF05 SF05
60
SF10
30 SF10

SF15 SF15
50

20
40

30 10

20 0

0 10 20 30 40 50 60 70 80 0 10 20 30 40 50 60 70 80

Thời gian (h) Thời gian (h)

Hình 3.10. Nhiệt độ đoạn nhiệt thực nghiệm Hình 3.12. Nhiệt lượng tích lũy của các mẫu

của các mẫu hỗn hợp bê tông SF hỗn hợp BTSF

Xác định mức độ thủy hóa và các tham số nhiệt thủy hóa


Bảng 3.16. Các thuộc tính về nhiệt của BT SF
Hỗn hợp Hu (J/g) Qc (J/m3) Ea (J/mol)  (kg/m3) cp (J/kg.°C)

SF00 459,731 243657218 36011 2424 1043

SF05 436,744 231474357 33009 2416 1043

SF10 413,758 219291496 30029 2407 1043

SF15 390,771 207108635 27071 2398 1043

Ba tham số thủy hóa (u, , và ) được xác định bằng phương pháp bình phương

tối thiểu giữa số liệu thực nghiệm và đường cong mức độ thủy hóa 3 tham số và được

17

trình bày trên Bảng 3.17. Đường cong mức độ thủy hóa thực nghiệm và hồi quy theo

tuổi tương đương của các hỗn hợp bê tơng được vẽ trên Hình 3.14.

Bảng 3.17. Các tham số nhiệt thủy hóa của BT SF

Hỗn hợp  (h)  u

SF00 21.20 1.554 0.5839

SF05 20.52 1.59 0.5953

SF10 13.65 1.403 0.6037


SF15 11.56 1.561 0.6208

Để thể hiện ảnh hưởng của hàm lượng SF thay thế xi măng đến mức độ thủy hóa
cuối cùng của BT SF, đường hồi quy tuyến tính được tính tốn dựa trên phương pháp
bình phương tối thiểu giữa số liệu thực nghiệm và đường thẳng lý thuyết. Công thức hồi
quy được đề xuất như sau (với hệ số R2 = 0,9779):

 u   u,0  kSF pSF   u,0  0, 23 pSF (3.16)

trong đó:
αu,0 là mức độ thủy hóa cuối cùng được xác định từ thực nghiệm của hỗn hợp
SF00 chứa 100% xi măng,
kSF là hệ số hồi quy, được xác định = 0,23.

Trên Hình 3.16, đường màu đỏ gạch đứt thể hiện đường hồi quy tuyến tính của mức độ
thủy hóa cuối cùng theo tỷ lệ thay thế của SF.

0.625

0.62

Mức độ thủy hóa 0.615

0.61

0.605

0.6


0.595

0.59

0.585

0.58 5% 10% 15%
0%

Phần trăm SF thay thế

Hình 3.16. Đường hồi quy giữa mức độ thủy hóa cuối cùng và tỷ lệ % SF thay thế.

3.4. Thí nghiệm đo hệ số giãn nở nhiệt của các hỗn hợp BT

Các mẫu BT được đo hệ số giãn nở nhiệt tại Trung tâm KHCN GTVT, Trường
Đại học GTVT theo tiêu chuẩn AASHTO 336T. Sau khi xử lý số liệu, hệ số giãn nở
nhiệt của 4 hỗn hợp bê tông SF được thể hiện như Bảng 3.19 dưới đây. Hệ số CTE của
4 hỗn hợp biến động nhỏ, nằm trong phạm vi từ 8,95 – 9,9310-6/C, sự ảnh hưởng của
hàm lượng SF đến CTE của BT là không rõ ràng, điều này cũng phù hợp với các nghiên
cứu trước đây nói rằng CTE chủ yếu phụ thuộc vào loại cốt liệu lớn (đá). Theo nghiên
cứu gần đây của Ngô Hồi Thanh [14] trên các cấp phối bê tơng dùng cho mặt đường
BT xi măng, bê tông sử dụng cốt liệu đá quartzite ở 28 ngày tuổi có hệ số giãn nở nhiệt
bằng 11,18 10-6/C, cịn bê tơng sử dụng cốt liệu đá vơi ở 28 ngày tuổi có hệ số giãn
nở nhiệt bằng 7,4110-6/C. Như vậy kết quả nghiên cứu phù hợp với các công bố trước
đây.

Bảng 3.19. Hệ số giãn nở nhiệt (CTE) của các hỗn hợp BT silica fume (10-6/C)

18


Hỗn hợp CTE (10-6/C)
SF00 8.95
SF05 9.25

SF10 9.22

SF15 9.93

3.5. Kết luận chương 3

(1) Chương trình thực nghiệm cường độ cho 3 hỗn hợp SF 0%, 5% và 15% SF đã
được trình bày. Cường độ chịu nén và chịu kéo khi ép chẻ được đo tại 1, 2, 3, 7 và 28 ngày
tuổi. Các hỗn hợp SF có cường độ chịu nén ở 3 ngày tuổi đạt trên 75% cường độ nén trung
bình ở 28 ngày, và cường độ chịu kéo khi ép chẻ ở 3 ngày tuổi đạt trên 80% cường độ chịu
kéo khi ép chẻ trung bình ở 28 ngày tuổi.

(2) Nhiệt thủy hóa cho 4 hỗn hợp SF đã được xác định bằng bộ thiết bị thí nghiệm
nhiệt lượng đoạn nhiệt cải tiến tại Trường ĐH GTVT. Độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt (trừ đi
nhiệt độ ban đầu) của các hỗn hợp lần lượt là 56,1; 54,9, 53,2; và 52,0C ghi nhận được tại
các mẫu SF00, SF05, SF10 và SF15. Hỗn hợp SF00 có độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt lớn nhất do
hàm lượng xi măng lớn nhất. Ngược lại, hỗn hợp SF15 có độ tăng nhiệt độ đoạn nhiệt nhỏ nhất
do hàm lượng xi măng ít nhất trong các hỗn hợp. Tuy nhiên, sự chênh lệch nhiệt độ giữa các
mẫu là không lớn, chỉ tối đa là 4,1C.

(3) Bộ tham số nhiệt thủy hóa quan trọng của SF, bao gồm αu,  và  đã được
xác định dựa vào đường cong thực nghiệm sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Ảnh hưởng của hàm lượng SF thay thế xi măng đến mức độ thủy hóa cuối cùng của BT
có thể được xác định bởi công thức hồi quy sau:


 u   u,0  kSF pSF   u,0  0, 23 pSF

(4) Hệ số giãn nở nhiệt CTE của các hỗn hợp được xác định bằng thực nghiệm bằng
máy Gilson HM-271F (Mỹ), theo tiêu chuẩn AASHTO 336T. CTE của các hỗn hợp BT SF
có độ chênh lệch khơng lớn khi thay đổi hàm lượng SF, giá trị trong khoảng 8.95 – 9.9310-
6/C. Đây là 1 trong các hệ số quan trọng về đặc tính vật lý của vật liệu BT, là một tham
số quan trọng bổ sung vào bộ tham số về nhiệt của BT, phục vụ bài tốn mơ hình và
đánh giá ứng suất nhiệt và rủi ro nứt nhiệt của BT do tác động của nội nhiệt và ngoại
nhiệt đồng thời ở tuổi sớm của kết cấu.

CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH ỨNG XỬ CƠ - NHIỆT CỦA KẾT CẤU CẦU

SỬ DỤNG BÊ TƠNG CĨ PHỤ GIA KHỐNG SILICA FUME Ở TUỔI

SỚM

4.1. Phân tích các tham số đầu vào

4.1.1. Các tham số về cường độ của bê tông

Mối quan hệ giữa cường độ chịu nén (fc) và cường độ chịu kéo (fct) tuổi sớm của

bê tông thường với mức độ thủy hóa () được điều chỉnh thay đổi cho phù hợp theo các

công thức sau:

a (4.9)

fc (t )  pc  (t )


b (4.10)

fct (t )  pct  (t )

trong đó:

pc, pct là các hệ số xác định từ đường cong hồi quy của các số liệu thực nghiệm.

fc(t), fct(t) – cường độ chịu nén và cường độ chịu kéo theo thời gian

Đường cong hồi quy của cường độ chịu kéo của các hỗn hợp BTCĐC lần lượt


×