Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

ĐIỆN THÁI HÒA VÀ ĐIỆN CẦN CHÁNH THỜI NGUYỄN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ BỐ TRÍ KHÔNG GIAN NGHI LỄ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.32 MB, 18 trang )

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

ĐIỆN THÁI HÒA VÀ ĐIỆN CẦN CHÁNH THỜI NGUYỄN
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ BỐ TRÍ KHƠNG GIAN NGHI LỄ

Phan Thanh Hải*

Lời giới thiệu
Điện Thái Hịa và Điện Cần Chánh (Cần Chính) là hai cơng trình quy mơ
và có vai trị quan trọng bậc nhất trong khu vực Hoàng Thành và Tử Cấm Thành
(Hoàng Cung) tại Kinh đô Huế thời Nguyễn (1802-1945). Xét dưới góc độ bố
trí khơng gian và nghi lễ, hai ngơi điện này có mối quan hệ mật thiết với nhau
và là biểu hiện tiêu biểu nhất của mối quan hệ giữa cung điện chính của hai khu
vực Ngoại triều và Nội đình. Điện Cần Chánh đã bị thiêu hủy trong chiến tranh
(1947) nên không dễ để trực tiếp quan sát và so sánh nó với Điện Thái Hịa.
Trong hơn hai thập niên vừa qua (1995-2018), Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đơ
Huế và Viện Di sản Thế giới của Đại học Waseda, Nhật Bản đã tích cực hợp tác
để nghiên cứu và chuẩn bị khởi động dự án phục ngun Điện Cần Chánh và một
số cơng trình kiến trúc khác bên trong Hoàng Cung, đến nay đã đạt được một số
thành quả đáng kể(1).
Trong bài viết dưới đây, thông qua việc giới thiệu và so sánh giữa Điện Thái
Hòa và Điện Cần Chánh về quy mơ, cấu trúc cũng như bố trí khơng gian nghi lễ,
tác giả sẽ phân tích làm rõ mối quan hệ giữa hai cơng trình đặc biệt này, từ đó làm
nổi bật lên tính độc đáo, sáng tạo và riêng có của kiến trúc Việt Nam truyền thống
nói chung và kiến trúc cung đình thời Nguyễn nói riêng.
1. Quy hoạch và cấu trúc Hoàng Cung nhà Nguyễn
Hoàng Cung Huế là khái niệm thường dùng để chỉ khu vực Hoàng Thành và
Tử Cấm Thành (tên cũ là Cung Thành) thời Nguyễn. Đây là khu vực quan trọng
nhất của Kinh đô Huế, nơi tập trung một số lượng rất lớn các cơng trình kiến trúc
cung đình tiêu biểu, có quy mơ lớn.


(*) Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế.
(1) Đây là dự án hợp tác nghiên cứu, đào tạo dài hạn giữa Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đơ Huế và Viện Di

sản Thế giới thuộc Đại học Waseda (Heritage Waseda, Tokyo, Nhật Bản) bắt đầu từ năm 1995. Trong
quá trình này hai bên đã cùng tổ chức nhiều hội thảo khoa học liên quan đến công tác nghiên cứu phục
hồi Điện Cần Chánh và các cung điện trong Hoàng Cung Huế, xuất bản các tài liệu, kỷ yếu hội thảo; xây
dựng mơ hình thu nhỏ (1/50, 1/10 của Điện Cần Chánh), trùng tu Điện Long Đức, Điện Chiêu Kính (khu
vực Thái Miếu); xây dựng mơ hình ảnh Thái Miếu (tỷ lệ 1/10)…

Văn hóa - Lịch sử l 27

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được khởi công xây dựng từ năm 1804 thời
vua Gia Long. Đầu thời Minh Mạng, kể từ năm 1821, khu vực này được quy hoạch
sắp xếp lại một cách hoàn chỉnh, đăng đối.

Hồng Thành có bình diện hình chữ nhật, mặt nam và bắc dài 641m, mặt
đông và tây dài 568m, chu vi 2.418m2; tường thành cao hơn 4m, chiều dày hơn 1m,
bao bọc lấy một khu vực rộng hơn 360.000m, tức khoảng 72 mẫu(2). Hồng Thành
có 4 cửa bố trí tại 4 mặt (Ngọ Mơn phía nam, Hịa Bình phía bắc, Hiển Nhân phía
đơng, Chương Đức phía tây), ngun có 4 khuyết đài xây lồi ra ở chính giữa của
4 mặt, năm 1833, vua Minh Mạng triệt bỏ Nam Khuyết Đài để xây cửa Ngọ Môn.

Xét về mặt quy hoạch và cấu trúc của Hồng Thành Huế, về cơ bản bao gồm
2 phần chính: Ngoại triều và Nội đình, diện tích tồn bộ xấp xỉ 72 mẫu. Hoàng
Thành là nơi tổ chức các nghi lễ triều hội và thờ cúng của triều Nguyễn, nơi sinh
sống của nhà vua cùng thái hậu, cung phi, thái giám và binh lính bảo vệ; khơng có
dân cư sinh sống trong khu vực này.


+ Ngoại triều 外朝: Nằm ở phía nam, bên ngồi Tử Cấm Thành, được tính từ
Ngọ Mơn đến hết Điện Thái Hòa, theo nghĩa rộng, khu vực này bao gồm gần một nửa
phía nam của Hồng Thành với 3 trục: Trục trung tâm, trục phía tả và trục phía hữu.

Trục trung tâm nằm trên đường Dũng đạo của Kinh đơ, tính từ cổng Ngọ
Mơn 2 tầng (là cửa chính mặt Nam kiêm chức năng lễ đài), xuyên qua cầu Trung
Đạo, sân Đại triều nghi(3), và đến điểm sau cùng là Điện Thái Hòa 太和殿 đặt
trên thềm rồng cao, bên trong là ngai vàng biểu tượng quyền lực của triều Nguyễn.

Theo nghĩa hẹp, Ngoại triều cũng chính là khu vực trung tâm này.

Trục phía tả (phía đơng) là 2 ngơi miếu thờ: Phía trước là Triệu Tổ Miếu thờ
Triệu tổ của họ Nguyễn là Nguyễn Kim; sau là Thái Tổ Miếu thờ các đời chúa
Nguyễn (từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Thuần).

Trục phía hữu (phía tây) là 2 miếu thờ: Phía trước là Hưng Tổ Miếu thờ
Nguyễn Phúc Ln (hay Cơn), thân sinh vua Gia Long; phía sau là Thế Tổ Miếu,
thờ các đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Khải Định.

(2) Các số đo của Hoàng Thành và Tử Cấm Thành đều lấy từ kết quả khảo sát thực tế của nhóm nghiên
cứu phối hợp Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (HMCC) và Viện Di sản Thế giới, Đại học Waseda
(HW). Đơn vị mẫu truyền thống có giá trị xấp xỉ 5.000m2, từ sau năm 1898, do Bắc Bộ áp dụng hệ thống
thước đo 1 thước = 40cm nên mỗi mẫu chỉ còn 3.600m2, nhưng vùng Trung Bộ không áp dụng hệ thước
đo mới nên giá trị của mẫu không thay đổi.

(3) Theo cách tính của triều Nguyễn, sân đại triều gồm có 2 tầng sân: tầng trên là Đan bệ, khi diễn ra nghi
lễ chỉ dành cho quan lại mang hàm từ Tam phẩm đến Nhất phẩm; tầng dưới là Long trì, dành cho quan
lại từ Cửu phẩm đến Tứ phẩm. Trên hai tầng sân này có bia đá ghi rõ phẩm hàm theo hai bậc chánh và
tong, bên trái dành cho quan văn, bên phải dành cho quan võ theo nguyên tắc “tả văn hữu võ”. Ngồi
ra cịn có tầng sân thứ ba dành cho kỳ lão tại địa phương tham dự nghi lễ.


28 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Bốn miếu thờ tổ này được bố trí đăng đối với nhau, ngồi các miếu chính cịn
có một số kiến trúc phụ thuộc, tiêu biểu nhất là Hiển Lâm Các (Thế Miếu), Tuy
Thành Các (Thái Miếu), các nhà tả-hữu vu, nhà thờ Thổ công, nhà bếp…

Nếu trục chính là nơi cử hành các hoạt động triều hội, thì hai trục Đơng-Tây
là nơi cử hành các nghi lễ tế tự (thờ cúng) của triều Nguyễn(4).

+ Nội đình 內廷: Theo nghĩa rộng, khu vực này gồm Tử Cấm Thành ở trung
tâm, Điện Phụng Tiên, Diên Thọ Cung, Trường Sanh Cung ở phía tây; Nội Vụ Phủ,
Cơ Hạ Viên và Hậu Hồ ở phía đơng và phía bắc, tức chiếm hơn 1/2 diện tích của
cả Hoàng Thành.

Theo nghĩa hẹp, Nội đình là Tử Cấm Thành, nằm ở trung tâm khu vực trên,
rộng hơn 9ha (18 mẫu), gồm 2 cung điện chính là Cung Càn Thành và Cung Khơn
Thái dành cho nhà vua và hoàng hậu. Mỗi cung ngoài điện chính cịn có nhiều
cơng trình phụ thuộc và có hệ thống hành lang nối kết với nhau. Cung Càn Thành
vẫn kiêm một phần chức năng “ngoại triều”, còn Cung Khơn Thái thì thuần túy
chỉ có tính chất “nội đình”. Điện Cần Chánh 勤政殿 là điện chính của Cung Càn
Thành và vẫn giữ một phần chức năng của khu “Ngoại triều” khi tổ chức các nghi
lễ của triều đình.

Như vậy, có thể nói trong cách quy hoạch và cấu trúc Hoàng Cung triều
Nguyễn, Điện Thái Hịa và Điện Cần Chánh là hai cơng trình nổi bật, quan trọng
nhất của phần Ngoại triều và phần Nội đình (theo nghĩa hẹp).


2. Lịch sử xây dựng và quy mô của Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh

2.1. Điện Thái Hòa

Căn cứ vào thư tịch, lịch sử xây dựng và tu sửa Điện Thái Hịa có thể tạm
chia thành 3 giai đoạn chính: Thời kỳ Gia Long, thời kỳ Minh Mạng và thời kỳ
Khải Định. Ngoài 3 giai đoạn này, dưới thời Tự Đức, Thành Thái, Bảo Đại cũng
có những đợt tu bổ nhỏ.

Điện Thái Hòa được xây dựng vào năm Gia Long thứ 4 (1805)(5) và hoàn
thành vào tháng 8 Âm lịch cùng năm (tức là tháng 10 năm 1805 Dương lịch). Ngày
12 tháng 5 năm Bính Dần, tức là ngày 28 tháng 6 năm 1806, vua Gia Long mới
cho “đặt nghi vệ đại triều ở điện Thái Hòa và cử hành lễ đăng quang chính thức

(4) Nếu khơng tính khu vực 4 miếu thờ ở hai trục Đơng-Tây, thì kích thước khu vực trung tâm không lớn
lắm, khoảng 72 trượng x 60 trượng (305m x 254m - khoảng 15,5 mẫu), trong khi đó, khu Nội đình được
Ðại Nam nhất thống chí tính là bao gồm cả Tử Cấm Thành, với kích thước khoảng 81 trượng x 72
trượng (343,5m x 305m - tương đương 21 mẫu). Đơn vị thước đo chiều dài thời Nguyễn tương đương
42,4cm, mỗi trượng = 10 thước = 4,24m.

(5) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1963). Đại Nam thực lục. Tập II. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb Sử học.
Hà Nội, tr. 224.

Văn hóa - Lịch sử l 29

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

tại đây”(6). Bấy giờ ngôi điện tọa lạc cách vị trí hiện tại về phía bắc khoảng 50m,
cùng ở trên trục Dũng đạo của Hoàng Thành. Đến năm Gia Long thứ 18 (1819),
Điện Thái Hòa được sửa chữa cùng một đợt với các Điện Cần Chánh, Điện Trung

Hòa, nhà Quang Minh, nhà Trinh Minh.(7)

Trong lịch sử xây dựng Kinh đô Huế, vua Gia Long là người thiết kế những
cơng trình cơ bản đầu tiên, đặt nền tảng cho quy hoạch chung, còn vua Minh Mạng
(1820-1841) là người hoàn chỉnh việc quy hoạch và xây dựng hầu hết các cơng
trình cịn lại. Riêng trong Hoàng Thành, nhà vua đã cho quy hoạch, nâng cấp, tu
sửa, điều chỉnh lại và xây dựng thêm nhiều công trình, trong đó có Điện Thái Hịa.

Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vào tháng Giêng, khi tái quy hoạch và
hồn chỉnh hóa hệ thống kiến trúc cung đình ở Hồng Cung, vua Minh Mạng đã
cho “dời điện Thái Hịa hơi dé về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn. Dưới thềm điện
ấy làm bệ đỏ, dưới bệ đỏ là long trì, dưới long trì là hồ Thái Dịch, có xây cái cầu
ở giữa. Hai đầu cầu đều có cửa ngăn (Cột đồng trụ, chạm hoa bằng đồng đỏ kẽm
trắng, pha chế 4 phần đồng, 6 phần kẽm”)(8). Trong quá trình xây dựng và sửa chữa
Điện Thái Hòa, nhà vua đã rất chú trọng đến bộ mặt của cơng trình kiến trúc, điều
này được thể hiện qua việc “vua đến xem chỗ thợ làm điện Thái Hịa, thấy mái hiên
thấp, bảo đổng lý Đồn Văn Phú rằng: Đây là nơi để triều cận phải nên cao lớn
rộng rãi để cho đẹp mắt; nay làm mái hiên ấy, bảo là để che mưa gió, thì việc che
mưa gió chỉ là việc nhỏ, mà để đẹp đẽ nơi triều cận thì là việc to, làm như thế khác
nào tiếc con dê mà không trọng lễ? Liền sai phá đi”(9).

Ngoài ra, Điện Thái Hòa còn được vua Minh Mạng sửa sang thêm một lần
nữa vào năm 1839 (năm Minh Mạng thứ 20) cùng một lượt với cửa Đại Cung. Lần
này, nhà vua cho sơn thếp lại cả hai cơng trình này bằng sơn son, thếp vàng bạc,
hai hàng cột chính vẽ hình rồng mây, các cột hai bên thếp bạc vẽ hình tản vân.(10)

Dưới thời Thành Thái (1889-1907): Năm 1891 nhà vua đã cho trùng tu lại
ngôi điện; tiếp đến năm 1899, nền điện được lát gạch hoa thay thế gạch Bát Tràng
tráng men trước đó.(11)


(6) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1963). Đại Nam thực lục. Tập III. Bản dịch của Viện Sử học. Sđd, tr. 313.
(7) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1963). Đại Nam thực lục. Tập IV. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb Sử học.

Sđd, tr. 380.
(8) Công việc này được giao cho thự Hiệp biện Đại học sĩ Lê Đăng Doanh, Thống chế Nguyễn Tăng Minh,

thự Thống chế Hồ Văn Khuê, thự Thượng thư Lê Văn Đức, chia mọi công việc. Thị lang Bộ Công là
Nguyễn Trung Mậu và Đoàn Văn Phú theo giúp việc. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1965). Đại Nam thực
lục. Tập XII. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb Khoa học. Hà Nội, tr. 17.
(9) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1965). Đại Nam thực lục. Tập XII. Sđd, tr. 39 - 40.
(10) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1969). Đại Nam thực lục. Tập XXI. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb KHXH.
Hà Nội, tr. 214.
(11) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1960). Đại Nam nhất thống chí. Tập Kinh sư. Bản dịch của Tu trai Nguyễn
Tạo. Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gịn.

30 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Thời Khải Định (1916-1925): Điện Thái Hòa được cải tạo và hiện đại hóa một
số chi tiết phù hợp với sở thích của vị vua yêu thích sự cách tân(12). Năm 1923, nhà
vua đã đại gia trùng kiến Điện Thái Hòa để chuẩn bị cho lễ “Tứ tuần Đại Khánh
tiết” (mừng vua tròn 40 tuổi vào năm 1924). Trong đợt tu sửa lần này, có một số
bộ phận kiến trúc của ngơi điện được thay đổi và làm mới: Một là, lắp ráp thêm hai
hệ thống cửa kính ở mặt trước và mặt sau ngơi điện (vốn trước đó hai mặt này để
trống, chỉ treo sáo để che); hai là, trổ cửa sổ hình trịn lớn, giữa gắn chữ Thọ ở hai
mảng tường gạch chịu lực ở mặt tiền hai chái của ngôi điện. Ngồi ra, nhà vua cịn
cho làm mới lại bửu tán bằng pháp lam và các lớp diềm bằng gỗ chạm lộng thếp
vàng, thay cho bửu tán cũ bằng nỉ thêu. Ngoài ra, tất cả các bộ phận bằng gỗ ở nội
thất đều được sơn son thếp vàng lại. Đến tháng 9 năm 1924 (ngày 13 tháng 8 năm

Khải Định thứ 9), khi tồn bộ kiến trúc của ngơi điện được trùng tu xong, nhà vua
tổ chức lễ Khánh thành cho cơng trình này cùng một đợt với Điện Càn Thành(13).

Về quy mô và cấu trúc: Điện Thái Hịa là một ngơi điện kép tiêu biểu nhất cho
thức kiến trúc cung điện thời Nguyễn, chính điện 5 gian 2 chái kép, tiền điện 7 gian
2 chái đơn, được xây trên nền cao 0,9m, so với mặt đất, xung quanh bó vỉa bằng đá
Thanh, lớp bó vỉa được chia thành các ơ hộc để trang trí. Theo Quốc Sử Quán triều
Nguyễn, trước đây khi xây dựng Điện Thái Hòa và một số cung điện khác trong
Hoàng Thành, vua Gia Long đã ra lệnh cho chở hầu hết đá Thanh từ trấn Thanh
Hoa và Nghệ An về để làm vật liệu cho các cơng trình ở đây(14). Đá Thanh có kích
thước: 0,54m x 0,86m, dày 0,16m.

Phía trước và sau điện đều có 3 hệ thống bậc cấp lên xuống cũng bằng đá
Thanh. Hai hệ thống bậc cấp hai bên trang trí mơ-típ mây tạo thế hình rồng nằm
duỗi bậc. Bậc cấp ở giữa trang trí hình rồng duỗi bậc với những đường nét tinh xảo.
Tất cả các hệ thống bậc cấp phía trước lẫn phía sau đều có 5 bậc:

Kích thước 2 hệ thống bậc cấp 2 bên: 3,2m x 0,40m; dày 0,19m.

Kích thước hệ thống bậc cấp ở giữa: 4,92m x 0,42m; dày 0,19m; rồng chỗ
dày nhất 0,21m; chỗ mỏng nhất: 0,17m.

Bảy gian chính giữa Điện Thái Hịa được làm bằng gỗ, sơn son thếp vàng; hệ
thống cửa 52 cánh làm theo lối bảng khoa, bên dưới làm bằng gỗ, bên trên là kính.
Phía trên nữa là hệ thống liên ba khắc nổi các bài thơ và các bức tranh hình hoa lá
cúc sắp xếp theo lối nhất thi nhất họa. Ở dưới các bậu cửa cũng được trang trí hình

(12) Nguyễn Bá Trác (1963). Hoàng Việt giáp tý niên biểu. Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn xuất bản, tr. 368.
(13) Hồ Đắc Đàm (2002). “Nhật ký An Nam”, in trong: Tạp chí Những người bạn Cố đơ Huế. B.A.V.H. (1925).


Tập XII. Bản dịch của Hà Xuân Liêm. Nxb Thuận Hóa. Huế, tr. 344.
(14) Nội Các triều Nguyễn (1960). Mục lục châu bản triều Nguyễn, triều Gia Long. UB Phiên dịch Sử liệu Việt

Nam. Viện Đại học Huế, tr. 9; 21; 24; 27.

Văn hóa - Lịch sử l 31

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

hồi văn hoa lá cúc cách điệu. Chiều rộng của các gian (tính từ đơng sang tây) như
sau: 3,9m; 5,2m; 5,2m; 5,5m; 5,2m; 5,2m; 3,9m.

Hai chái của tòa nhà xây tường gạch trát vơi vữa. Ở phía đơng và tây của hai
chái đều có trổ cửa hơng ra vào rộng 3,8m; cao 2m. Cửa đóng mở được làm bằng
gương và gỗ. Bên ngồi cửa, xây thêm một đoạn nữ tường trang trí gạch hoa đúc
rỗng, chia hệ thống bậc cấp đi lên thành 2 lối, mỗi lối đi có 4 bậc. Bậc cấp ở lối đi
này chỉ được tráng bằng xi-măng không được lót gạch Bát Tràng như các hệ thống
bậc cấp khác trong tịa nhà.

Ngồi các hệ thống cửa gỗ ra vào, xung quanh tòa cung điện này cịn có 6
cửa sổ sắp xếp thứ tự như sau: Mặt trước hai bên chái tòa nhà là 2 cửa sổ hình trịn
trang trí chữ Thọ với đường kính 1,4m. Bốn cửa sổ ở hai chái có kích thước 1,3m
x 1,3m; 2 cửa ở chái đông: mỗi cửa có 2 lớp, lớp trong là cửa kéo làm bằng sắt, lớp
ngoài làm bằng gương và sắt; 2 cửa ở chái tây được làm bằng gạch hoa đúc rỗng,
ở cửa sổ đầu tiên lớp gạch hoa vẫn giữ được lớp màu vàng nguyên thủy nhưng ở
cửa sổ thứ 2 đã ngả từ màu vàng sang màu xám trắng.

Điện Thái Hòa được làm theo lối nhà kép “trùng lương trùng thiềm” hay
“trùng thiềm điệp ốc” (mái chồng lên nhau, nhà nối liền nhau). Nhà trước và nhà
sau nối với nhau bằng một hệ thống vì kèo thứ 3 đỡ hệ thống trần được uốn cong

lên như hình mai cua, tên gọi chung là trần vỏ cua hay vì vỏ cua. Bên trên trần
khơng có mái mà chỉ có một máng xối rất lớn bằng đồng dùng để hứng nước mưa
từ mái sau của nhà trước và mái trước của nhà sau. Chính vì chức năng này nên hệ
thống trần này cịn có tên gọi khác là vì thừa lưu hay trần thừa lưu. Như ý nghĩa
của tên gọi, máng xối dẫn nước ra 2 đầu hồi rồi cho chảy xuống mái hạ bằng 2
miệng rồng đắp nổi bên ngồi như hình rồng đang phun nước mỗi khi trời mưa.

Ở bên trong Điện Thái Hịa, hệ thống vì kèo nóc của chính điện tương đối
đơn giản, chỉ làm theo kiểu chồng rường giá chiêng, cịn hệ thống vì kèo nóc tiền
điện lại được làm rất công phu và sắc sảo. Hệ thống vì kèo nóc tiền điện thuộc loại
vì kèo chồng rường giả thủ được kết cấu tinh xảo, vừa có khả năng chịu lực, vừa
có giá trị thẩm mỹ cao. Bên trên hệ thống vì kèo nóc, kèo hiên lẫn các kèo mái ở
Điện Thái Hòa đều được trang trí bằng các họa tiết hoa lá cúc cách điệu, hình Bát
bửu hay hình hồi văn, tồn bộ đều được sơn son thếp vàng. Trong khi phần trần của
nhà hậu điện và một phần trần của nhà chính điện được đóng bằng gỗ sơn vàng che
kín tồn bộ dàn mái bên trên thì phần trần cịn lại của nhà chính điện và tiền điện
lại để lộ tất cả bộ tuồng gỗ được soi chỉ, chạm khắc và thếp vàng rất đẹp. Hiện nay
khu vực trần nhà được đóng la phơng bằng gỗ đã bị hư hỏng một số chỗ nhất là ở
phía tây bắc, phía đơng nam tịa nhà phần hậu điện và phía đơng phần tiền điện.

32 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Nội thất điện rộng lớn với hệ thống 80 cột trụ gỗ lim sơn son thếp vàng hình
rồng vờn mây (long vân thủy ba) - một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hồng đế và
quần thần đúng như chức năng vốn có của ngôi điện.

2.2. Điện Cần Chánh
Điện Cần Chánh (hay Điện Cần Chính 勤政殿) là ngơi điện chính và quan

trọng nhất trong khu vực Tử Cấm Thành, cũng nằm trên trục Dũng đạo của Kinh
Thành Huế, cách Điện Thái Hịa khoảng 100m về phía bắc. Điện Cần Chánh đóng
vai trò là chủ điện của Cung Càn Thành vừa là cầu nối giữa phần Nội đình và
Ngoại triều. Cung Càn Thành bao gồm: Điện Cần Chánh ở trung tâm, phía nam
của Điện Cần Chánh là cửa Đại Cung Mơn, phía bắc là Điện Càn Thành, phía đơng
là Điện Văn Minh, phía tây là Điện Võ Hiển.

Hình 1: Chờ đón Hồng đế tại sân Điện Cần Chánh. Ảnh: TTBTDT Cố đô Huế.

Điện Cần Chánh được xây dựng vào tháng 4 năm 1804 (năm Gia Long năm
thứ 3)(15). Một năm sau thì hồn thành. Sau đó, ngơi điện này lại được tu bổ vào năm
1811 dưới thời vua Gia Long(16), năm 1827 dưới thời Minh Mạng(17). Năm 1850,
dưới thời Tự Đức(18) lại được sửa chữa. Đến năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), Điện
Cần Chánh tiếp tục được tu bổ với quy mơ lớn. Tồn bộ ngơi điện được hạ giải và
trùng tu triệt để. Trong quá trình tu bổ, vua tạm thời đặt Ngự triều ở Điện Khâm
Văn, thuộc vườn Cơ Hạ(19).

(15) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1963). Đại Nam thực lục. Tập 3. Sđd, tr. 172, 226.
(16) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục. Sđd. Tập IV, tr. 117, 124.
(17) Nội Các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Bản dịch Viện Sử học. Tập 13. Nxb

Thuận Hóa, tr.38.
(18) Nội Các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Bản dịch Viện Sử học. Sđd. Tập 13,

tr.38.
(19) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1977). Đại Nam thực lục. Tập 37. Sđd, tr. 244-252.

Văn hóa - Lịch sử l 33

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021


Năm Thành Thái 11 (1899), nhà vua cho “đổi lót gạch hoa trước điện và tả
hữu lưỡng vu”(20). Theo Léopold Cadière, có thể mãi đến bây giờ bộ khung sườn
gỗ lim của ngôi điện vẫn khơng có gì thay đổi(21). Cịn theo Thái Văn Kiểm, bộ
khung gỗ ấy cho đến thời Khải Định (1916-1925) mới được sơn son thếp vàng(22)
để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần Đại khánh của nhà vua vào năm 1924. Đợt sửa chữa
cuối cùng của Điện Cần Chánh là vào năm 1938. Đây là thời điểm nhiều cơng trình
kiến trúc xây dựng dưới thời trị vì của các vua tiền nhiệm đã được trùng tu như
Điện Long An, Cung An Định, Cung Khánh Ninh, Điện Thái Hịa, trong đó Điện
Cần Chánh được trùng tu với quy mô lớn nhất.

Việc tu bổ các công trình thuộc triều đình vào thời điểm bấy giờ do Ngự Tiền
Văn Phòng của vua Bảo Đại chịu trách nhiệm quản lý. Đơn vị thực hiện bảo trì là
Bộ Cơng. Mãi đến năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị, Điện Cần Chánh và các
cơng trình kiến trúc phụ thuộc của nó vẫn cịn ngun vẹn. Các cơng trình này chỉ
bị tàn phá trong cơn binh lửa xảy ra vào đầu tháng 2/1947(23). Đến năm 1960 họa
viên Nguyễn Phúc Chiêm Nguyên của Ty Kiến thiết Thừa Thiên đã căn cứ vào
thực tế của nền móng cơng trình để thực hiện bản vẽ mặt bằng Điện Cần Chánh(24).

Về quy mô và cấu trúc, cũng như Điện Thái Hòa, Điện Cần Chánh là một
tòa nhà kép, gồm hai bộ mái của tiền điện hay tiền doanh, tiền tích (nhà trước) và
chính điện hay chính doanh, chính tích (nhà sau) nối liền với nhau bằng vì thừa
lưu. Cả ba thành phần đó được kết cấu lại để tạo ra một khơng gian nội thất chung.
Do cơng trình đã bị hủy hoại nên thông tin về ngôi điện này phải dựa trên tư liệu
lịch sử là chủ yếu.

Theo Nội Các triều Nguyễn, kiến trúc, trang trí của Điện Cần Chánh và một
số cơng trình phụ thuộc được mơ tả như sau:

“Điện Cần Chánh nền cao 2 thước 3 tấc (0,97)”, chính tích 5 gian, tiền tích 7

gian, đông tây 2 chái, mái chồng, rường chồng, con xơn đỡ địn tay, trang trí mép
rồng. Mặt trước trang trí bằng pháp lam, ba mặt kia trát vơi rồi vẽ. Trên đỉnh chắp
bình bằng pháp lam. Mái lợp ngói hoàng lưu ly.

Gian giữa đặt ngai vua, các gian bên tả bên hữu treo gương vẽ bản đồ thành
trì các trực tỉnh. Những tỉnh ở lân cận kề Kinh đô Huế, bao gồm phủ Thừa Thiên
và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình.

(20) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1960). Đại Nam nhất thống chí. Tập 1: Kinh Sư, dịch giả Tu Trai Nguyễn
Tạo. Sđd, tr. 21.

(21) Léopold Cadière (1914). La Porte Dorée du Palais de Hué les palais adjacents, notice historique. Bulletin
des Amis du Vieux Hue, p.321.

(22) Thái Văn Kiểm (1960). Cố Đơ Huế. Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gòn, tr. 64-65.
(23) Thái Văn Kiểm (1960). Cố Đô Huế. Sđd, tr. 64-65.
(24) Hiện nay các bản vẽ này đang được lưu giữ tại Phòng Nghiên cứu Khoa học và Hướng dẫn, Trung tâm

Bảo tồn Di tích Cố đơ Huế, Thừa Thiên Huế.

34 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Phía nam có 3 bệ, mỗi bệ 5 bậc cấp. Phía bắc có 2 bệ; phía đơng, phía tây đều
có 1 bệ, mỗi bệ 2 cấp. Thềm bệ được xây bằng đá.

Trước sân, đặt 2 vạc lớn.
Phía nam các chái đơng và tây, có hai cánh hành lang chìa ra ở hai phía tả,
hữu, mỗi hành lang có 5 gian, quay mặt về phía nam, bên phía đơng đối diện với

cửa nách của Điện Văn Minh, bên phía tây đối diện với cửa nách của Điện Võ Hiển.
Phía nam cửa là nhà Tả Vu và Hữu Vu, đều 5 gian 2 chái, mái chồng, đối diện
nhau theo hướng đơng tây... Phía nam Tả Vu và Hữu Vu lại có hai cánh hành lang
chạy đến bên tả và bên hữu Đại Cung Môn, mỗi hành lang có 9 gian, quay mặt về
phía bắc, đều lợp ngói thanh lưu ly(25).

Hình 2: Mặt đứng Điện Cần Chánh. Ảnh: TTBTDT Cố đô Huế.

Hình 3: Mặt bên Điện Cần Chánh. Ảnh: TTBTDT Cố đô Huế.
(25) Dẫn theo Phan Thuận An (2001). “Điện Cần Chánh bao giờ mới được phục hồi”. Tạp chí Thơng tin Khoa

học Công nghệ, số 2. Về diện mạo của Điện Cần Chánh ngày xưa, nếu như các tư liệu của Việt Nam
hiếm hoi, thì may thay chúng ta lại có nguồn tư liệu khá hơn do thời Pháp để lại. Dưới thời Pháp thuộc,
nhất là vào những thập niên đầu thế kỷ XX, triều đình nhà Nguyễn cho phép các quan chức, nhân viên
của “Chính phủ bảo hộ” vào thăm Hồng Cung Huế và chụp ảnh một số cung điện cũng như sinh hoạt
của một số vua, quan và hồng gia. Trong đó có ảnh về kiến trúc, trang trí nội ngoại thất của Điện Cần
Chánh. Chính nhờ những bức ảnh này, chúng ta có thể biết được phần nào diện mạo kiến trúc, sự trang
trí, trang hồng của ngôi điện này.

Văn hóa - Lịch sử l 35

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Như đã mô tả, chính điện Điện Cần Chánh có 5 gian và hai chái kép, tiền điện
có 7 gian và 2 chái đơn, với những vì kèo giả thủ và hệ thống con xơn được chạm
trổ rất công phu và tinh tế. Nền và hệ thống bậc cấp hiện nay vẫn còn khá nguyên
vẹn. Vị trí các hệ thống chân cột vẫn có thể nhận ra một cách rõ ràng trên thực địa.
Mái điện được lợp bằng ngói ống tráng men vàng. Trên các bờ nóc, bờ quyết đều
có trang trí hình rồng. Giữa bờ nóc là bình thiên hồ, hai bên có rồng chầu. Ở hai
đầu bờ nóc và cuối bờ quyết đều trang trí hình hồi long. Có thể nhận ra được các

biểu tượng hình con rồng trên đỉnh các bờ mái và bờ quyết thông qua các bức ảnh
cũ và các tài liệu. Biểu tượng hình con rồng có thể quan sát được là những mơ-
típ trang trí “hồi long” và “lưỡng long chầu nguyệt”, nó được xem là biểu tượng
của hoàng đế và sức mạnh của vũ trụ. Mỗi mặt mái đều chia ra làm hai theo chiều
ngang bởi dãi cổ diềm cũng như bờ nóc đều được phân khoản thành ơ hộc để trang
trí thơ văn và hình ảnh theo lối nhất thi nhất họa. Ở mặt trước và mặt sau, cịn có
mái lưa, tức là mảng mái thứ ba, rất hẹp, được chống đỡ bởi hàng cột hiên và hệ
thống con xơn bằng gỗ rất đẹp.

Bên trong điện, ở gian giữa chính doanh, bên trên ngự tọa có treo bửu tán bằng
vải. Các gian được bài trí khá nhiều bàn, ghế, tủ, đồ sứ quý báu của vương triều.

Tiền doanh trên gian giữa treo 1 bức hoành phi chạm nổi 3 chữ đại tự: “Cần
Chánh Điện”. Các dãi liên ba của 7 gian đều được chia ra thành ơ hộc và trang trí
cũng theo lối nhất thi nhất họa. Trên các cột có treo tranh thơ và một số gian có
treo đèn lồng. Nội thất của ngôi điện được sơn son thiếp vàng rực rỡ. Mặt trước
của tiền doanh là hệ thống cửa gương. Dưới mái hiện treo bức sáo vẽ rồng. Ngay
trước mỗi cột hiên đều có một chậu sứ trồng cây cảnh, đặt trên đôn bằng đá chạm .

Điện Cần Chánh được trùng tu vào năm 1899 dưới thời vua Thành Thái.
Trong dịp này, đã “đổi lót gạch hoa trước điện Cần Chánh và tả hữu lưỡng vu”(26).

Theo Léopld Cadière, có thể đến bây giờ, bộ sườn bằng gỗ lim của ngơi
điện vẫn khơng có gì thay đổi(27). Cịn theo Thái Văn Kiểm, bộ sườn ấy mãi đến
đời vua Khải Định (1916-1925) mới được sơn son thếp vàng(28), có lẽ là vào năm
1923 cùng một lượt với việc đại gia trùng tu “đại gia trùng kiến” Điện Thái Hòa để
chuẩn bị cho Tứ tuần Đại khánh tiết của nhà vua vào năm 1924.

Điện Cần Chánh bị thiêu hủy hoàn toàn vào năm 1947, chỉ cịn phần nền
móng. Hiện nay, cơng trình này đang được tích cực nghiên cứu để phục hồi(29).


(26) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1960). Đại Nam nhất thống chí. Tập 1: Kinh Sư. Bản dịch của Tu trai
Nguyễn Tạo. Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gòn, tr. 21.

(27) Léopold Cadière (1914). “La Porte Dorée du Palais de Hué et les palais adjacents: notice historique”.
B.A.V.H. p.321.

(28) Thái Văn Kiểm (1960). Cố Đơ Huế. Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gòn, tr. 64-65.
(29) Từ năm 1994 đến nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đơ Huế đã phối hợp với Viện Di sản Thế giới của

Đại học Waseda (Nhật Bản) tiến hành nghiên cứu nhằm phục nguyên Điện Cần Chánh. Kết quả của

36 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

3. Mối quan hệ giữa Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh

3.1. Về chức năng

Điện Thái Hòa là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng nhất của triều đình và
hồng gia trong suốt 143 năm (1802-1945) tồn tại của vương triều Nguyễn. Tên
gọi “Thái Hịa” có nghĩa là đạt đến cảnh giới cao nhất của sự hòa hợp giữa Âm
và Dương; giữa Trời, Đất và Con Người(30). Điện Thái Hòa là ngôi điện trung tâm
trên trục Dũng đạo của Kinh thành và Hoàng Cung Huế; đối với Hoàng cung, Điện
Thái Hịa là ngơi điện quan trọng nhất trong 5 cơng trình trên trục trung tâm (Ngọ
Mơn, Điện Thái Hịa, Điện Càn Thành, Cung Khôn Thái và Điện Kiến Trung), là
nơi đặt ngai vàng - biểu tượng quyền lực của triều đại. Vì vậy, đây cũng là cơng
trình có quy mơ thuộc hàng lớn nhất, được xây dựng, trang trí rất cầu kỳ và đặt trên
một bệ đài cao vượt hẳn so với các cơng trình xung quanh.


Các nghi lễ của triều Nguyễn vốn được phân ra làm 2 loại: các lễ triều hội và
các lễ tế tự. Tại khu vực Ngoại triều thường tổ chức cả 2 loại nghi lễ này, nhưng
các lễ triều hội thì tổ chức tại trục trung tâm, chủ yếu trong khơng gian từ Ngọ
Mơn đến Điện Thái Hịa, Điện Cần Chánh; nghi lễ tế tự thì tổ chức ở các miếu thờ
tổ nằm ở trục bên tả (Triệu Miếu, Thái Miếu) và bên hữu (Hưng Miếu, Thế Miếu).

Đối với các lễ triều hội, tùy theo quy mơ lớn nhỏ mà triều đình thiết Đại
triều hoặc Thường triều. Nghi lễ Đại triều được tổ chức tại Điện Thái Hòa và sân
đại triều nghi ở phía trước nhưng đều xuất phát từ Điện Cần Chánh. Các loại lễ
được xếp vào hàng Đại triều có loại khơng thường kỳ như: lễ Đăng quang, lễ Sách
phong Hồng Thái tử, lễ tiếp đón sứ thần các nước lớn; và loại thường kỳ như lễ
Vạn Thọ, lễ Khánh Hạ hay lễ Chánh Đán (Tết Âm lịch), lễ Đoan Dương (tức Tết
Đoan Ngọ, ngày 5/5 Âm lịch), lễ Đại triều thường kỳ hai lần mỗi tháng(31)... đều tổ
chức tại đây.

Còn Điện Cần Chánh vốn là nơi diễn ra các hoạt động có tính chất nội bộ giữa
hoàng đế và Nội các, các đại thần cao cấp, là nơi tổ chức lễ Thường triều... Các
nghi lễ và hoạt động chính tổ chức tại Điện Cần Chánh bao gồm:

- Lễ Thường triều mỗi tháng 4 lần vào các ngày 5, 10, 20 và 25 Âm lịch.

quá trình nghiên cứu này được phản ánh qua 3 cuộc hội thảo quốc tế (tổ chức các năm 1997, 2008 và
2012) và việc xây dựng mơ hình ngơi điện tỷ lệ 1/50 và 1/10.
(30) Tên gọi Thái Hòa thời cổ đại vốn chỉ cho sự hòa hợp âm dương, trong quẻ Càn của Kinh Dịch có câu:
“Bảo hợp thái hịa nãi lợi trinh” (giữ được sự hịa hợp thì có lợi cho điều chính). Thái Hịa cũng là tên
của ngơi điện chính trong Hồng Cung Bắc Kinh thời Minh Thanh. Trong khối các nước đồng văn, chỉ
Việt Nam và Trung Quốc gọi điện chính của Hồng Cung là Điện Thái Hịa. Cũng có khi người ta dùng
tên gọi Kim Loan để chỉ ngôi điện này.
(31) Từ năm Gia Long thứ 5 (1806), triều Nguyễn đã có quy định các ngày Mồng 1 và ngày 15 hàng tháng

là những ngày thiết đại triều ở Điện Thái Hòa.

Văn hóa - Lịch sử l 37

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

- Lễ Phất thức (lễ lau chùi ấn tín của vương triều) vào hạ tuần tháng Chạp
Âm lịch hàng năm.

- Lễ nghênh tiếp các sứ bộ ngoại quốc, các thân phiên, hoặc các quan chức ở
Trung ương và địa phương đến chiêm bái, bái mạng, bệ kiến, bệ từ.

- Các buổi yến tiệc và ca múa trong những dịp khánh hỷ của quốc gia và
hoàng gia (thường là sau khi tổ chức lễ Đại triều)...

Hình 4: Đội Nhã nhạc chờ làm lễ ở sân Điện Cần Chánh. Ảnh: TTBTDT Cố đô Huế.

Dưới thời vua Bảo Đại, nhà vua đã tổ chức lễ cưới của mình với Hồng hậu
Nam Phương tại Điện Cần Chánh. Tuy nhiên, đây là sự kiện đặc biệt và chỉ xảy ra
một lần trong suốt 13 đời vua Nguyễn.

BẢNG THỐNG KÊ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHI LỄ
TẠI ĐIỆN THÁI HÒA VÀ ĐIỆN CẦN CHÁNH

Stt Tên gọi Thời Địa điểm Nội dung, Chủ trì Đối tượng
gian mục đích (6) tham gia
(1) (2) (3) (4)
(5) Khâm Thiên (7)
1 Ban sóc 1/12 ÂL Điện Cần giám-Bộ Lễ.
Chánh/ Thái Ban lịch mới cho Văn võ bá

Hòa/Ngọ thân vương, đại quan, kỳ lão
Môn. thần, đại diện và đại diện địa
địa phương. phương.

2 Phất thức 20/12 ÂL Điện Cần Lau chùi ấn tín, Nhà vua. Đại thần văn võ
Chánh. nghỉ làm việc. từ Nhị phẩm trở
lên.

38 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)

3 Thướng tiêu 30/12 ÂL Sân Điện Dựng Nêu, Văn võ bá quan.
(lễ Dựng Nêu) Thái Hòa.
phòng chống ma Bộ Lễ. Văn võ bá quan,
họ hàng nội
quỷ. ngoại vua, đại
diện địa phương.
Mừng vua 1/1 ÂL Từ Ngọ Môn Chúc mừng vua Bộ Lễ.
4 năm mới (lễ đến Điện Cần năm mới. Văn võ quan lại
Chánh. và binh lính.
Khánh Hạ, hay
lễ Chánh Đán) Văn võ bá quan,
họ hàng nội
5 Tế kỳ đạo 11/1 và Điện Cần Lễ xuất quân Đại thần võ ngoại vua, đại
12/1 ÂL Chánh, bên đầu năm, cầu ban hàm diện địa phương.
ngoài KT, may mắn. Nhất phẩm. Văn võ bá quan,
phía nam. họ hàng nội

ngoại vua, đại
Lễ Khánh 2/5 ÂL Điện Cần Kỷ niệm thành Bộ Lễ. diện địa phương.
6 niệm Hưng Chánh. lập triều đại (tức Văn võ bá quan,
lễ Quốc khánh). họ hàng nội
quốc ngoại vua, đại
diện địa phương.
7 Lễ Đoan Dương 5/5 ÂL Điện Cần Mừng tết Đoan Bộ Lễ.
(Đoan Ngọ) Chánh/Thái Ngọ. Văn võ bá quan,
Hòa. và các vị Tiến sĩ
tân khoa.
8 Lễ Vạn Thọ Tùy ngày Điện Thái Mừng sinh nhật Bộ Lễ.
9 Lễ Truyền lô sinh nhật Hòa/ Điện nhà vua. Văn võ bá quan.
10 Lễ tiếp sứ giả của các Cần Chánh.
đời vua Xướng danh các Bộ Lễ.
các nước lớn Điện Cần vị Tiến sĩ tân
Tùy thời Chánh/ Điện khoa.
gian Thái Hòa/
Ngọ Môn. Đón tiếp sứ giả Bộ Lễ.
Tùy thời nước ngoài.
gian Điện Cần
Chánh/ Điện
Thái Hòa/
Ngọ Môn.

3.2. Mối liên hệ giữa hai điện khi tổ chức nghi lễ

Có thể thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa hai ngơi điện này thể hiện qua
một nghi lễ Đại triều tiêu biểu là lễ Khánh Hạ hay lễ Chánh Đán, tổ chức vào ngày
Mồng Một Tết hàng năm qua sự mô tả của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, với
diễn trình như sau:


Theo định lệ từ đời Gia Long (1802-1820), vào ngày Mồng Một Tết vua ngự
ở Điện Thái Hòa, đặt lễ Đại triều, bá quan tham dự làm lễ Khánh Hạ (chúc mừng
nhà vua nhân dịp năm mới).

Vào rạng sáng Mồng Một, chiếc cờ rồng khổ lớn và các loại cờ khánh hỷ
nhiều màu sắc đã được kéo lên và dựng ở Kỳ đài. Bá quan văn võ từ hai tòa nhà
chờ ở hai bên (Tả - Hữu Đãi Lậu Viện) kéo ra tập hợp xếp hàng theo phẩm trật trên

Văn hóa - Lịch sử l 39

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

hai tầng sân đại triều. Đội nhạc lễ và các đơn vị nghi trượng, bảo vệ cũng tề tựu
đầy đủ.

Hình 5: Ngự đạo rước vua Bảo Đại từ Điện Cần Chánh. Ảnh: TTBTDT Cố đô Huế.

Sau khi viên quan ở Khâm Thiên Giám báo giờ tốt, vua mặc triều phục từ
Điện Càn Thành ra Điện Cần Chánh chuẩn bị. Đúng giờ hành lễ, ngự đạo rước nhà
vua bằng kiệu đi từ Điện Cần Chánh ra Điện Thái Hịa (đi trên trục chính xun
qua Đại Cung Mơn) để làm lễ. Từ Ngọ Mơn, chng được gióng lên để đón chào,
vua xuống kiệu và tiến vào điện bằng cửa sau trong tiếng nhạc mừng do đội đại
nhạc cử. Chín phát đại bác báo hiệu, vua lên ngự ở ngai vàng. Tiếp đó, lễ Khánh
Hạ được diễn ra với nhiều nghi tiết như các quan làm lễ bái, dâng biểu mừng năm
mới, tuyên biểu đáp tạ của nhà vua(32)...

Sau khi xong phần lễ, nhà vua lên kiệu về Điện Cần Chánh để thực hiện phần
tiếp theo có tính chất nội bộ. Lúc này hồng thân quốc thích và quan văn võ từ Tứ
phẩm trở lên được ban đứng hầu hai bên tả hữu sân điện. Các quan thái giám, quan

Bộ Lễ đưa các hoàng đệ, hồng tử, cơng tử nhỏ tuổi đến mừng vua năm lạy. Sau
đó, vua truyền chỉ ban yến tiệc(33) và tiền thưởng xn.

(32) Trong những nghi tiết này cịn có sự chen lẫn của những tiết mục múa hát cung đình. Buổi lễ kết thúc
bằng khúc Hịa bình chi chương và âm thanh rộn rã của ban Đại nhạc. Trong những buổi đại lễ như thế
này, ban Múa hát cung đình đều phải tấu năm bài dùng chữ “Bình” như Lý bình, Túc bình, Khánh bình,
Di bình, và Hịa bình.

(33) Yến tiệc Tết, thường được tổ chức ở Điện Cần Chánh và Tả Vu, Hữu Vu vào hai ngày (Mồng Một và 2
Âm lịch). Hồng thân quốc thích cùng các quan từ Tứ phẩm trở lên dự vào ngày Mồng 1; các quan từ
Ngũ phẩm trở xuống dự vào ngày Mồng 2. Các quan Phủ dỗn, quan tỉnh trì dự tiệc yến ở tả, hữu Ðãi
Lâu Viện (ở hai bên, trước Điện Thái Hịa).

40 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

Kết thúc lễ, nhà vua lui vào Điện Càn Thành.

Ở tất cả các lễ Đại triều khác, lộ trình di chuyển và trình tự các nghi thức
chính của nhà vua cùng đoàn ngự đạo cũng tương tự, tức là lộ trình sẽ từ Điện Cần
Chánh đi đến Điện Thái Hịa làm các nghi lễ chính với sự tham dự của bá quan
văn võ, sau đó lại từ Điện Thái Hòa quay về Điện Cần Chánh làm các nghi lễ nội
bộ trong phạm vi hồng gia, hoặc có sự tham dự của các đại thần từ Tam, Tứ phẩm
trở lên.

Như vậy, thông qua cách thức tổ chức lễ Khánh Hạ và tất cả các lễ Đại triều
khác, chúng ta có thể thấy mối quan hệ chặt chẽ và sự phân công về chức năng giữa
Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh, trong đó:


- Các nghi thức thuộc lễ Đại triều đều xuất phát từ Điện Cần Chánh, sau đó
mới qua Điện Thái Hịa và kết thúc tại Điện Cần Chánh. Trong quan hệ trên, Điện
Cần Chánh đóng vai trị là phần “Nội” - là nơi chuẩn bị chính, trong quan hệ với
phần “Ngoại” - nơi trình diễn các nghi lễ tại Điện Thái Hòa. Quan hệ này cũng là
sự thể hiện rất đặc trưng mối quan hệ cân bằng trong - ngoài, Âm - Dương trong
quan niệm và truyền thống của người Việt.

- Tại Điện Cần Chánh, cũng thực hiện một số nghi lễ, nhưng đều thuộc các
nghi lễ trong nội bộ hoàng gia, hoặc các nghi lễ mà nhà vua dành cho các vị quan
lại cao cấp (tương đương như thành viên Nội Các), kể cả tổ chức yến tiệc.

4. So sánh với một số nước Đông Á

Ở một số nước Đông Á khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, tuy văn
hóa nghi lễ có nhiều điểm tương đồng nhưng cách bố trí cung điện và tổ chức nghi
lễ so với thời Nguyễn ở Việt Nam đều có sự khác biệt khá lớn, đặc biệt là hầu như
không thấy mối quan hệ bộ đôi kiểu âm-dương giữa điện chính của phần Ngoại
triều và điện chính của phần Nội đình.

Ở Trung Quốc, thời Minh Thanh, tại Kinh đô Bắc Kinh (1420-1911), tồn bộ
phần Ngoại triều và Nội đình đều nằm trong khuôn viên của Tử Cấm Thành, nhưng
chia thành hai phần rất rõ ràng. Phần Ngoại triều ở phía trước gồm 3 ngơi điện lớn
bố trí sát nhau trên trục trung tâm (tiền tam đại điện), là các Điện Thái Hòa, Trung
Hòa và Bảo Hòa. Đây cũng là nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng nhất như lễ Đăng
quang của Hồng đế, lễ Sách lập Hồng hậu, lễ Truyền Lơ (công bố danh sách Tiến
sĩ tân khoa, lễ sinh nhật Hoàng đế, gia phong thêm huy hiệu cho Thái hậu, Hồng
hậu... Phần nghi thức và cơng tác chuẩn bị cho nghi lễ đều thực hiện trong khu vực
này chứ không liên quan đến khu vực Nội đình, trong đó Điện Thái Hòa và sân đại
triều là nơi tổ chức nghi lễ; Điện Trung Hòa là nơi chuẩn bị nghi thức và dành cho


Văn hóa - Lịch sử l 41

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

hoàng đế tạm nghỉ ngơi trong thời gian làm lễ; Điện Bảo Hòa là nơi tổ chức yến
tiệc dành cho thân vương, thân phiên.

Từ thời Thanh, các nghi lễ Thường triều được đưa hẳn vào Cung Càn Thanh,
nằm trong khu Nội đình, tồn bộ các nghi thức và công tác chuẩn bị lại khơng liên
quan gì đến khu vực Ngoại triều(34).

Ở Hàn Quốc, các nghi lễ quan trọng của vương triều Choseon (Triều Tiên,
1392-1910) đều tổ chức tại Cung Cảnh Phúc, cung điện chính của Kinh đơ Hán
thành (Seoul). Trong cung điện này khơng có Điện Thái Hịa; Điện Cần Chánh
(Chính) đóng vai trị là điện chủ của phần Ngoại triều, cũng là nơi tổ chức các nghi
lễ quan trọng nhất của vương triều như lễ Đăng quang, phong Hồng hậu, lễ Chính
Đán (đón năm mới)... Tồn bộ công tác chuẩn bị cho nghi lễ được thực hiện trong các
cơng trình kiến trúc phụ ở hai bên và phía sau (hành lang, các tịa nhà nhỏ phía sau).

Phần Nội đình hồn toàn là tẩm cung của vua và hoàng hậu, trong đó trung
tâm là Điện Khang Ninh (dành cho nhà vua nghỉ ngơi) và Điện Giao Thái (dành
cho hoàng hậu nghỉ ngơi).

Còn các buổi yến tiệc do triều đình tổ chức thì được thực hiện tại lầu Khánh
Hội, nằm bên hữu (phía tây) Điện Cần Chánh(35).

Tại Bình An Kinh ở Kinh đô Kyoto trong thời kỳ ảnh hưởng sâu sắc của văn
minh Trung Quốc (từ 794-1868), Hoàng Cung (Đại Nội Lý) cũng chủ yếu chia
thành hai phần theo cấu trúc Tiền triều và Nội đình. Các nghi lễ lớn của triều đình
do Thiên Hồng chủ trì như lễ Chính Đán, lễ Sách phong Hoàng hậu, Sách phong

Thái tử... đều tổ chức tại khu Ngoại triều mà trung tâm là khu vực từ Triều Đường
Viện đến Điện Đại Cực; công tác chuẩn bị được thực hiện trong các tòa nhà phụ
xung quanh; yến tiệc thì được tổ chức tại Phong Lạc Viện nằm ở phía tây (bố trí
song song với khu vực tổ chức nghi lễ). Khu vực Nội đình (Nội Lý) nằm ở phía
bắc khu Ngoại triều chỉ dùng để tổ chức các buổi thường triều, các nghi thức nhỏ
và chủ yếu là không gian sinh hoạt riêng của Thiên hoàng cùng nội bộ hoàng gia(36).

Như vậy, cách quy hoạch và bố trí khơng gian nghi lễ tại Hồng Cung triều
Minh Thanh cũng như của vương triều Choseon Triều Tiên và Thiên hoàng Nhật
Bản (thời kỳ đầu của Bình An Kinh - Kyoto), xét về bản chất là khá giống nhau.
Các nghi lễ chính của triều đình đều tổ chức trong khơng gian của khu Ngoại triều,
hầu như khơng có mối liên hệ với khu vực Nội đình kiểu “trong-ngồi” như tại
Hồng Cung triều Nguyễn ở Huế.

(34) Tham khảo: Cố Cung/Tử Cấm Thành từ .
(35) Tham khảo: Gyeongbokgung (Cảnh Phúc Cung) từ .
(36) Tham khảo: Kyoto/Kinh Đơ từ .

42 l Văn hóa - Lịch sử

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

5. Kết luận

Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh là hai ngôi điện quan trọng nhất ở khu
vực Ngoại triều và Nội đình của Hồng Cung thời Nguyễn, và dù có chức năng
riêng, chúng vẫn có mối quan hệ đặc biệt với nhau trên phương diện quy hoạch
không gian và tổ chức các nghi lễ của triều đại này. Có thể nói mối quan hệ giữa
Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh là sự thể hiện rất đặc trưng mối quan hệ trong
- ngoài, âm - dương theo quan niệm và truyền thống văn hóa của người Việt.


Như vậy, việc nghiên cứu quy mô, cấu trúc, và đặc biệt là cách bố trí khơng
gian để tổ chức các nghi lễ của Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh thời Nguyễn sẽ
giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề về phương pháp quy hoạch và mối liên hệ giữa các
cung điện chính của Kinh đô Việt Nam dưới thời quân chủ. Ở các nước Đơng Á
nói chung và Việt Nam nói riêng, việc nghiên cứu cách thức bố trí và tổ chức các
nghi lễ đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc tìm hiểu tư tưởng quy hoạch của
người xưa. Đây cũng là một hướng nghiên cứu rất được quan tâm ở Nhật Bản và
Hàn Quốc hiện nay.

P.T.H.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Đắc Đàm (2002). “Nhật ký An Nam”, in trong: Tạp chí Những người bạn Cố đơ Huế,
B.A.V.H. (1925). Tập XII. Bản dịch của Hà Xuân Liêm. Nxb Thuận Hóa. Huế.

2. Léopold Cadière (1914). La Porte Dorée du Palais de Hué les palais adjacents, notice
historique. Bulletin des Amis du Vieux Hué.

3. Lê Thị An Hòa (2018). Quá trình hình thành, phát triển và biến đổi lễ hội cung đình ở Huế từ
năm 1802 đến năm 1945. Luận án Tiến sĩ. Trường Đại học Khoa học Huế.

4. Nguyễn Bá Trác (1963). Hoàng Việt giáp tý niên biểu. Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn xuất bản.
5. Nội Các triều Nguyễn (1960). Mục lục châu bản triều Nguyễn, triều Gia Long. UB Phiên dịch

Sử liệu Việt Nam. Viện Đại học Huế.
6. Nội Các triều Nguyễn (1993). Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ. Bản dịch Viện Sử học. Tập

13. Nxb Thuận Hóa.

7. Phan Thuận An (2001). “Điện Cần Chánh bao giờ mới được phục hồi”. Tạp chí Thơng tin

Khoa học Công nghệ. Số 2.
8. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1960). Đại Nam nhất thống chí. Tập Kinh sư. Bản dịch của Tu

trai Nguyễn Tạo. Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gịn.
9. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1963). Đại Nam thực lục. Tập II,III, IV. Bản dịch của Viện Sử

học. Nxb Sử học. Hà Nội.
10. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1965). Đại Nam thực lục. Tập XII. Bản dịch của Viện Sử học.

Nxb Khoa học. Hà Nội.

Văn hóa - Lịch sử l 43

Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (167) . 2021

11. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1969). Đại Nam thực lục. Tập XXI. Bản dịch của Viện Sử học.
Nxb KHXH. Hà Nội.

12. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1977). Đại Nam thực lục. Tập XXXVII. Bản dịch của Viện Sử
học. Nxb KHXH. Hà Nội.

13. Thái Văn Kiểm (1960). Cố Đơ Huế. Nha văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gịn.
TĨM TẮT

Điện Thái Hòa và Điện Cần Chánh là hai cơng trình quy mơ và có vai trị quan trọng bậc
nhất trong khu vực Hoàng Thành và Tử Cấm Thành tại Kinh đô Huế thời Nguyễn (1802-1945).
Xét dưới góc độ bố trí khơng gian và nghi lễ, hai ngơi điện này có mối quan hệ mật thiết với nhau
và là biểu hiện tiêu biểu nhất của mối quan hệ giữa điện chính (chủ điện) của hai khu vực Ngoại

triều và Nội đình. Bài viết dưới đây, thơng qua việc tìm hiểu quy mơ, cấu trúc và cách thức tổ chức
không gian nghi lễ tại hai ngôi điện trên để làm rõ mối quan hệ giữa chúng.
ABSTRACT

THÁI HÒA PALACE AND CẦN CHÁNH PALACE UNDER THE NGUYỄN DYNASTY SEEING
FROM ARRANGEMENT OF THE RITUAL SPACE

Thái Hòa Palace and Cần Chánh Palace are two scale works and play the most important
role in the area of the Imperial Citadel and the Forbidden Purple City in the Huế Ancient Capital
during the Nguyễn Dynasty (1802-1945). From the perspective of spatial and rituals arrangement,
they have a close relationship with each other and are the most typical expression of the
relationship between the main hall of the two areas with the Outer and Inner Dynasties. Through
understanding their scale, structure and organization of the ritual space, article clarifies the
relationship between them.

44 l Văn hóa - Lịch sử


×