Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học khoa học lãnh đạo - Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.81 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN

MÔN: KHOA HỌC LÃNH ĐẠO

Đề tài:

TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................1
II. NỘI DUNG..................................................................................................3
2.1. Về vị trí, vai trị của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi

người............................................................................................................3
2.2 Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý............................4
2.2 Vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo quản lý lãnh đạo ở nước ta hiện nay theo

tư tưởng Hồ Chí Minh...............................................................................13
2.3 Một số phương hướng và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

lãnh đạo, quản lý vào thực tế hiện nay......................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................22

MỞ ĐẦU

I. ĐẶT VẤN ĐỀ



Ở nước ta, cho đến nay Hồ Chí Minh là người duy nhất đồng thời giữ
hai cương vị cao nhất trong bộ máy Đảng, Nhà nước ta là Chủ tịch Đảng và
Chủ tịch nước một thời gian lâu dài. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, làm Chủ tịch Đảng 18 năm; sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
làm Chủ tịch nước đầu tiên trong 24 năm, đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này tới thắng lợi khác. Người để lại một di sản tư tưởng vô giá và
một phong cách làm việc mẫu mực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta học tập và làm theo.

Phong cách làm việc là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng,
là sự thể hiện bản chất và tính cách, của con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách làm việc thể hiện tư tưởng, đạo đức, nhân cách vĩ đại của Người.
Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt, mềm dẻo.

Yêu cầu đầu tiên trong phong cách làm việc của người lãnh đạo, quản
lý là phải có sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.

"Trung với Đảng", "Trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất cơ
bản xuyên suốt mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định rõ điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh
đạo, quản lý là phải:

"Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
công việc"[5].


1

Trong mọi cơng tác, tuỳ theo hồn cảnh cụ thể, người lãnh đạo, quản
lý có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, ở đây cần có sự vững vàng, không thay
đổi trong những vấn đề thuộc về ngun tắc. Những vấn đề có tính Cương
lĩnh, quan điểm cơ bản của Đảng, mục tiêu, chính sách, pháp luật của Nhà
nước là bất biến, phải giữ vững như sắt đá.

Để thực thực hiện những điều bất biến đó, các hình thức, phương pháp,
biện pháp, bước đi phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những người lãnh đạo quản lý phải có
bản lĩnh Dĩ bất biến ứng vạn biến.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh bất biến
của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và dân tộc ta. Con đường đi đến mục tiêu đó là
con đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn gian khổ, địi hỏi trí tuệ, sự hy
sinh, phấn đấu của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách
mạng phải đối phó với mn vàn sự biến đổi khó lường.Người cách mạng,
các nhà lãnh đạo, quản lý phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén để linh hoạt
biến đổi sách lược, có những hình thức, biện pháp đấu tranh biến hóa thích
hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, đối tượng, con người cụ thể trong mỗi
bước đi lên của cách mạng đặt ra.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản
và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trị, nội dung của đạo đức; những
phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới;
yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về phong cách làm việc thể hiện tư tưởng, đạo đức, nhân cách vĩ đại của
Người. Chính vì lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Tư tưởng cơ bản của Hồ

Chí Minh về lãnh đạo, quản lý vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo quản lý ở
nước ta hiện nay” làm tiểu luận hết mơn của mình.

2

II. NỘI DUNG
2.1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của
mỗi người.

- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người
cách mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm
thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về
đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với
việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.

- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
“Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại khơng rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không cơng thần, khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo, khơng hủ

hóa”.

- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người
đảng viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:

+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.

3

+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.

+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch,
luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không
chịu cúi đầu.

+ Vơ luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết.

+ Hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.

- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí
tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.

- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách tồn diện.
Người nêu u cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã
hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội,

trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với
việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức
của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong
bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí cơng vô tư”.

2.2 Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý

Ở nước ta, cho đến nay Hồ Chí Minh là người duy nhất đồng thời giữ
hai cương vị cao nhất trong bộ máy Đảng, Nhà nước ta là Chủ tịch Đảng và
Chủ tịch nước một thời gian lâu dài. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt

4

Nam, làm Chủ tịch Đảng 18 năm; sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
làm Chủ tịch nước đầu tiên trong 24 năm, đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này tới thắng lợi khác. Người để lại một di sản tư tưởng vô giá và
một phong cách làm việc mẫu mực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta học tập và làm theo.

Phong cách làm việc là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng,
là sự thể hiện bản chất và tính cách, của con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách làm việc thể hiện tư tưởng, đạo đức, nhân cách vĩ đại của Người.
Ở đây, chỉ xin nêu 6 quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong
cách làm việc cần thiết của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.

2.2.1 Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh
hoạt, mềm dẻo.


Yêu cầu đầu tiên trong phong cách làm việc của người lãnh đạo, quản
lý là phải có sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.

"Trung với Đảng", "Trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất cơ
bản xuyên suốt mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định rõ điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh
đạo, quản lý là phải:

“Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
công việc”[1].

Trong mọi cơng tác, tuỳ theo hồn cảnh cụ thể, người lãnh đạo, quản lý
có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức

5

trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, ở đây cần có sự vững vàng, khơng thay
đổi trong những vấn đề thuộc về ngun tắc. Những vấn đề có tính Cương
lĩnh, quan điểm cơ bản của Đảng, mục tiêu, chính sách, pháp luật của Nhà
nước là bất biến, phải giữ vững như sắt đá.

Để thực thực hiện những điều bất biến đó, các hình thức, phương pháp,
biện pháp, bước đi phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những người lãnh đạo quản lý phải có
bản lĩnh Dĩ bất biến ứng vạn biến.


Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh bất biến của
Hồ Chí Minh, của Đảng ta và dân tộc ta. Con đường đi đến mục tiêu đó là con
đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn gian khổ, địi hỏi trí tuệ, sự hy sinh,
phấn đấu của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách
mạng phải đối phó với mn vàn sự biến đổi khó lường.Người cách mạng,
các nhà lãnh đạo, quản lý phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén để linh hoạt
biến đổi sách lược, có những hình thức, biện pháp đấu tranh biến hóa thích
hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, đối tượng, con người cụ thể trong mỗi
bước đi lên của cách mạng đặt ra.

2.2.2 Kết hợp tính cách mạng với tính khoa học

Người xưa nói:“Thiếu Nhiệt hứng tất khơng thành đại sự”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Muốn lên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải
cao”[2]. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới say
mê, tận tuỵ với cơng việc để tìm tịi, sáng tạo, đề ra những phương án tối ưu
nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.

Song, nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo chỉ đem lại hiệu
qủa thiết thực cho cuộc sống của nhân dân khi nó kết hợp chặt chẽ với tri
thức khoa học, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan.

6

Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tính
khoa học. Nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có
hiệu quả cao khi họ thực sự am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ theo
cương vị mình phụ trách. Có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới
làm sai đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá
hoại một cách vơ ý thức. “Nhiệt tình cộng với dốt nát bằng đại phá hoại”.


Tính khoa học trong phong cách làm việc phải được đảm bảo bằng tri
thức khoa học, do vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên các cán bộ lãnh đạo,
quản lý: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý
luận với cơng tác thực tế. Khơng ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết
rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ngày càng tiến bộ, cho nên chúng
ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”[3]. “Bất kỳ ở hoàn cảnh
nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc,
cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hố, tri thức và chính trị của
mình.”[4]

2.2.3 Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và quyết đoán

Là những người có trọng trách trong một tập thể, cán bộ lãnh đạo, quản
lý cần rèn luyện phong cách làm việc dân chủ, tập thể. Thực hành nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một người dù tài
giỏi đến đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề phức tạp,
cũng như không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã
hội. Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của
tập thể, của đơng đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của
một tập thể, một đơn vị hay địa phương mà riêng một mình cán bộ lãnh đạo,
quản lý khơng làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Lãnh đạo, quản lý khơng
phát huy trí tuệ tập thể, thì sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, chuyên
quyền.

7

Tuy nhiên, có ý thức tập thể cao, biết tơn trọng và lắng nghe ý kiến
tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng lại khơng có tính quyết đốn, khơng
dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì khơng thể có những quyết

định kịp thời đáp ứng u cầu cuộc sống địi hỏi và cơng việc cũng khơng thể
tiến triển được.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng:

“Khơng phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải
quyết được, cũng cứ đưa ra bàn mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là
hiểu máy móc. Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ. Những việc bình
thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận
giải quyết đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”[5].

Đặc biệt trong những thời điểm then chốt, khi có thời cơ người lãnh
đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết đoán. Như Người khẳng
định: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí Gặp thời một tốt cũng thành cơng”[6].

Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là
phải kết hợp chặt chẽ giữa cách làm việc dân chủ tập thể với tính quyết
đốn, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, trước quốc dân đồng bào,
kịp thời đưa ra những quyết sách đúng. Những hiện tượng coi thường tập
thể, hoặc dựa dẫm, ỷ lại tập thể, khơng dám quyết đốn, khơng nêu cao trách
nhiệm cá nhân đều làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý
của người cán bộ.

2.2.4 Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói với làm

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam,
nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Khơng có lý luận
thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”[7].“Làm mà khơng có lý luận thì khơng
khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”[8]. Cán bộ


8

lãnh đạo, quản lý cần phải có lý luận mới có thể hồn thành nhiệm vụ của
mình.

Song, Người cũng chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực
tiễn trong cơng tác. “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù qng. Lý luận mà khơng liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[9]. Lý
luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lịe thiên hạ thì lý
luận ấy cũng vơ ích. Thậm chí, thuộc lý luận mà xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới
bệnh giáo điều, sách vở, làm tổn hại cho phong trào cách mạng.

Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý là phải có năng lực vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là học tập cái tinh thần xử trí
mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tiễn ở nước ta.”[10]. Bác Hồ nói chuyện với cán bộ và sinh viên
Bách khoa.

Điểm nổi bật nhất ở Hồ Chí Minh, chính là ln ln có sự thống nhất
giữa lý luận với thực tiễn, tư tưởng và hành động, nói đi đơi với làm. Cả cuộc
đời cách mạng đầy phong ba, bão táp của Người là một bài học lớn chiếu sáng
nguyên tắc tư tưởng, đạo đức, phong cách làm việc - Nói đi đơi với làm.
Người nói: “1 tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên
truyền”[11]. Với người lãnh đạo, quản lý. “Phải lấy kết quả thiết thực đã giúp
sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của
mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói sng, thói phơ trương hình thức, lối
làm việc khơng nhằm mục đích nâng cao sản xuất”[12].


2.2.5 Phong cách làm việc quần chúng

9

Chủ tịch Hồ Chí Minh khun cán bộ, đảng viên nói chung và các cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong mọi công tác của Đảng, của Chính phủ, Đồn thể,
phong cách làm việc tốt nhất là phải:

"Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp
mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp
đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tun truyền, giải thích
cho quần chúng và làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần
chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực
hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng hay khơng. Rồi lại tập trung ý kiến
của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm,
tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành.

Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ
hơn lần trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt" [13].

Các cán bộ lãnh đạo, quản lý do khơng biết gom góp ý kiến của quần
chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của họ thành ra lý thuyết
suông, không hợp với thực tế. Vì vậy, ngay trong cơng tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, trong cải cách bộ máy Nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải
thực hành cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách
chung với sự chỉ đạo riêng. Phải dùng cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại
với quần chúng”. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.

Đứng đầu Đảng, Nhà nước, quyền cao, chức trọng, nhưng Hồ Chí Minh
khơng xa cách với quần chúng, Người có phong cách sống và làm việc sâu sát

với thực tiễn, gần gũi với nhân dân, thấu hiểu và chia sẻ mọi niềm vui và nỗi
vất vả của người dân. Với quần chúng, Hồ Chí Minh vừa là người đồng hành
vừa là người dẫn dắt

Hồ Chí Minh dành nhiều công sức giáo dục cho các cán bộ lãnh đạo,
quản lý phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, mong muốn họ trở

10

thành những người lãnh đạo, quản lý thành công do được dân tin, dân yêu,
dân phục, dân theo, dân ủng hộ.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý không được quan liêu, hách dịch, coi thường
quần chúng nhân dân. Họ phải biết đời sống thực, khả năng thực của nhân dân
ra sao? Cần biết được tâm tư, băn khoăn, thắc mắc của quần chúng, để cùng
họ kịp thời tháo gỡ.

"Cán bộ tỉnh phải đến các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến tận
các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm,
óc nghĩ, để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát rút kinh nghiệm, trao đổi
kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và hỏi dân''[14].

Đó là phong cách làm việc khơng bó mình trong văn phịng, bàn giấy;
khơng tự cho mình có địa vị cao hơn, khơng tạo cho mình vẻ quan cách, khác
biệt dân. Liên hệ mật thiết với quần chúng là hồ mình vào cuộc sống của
quần chúng, nắm bắt được nguyện vọng, ý chí của quần chúng để dẫn dắt họ,
giúp họ thực hiện khát vọng. ý chí của mình.

Dân có tin Đảng, Nhà nước hay khơng? Đảng, Nhà nước có hiểu dân
hay khơng, có phát huy được sức mạnh của dân hay không phụ thuộc rất

nhiều vào phong cách làm việc và năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ
Chí Minh khẳng định: "Lãnh đạo tốt nghĩa là thực hiện đầy đủ những nghị
quyết của Đảng, biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của nhân dân phải
đi đúng đường lối quần chúng, phải đi sâu vào cơ sở, hợp tác xã. Phải tuyên
truyền giáo dục cho mọi người thấm nhuần ý thức trách nhiệm tinh thần làm
chủ tập thể, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, xây dựng nước nhà"[15].

Xa rời quần chúng, người cán bộlãnh đạo, quản lý sẽ giống như cá bị
tách ra khỏi nước, mất hết khả năng và sức sống.

2.2.6 Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư

11

Chữ Cần theo cách hiểu truyền thống là siêng năng, chăm chỉ. Song,
nếu chỉ hiểu chữ cần như thế. Hơn nữa “Nếu chỉ 1 ngày cần mà 10 ngày
khơng cần, thì cũng vơ ích”, thì dân tộc ta khó thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Học và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh, nhân dân ta, mà trước hết
là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hiện chữ Cần với nhiều nghĩa mới, hiện
đại do Người mang lại và gương mẫu thực hiện. Cần khơng phải là làm xổi.
Cần cịn có nghĩa là phải cố gắng hết sức mình trong công tác, học tập trong
suốt cả năm, trong cả đời mỗi người; có chí tiến thủ, khơng sợ việc gì là khó.
"Cần thì việc gì dù khó khăn mấy cũng làm được"[16]. Hơn nữa, "Cần, tức là
tăng năng suất trong cơng tác, bất kỳ cơng tác gì".[17]

Trong phong cách làm việc truyền thống, người Việt Nam cịn thiếu
sức bền, tính tổ chức và kế hoạch. Cho nên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
rèn luyện phong cách làm việc có sức bền, có kế hoạch, biết phân cơng, đặc
biệt là biết dùng nguời, nhất là người có tài. Hồ Chí Minh vạch rõ:


"Siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau. Kế hoạch lại đi đôi với
phân công... Phân công phải nhằm vào 2 điều:

1- Công việc: Việc gì gấp làm trước. Việc gì hỗn thì làm sau.

2- Nhân tài:Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc
ấy"[18]. Nếu dùng người và phân cơng việc không đúng, không biết trọng
dụng hiền tài, ắt là lãnh đạo, quản lý yếu kém, hoặc thất bại.

Đi đôi với Cần là Kiệm. Hồ Chí Minh cho rằng tiết kiệm khơng phải là
keo kiệt, bủn xỉn, coi đồng tiền bằng cái trống. Tiết kiệm là biết chi tiêu một
cách khoa học, có hiệu quả nhất. Việc khơng đáng tiêu, thì một xu cũng
khơng tiêu. Cịn khi có việc đáng làm vì lợi ích cho đồng bào, Tổ quốc thì dù
tốn bao cơng của cũng vui lịng.

12

"Muốn tiết kiệm có kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức"[19]. Thời gian
còn quý hiếm hơn vàng bạc. Thời gian sẽ có nhiều hơn, có ích hơn nếu cán bộ
lãnh đạo, quản lý biết khéo tổ chức sắp đặt công việc, quản lý thời gian, làm
việc có kế hoạch.

Đi đôi với thực hành tiết kiệm là chống lãng phí. Người lãnh đạo, quản
lý càng phải có phong cách khiêm tốn, giản dị, chống lãng phí, xa xỉ.

Chống lãng phí sức lao động, chống lãng phí thời giờ, chống lãng phí
tiền của của nhân dân, của cơ quan, xí nghiệp, đơn vị sản xuất thì năng suất
lao động mới cao, kinh doanh sản xuất mới phát triển. Người vạch rõ:

"Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy khơng lấy của cơng đút túi, song

kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn
tham ô"[20]. Cho nên phải thực hành cần, kiệm và chống lãng phí, nền kinh tế
- xã hội mới phát triển một cách bền vững.

Cán bộ lãnh đạo quản lý phải liêm khiết, không được tham ô của Nhà
nước và của nhân dân. Tâm trạng của quần chúng nhân dân ta hiện nay đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý, có thể nói có phần nào đó giống như người xưa
từng nhận định:

“Lại không sợ ta nghiêm mà sợ ta Liêm; dân không phục ta tài mà phục
ta Cơng; Cơng thì sáng, Liêm thì uy ’’.

Hồ Chí Minh phân tích: Liêm là trong sạch, không tham lam. Tất cả
mọi công dân đều phải liêm. Song, cán bộ lãnh đạo, quản lý "Phải thực hành
chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân"[21]. Đồng thời, phải tuyên truyền
giáo dục cho nhân dân có hiểu biết, khơng chịu đút lót, thì dù cán bộ khơng
liêm cũng phải hố ra liêm. "Quan tham vì dân dại". Dân phải biết quyền hạn
của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ lãnh đạo, quản lý thực
hiện chữ liêm.

13

Còn, “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy
ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”[22].

Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phong cách quang minh chính đại,
thấy việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.Chủ tịch
Hồ Chí Minh phân tích: Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Người cán bộ
lãnh đạo, quản lý đã Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người có
khí tiết cao thượng, xứng đáng là người dẫn dắt, điều khiển hành động của

quần chúng nhân dân. Người liêm chính khơng sợ hãi trước nhưng uy lực tăm
tối, dám dũng cảm gạt bỏ những việc làm trái với đạo lý, không để cho chúng
làm bận tâm. Học và làm theo khí tiết cần kiêm liêm chính Hồ Chí Minh, một
khi hình thành khí tiết cao thượng, thì bất cứ những thứ danh tiếng, tiền tài,
địa vị, sắc đẹp, lợi lộc khơng chính đáng nào cũng không thể khiến người lãnh
đạo, quản lý dao động, ngả nghiêng, hoặc thối hóa biến chất.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý có Liêm Chính thì mới có thể chí cơng vơ tư.
Ở Hồ Chí Minh, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư khơng những là phong
cách làm việc mà cũng chính là phẩm chất đạo đức cách mạng, là nhân cách
của con người, nhất là người có trách niệm lãnh đạo, quản lý con người.

2.3 Vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo quản lý lãnh đạo ở nước ta
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Lãnh đạo bao gồm nhiều hoạt động, từ việc xây dựng tầm nhìn, xác
định mục tiêu, ra quyết định đúng, đổi mới để tổ chức phát triển, đến việc xây
dựng văn hóa tổ chức, tạo động lực và sự cam kết của các thành viên hướng
tới tầm nhìn, mục tiêu chung... Trong tất cả các hoạt động đó, việc tiếp nhận,
xử lý thơng tin, dữ liệu (đầu vào) để đi đến các quyết định quản lý hoặc quyết
định chính sách hợp lý (đầu ra) có vai trị hết sức quan trọng. Các nhà khoa
học đã ước tính 70% thời gian của quản lý lãnh đạo là dành cho việc tiếp
nhận, xử lý các loại hình thơng tin, dữ liệu thơng qua các kênh khác nhau. Sự

14

khác biệt về “chất” giữa đầu vào - đầu ra thể hiện ở các phương án quyết định
mà nhà quản lý quản lý quản lý lãnh đạo cần phải lựa chọn: Tính chất tổ hợp,
khả năng phản ánh hiện thực khách quan, tính khả thi... Bên cạnh năng lực
tổng hợp, phân tích và cảm nhận cá nhân của quản lý lãnh đạo thì chất lượng

thơng tin, dữ liệu đầu vào có tác động quan trọng đến chất lượng phương án
quyết định quản lý hoặc quyết định chính sách đầu ra. Chính ở đây, có nhiều
câu hỏi quan trọng được đặt ra như: Làm thế nào để thu nhận được các thơng
tin, dữ liệu đầu vào có chất lượng trong hoạt động lãnh đạo quản lý; đánh giá
mức độ tin cậy của các nguồn thông tin; giữa các loại thông tin dữ liệu khác
nhau thậm chí mâu thuẫn nhau, thì làm thế nào để lựa chọn đúng, xây dựng
phương án phù hợp?...

Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin, truyền thơng, dữ liệu thì khoảng
cách trong tiếp nhận thơng tin giữa các nhóm xã hội khác nhau ngày càng bị
thu hẹp. Bên cạnh đó, như nhiều nhà khoa học đã chỉ ra, với một lượng thông
tin hằng ngày rất lớn, đa dạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thì
con người có thể bị chìm ngập trong thơng tin mà khơng đem lại kiến thức và
tri thức đáng kể nào. Nhà quản lý lãnh đạo, với yêu cầu đưa ra được các quyết
định đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ mà thực tiễn cuộc sống, cơng việc
đặt ra, càng cảm nhận thấy tình trạng mất cân đối giữa một bên là thông tin
ngày càng nhiều - và một bên là sự không theo kịp của năng lực xử lý thông
tin để tạo ra tri thức có ích cho cơng việc. Trong hồn cảnh đó, các nhà khoa
học đã nhấn mạnh đến q trình kiến tạo tri thức (knowledge creation) mang
tính ứng dụng cao trong khi đối diện với các thách thức quản lý lãnh đạo. Nói
cách khác, nếu coi việc ra quyết định là sự lựa chọn một trong các phương án
hành động thì chất lượng thơng tin, dữ liệu đầu vào và tính khả thi của các
phương án đưa ra sẽ có tác động rất lớn đến hiệu quả của việc thực thi quyết
định.

15

Herbert Simon đã lập luận về “Lý trí giới hạn - bounded rationality”
(1972) dẫn đến các phương pháp ra quyết định dựa vào trí tuệ tập thể thơng

qua các phương pháp như delphi, hay lấy ý kiến bậc thang[23]. Tuy nhiên,
hạn chế lớn của cách tiếp cận này là tập trung vào việc lấy ý kiến các chuyên
gia, trong giới hạn nhóm nhỏ của tổ chức, công ty hoặc công ty tư vấn.

Năm 2004, James Surowiecki (người Mỹ) đã cơng bố cuốn sách: “Trí
tuệ đám đơng - Vì sao đa số thơng minh hơn thiểu số”, đưa ra nhiều dẫn
chứng lịch sử và thực nghiệm xã hội khẳng định rằng sự đa dạng, độc lập của
các ý kiến khác nhau của nhóm đơng người là vơ cùng cần thiết để đi đến
những phán đoán sát với thực tế; một nhóm bình thường đơng người có thể
đưa ra quyết định hợp lý hơn cả các chuyên gia[23]. Cơng trình nghiên cứu
này gợi ý cho chúng ta rằng việc tìm kiếm phương án giải quyết các thách
thức quản lý, lãnh đạo không nên chỉ giới hạn bởi ý kiến của nhóm có trình độ
cao mà cần huy động trí tuệ của nhiều người, kể cả người rất bình thường.
Thách thức lớn nhất khi cần huy động trí tuệ tập thể - ý kiến quần chúng - là
làm sao để họ tham gia vào q trình cung cấp thơng tin và gợi ý phương án
hành động một cách chân thật nhất. Các ý kiến đó nên và cần xuất phát từ
chính góc nhìn của chủ thể chứ khơng phải bị áp đặt bởi góc nhìn của nhà
quản lý, lãnh đạo hay một ai khác.

Trong thời gian dài, đã có định kiến về tương quan chênh lệch kiến thức,
tri thức giữa người quản lý, lãnh đạo và người dân bình thường. Theo đó, đa số
ý kiến cho rằng người quản lý, lãnh đạo ln có nhiều thơng tin, kiến thức hơn
so với người dân; những cán bộ dưới quyền chỉ là người thừa hành, tiếp nhận
thông tin và kiến thức từ quản lý, lãnh đạo, vận dụng sáng tạo để thực hiện
nhiệm vụ do quản lý, lãnh đạo giao. Nói cách khác, dịng chảy thơng tin, kiến
thức mang tính một chiều từ quản lý, lãnh đạo đến nhân viên, từ cán bộ đến
người dân thường. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ
thông tin, truyền thông, khả năng và cơ hội khai thác thông tin, dữ liệu của

16


người dân đã được cải thiện rất nhiều. Việc nâng cao trình độ học vấn, cơ hội
giao lưu văn hóa liên quốc gia đã gia tăng khả năng tổ hợp tri thức của chính
những người dân bình thường. Thơng qua đó, năng lực của người dân trong
nhận biết mâu thuẫn và tìm phương án giải quyết vấn đề cũng có bước phát
triển vượt trội. Vậy tri thức tổ hợp của quản lý, lãnh đạo sẽ phải được gây dựng
như thế nào, ở trình độ nào mới thể hiện được năng lực quản lý, lãnh đạo và
dẫn dắt?

Trong khoa học xã hội đã đề cập đến tri thức bối cảnh hóa-
contextualized knowledge như một trong những luận điểm có sức sống nhất
trong các lý thuyết quản trị tri thức hiện đại. Theo đó, với tiến trình gia tăng
mức độ phức tạp và phức hợp của các hiện tượng và tiến trình trong xã hội
được cộng hưởng bằng sự tương tác hàm chứa nhiều điều “bất định” hơn là
“tất định” thì sự hiểu biết của con người về bất kỳ một sự kiện hiện tượng nào
cũng không thể “bất biến” mà phải gắn với bối cảnh cụ thể, không gian - thời
gian của sự kiện, hiện tượng[25]. Tri thức bối cảnh hóa (contextualized
intelligence/knowledge) trở nên hết sức hữu dụng, đặc biệt đối với việc xử lý
các thách thức quản lý, lãnh đạo thì hiểu biết về bối cảnh cụ thể và có thể
đang thay đổi từng ngày, từng giờ càng trở nên quan trọng. Thiếu thông tin,
hiểu biết về bối cảnh của thách thức rất dễ đưa ra các quyết định sai lầm.

Các thách thức quản lý, lãnh đạo và chính sách trong thực tiễn, ln
khác xa so với những kiến thức được học tập trong nhà trường. Trong rất
nhiều trường hợp, tri thức khoa học truyền thống, những kiến thức hiện có
của bản thân nhà quản lý, lãnh đạo cũng như của tổ chức không đủ để giúp
nhà quản lý, lãnh đạo giải quyết được các thách thức đó. Trong hồn cảnh này
địi hỏi nhà quản lý, lãnh đạo và tổ chức phải kiến tạo tri thức mới, do đó,
năng lực hỗ trợ và dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức trở nên hết sức quan
trọng đối với nhà quản lý, lãnh đạo. Trong quá trình kiến tạo tri thức này, mỗi

chủ thể liên quan, cho dù là người có trình độ cao, hay những người học vấn

17

thấp, lạc hậu, vẫn có một vị trí nhất định. Vai trị của họ khơng chỉ giới hạn ở
việc trở thành đối tượng hưởng lợi của quá trình kiến tạo tri thức mà họ có
khả năng đóng góp nhất định cho tri thức bối cảnh hóa đó.

Lý thuyết “Quản trị dựa vào tri thức” của Ikujiro Nonaka - một trong
20 nhà quản trị nổi tiếng thế giới thế kỷ XXI, nhấn mạnh kiến tạo tri thức
(knowledge creation) là nền tảng cốt lõi để quản lý, lãnh đạo, quản lý tổ chức/
cộng đồng ngày càng phát triển thích ứng được với những thay đổi liên tục
của thị trường, xã hội. Khi so sánh, đối chiếu chu trình kiến tạo tri thức SECI
gồm 4 giai đoạn: Xã hội hóa - ngoại hóa - tổng hợp - nội hóa do I.Nonaka và
các cộng sự phát hiện, khái quát trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn quá trình kiến
tạo tri thức trong hàng loạt doanh nghiệp thành cơng nổi bật ở Nhật Bản[5],
chúng ta nhận thấy có sự trùng hợp với những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh như đã trình bày ở trên.

Mơ hình SECI khẳng định rằng q trình tạo ra tri thức là q trình
biến hóa liên tục giữa tri thức ẩn (tacit knowledge) và tri thức hiện (explicit
knowledge). Tri thức ẩn là những hiểu biết của cá nhân, nó có tính chủ quan
và là tri thức dựa trên trải nghiệm cá nhân, nhiều khi không thể thể hiện bằng
lời, con số, hay cơng thức (nó phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể). Tri thức hiện là
những tri thức có tính khách quan, logíc có thể thể hiện bằng lời, con số hoặc
các cơng thức (nó không phụ thuộc vào bối cảnh). Tất cả mọi tri thức đều ở
dạng tri thức ẩn hoặc bắt nguồn từ tri thức ẩn. “Tri thức mới được tạo ra từ sự
tương tác liên tục giữa tri thức ẩn và tri thức hiện”[23]. Theo I.Nonaka, tương
tác qua lại giữa tri thức ẩn và tri thức hiệnlà sự di chuyển liên tục qua lại giữa
cách nhìn chủ quan và khách quan, hướng đến chân lý; trong đó đối thoại và

thực hành đóng vai trị quan trọng để khách quan hóa tri thức ẩn của cá nhân
và kiểm chứng nó, giúp nó tiệm cận đến chân lý.

18


×