Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Nghiên cứu rủi ro lộ thông tin cá nhân trên mạng internet và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.36 KB, 38 trang )

NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP

.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................

Trưởng đơn vị Hà nội, ngày …tháng…năm ….
(Ký tên, đóng dấu) Người nhận xét

(Ký và ghi rõ họ tên)

MỤC LỤC

MỤC LỤC........................................................................................................4

MỞ ĐẦU..........................................................................................................6

CHƯƠNG 1 QUYỀN RIÊNG TƯ TRÊN INTERNET (QUYỀN RIÊNG TƯ

CÁ NHÂN) .................................................................................................. 7


1.1 Quyền riêng tư trên Internet...............................................................7

1.2 Những rủi ro của quyền riêng tư trên Internet....................................8

1.2.1 Địa chỉ giao thức Internet (IP).....................................................10

1.2.2 Cookies HTTP.............................................................................10

1.2.3 Cookies flash...............................................................................11

1.2.4 Evercookies.................................................................................12

1.2.5 Sử dụng cho việc quảng cáo........................................................12

1.2.6 Dấu vân tay của thiết bị...............................................................13

1.2.7 Hình ảnh trên internet..................................................................13

1.2.8 Cơng cụ tìm kiếm (Search engines).............................................14

1.2.9 Vấn đề bảo mật của các trang mạng xã hội.................................15

1.2.10 Dữ liệu lớn (Big data)................................................................16

1.2.11 Những rủi ro bảo mật Internet tiềm năng khác..........................17

1.3 Quan điểm cộng đồng......................................................................17

1.4 Pháp luật và các quy định.................................................................19


1.4.1 Chính sách bảo mật toàn cầu.......................................................19

1.4.2 Quy định về bảo vệ dữ liệu..........................................................20

1.4.3 Quyền riêng tư trên Internet tại Việt Nam...................................20

1.4.4 Quyền riêng tư trên internet tại Trung Quốc...............................24

2

CHƯƠNG 2 CÁC NGUY CƠ LỘ THÔNG TIN CÁ NHÂN CỦA NGƯỜI
DÙNG TRÊN MẠNG XÃ HỘI..............................................................................26

2.1 Thực trạng pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam.........26
2.2 Hành vi xâm hại, xâm phạm thông tin cá nhân tại Việt Nam...........28
2.3 Các tình huống khiến người dùng mất thông tin cá nhân trên Internet.

......................................................................................................... 30
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN TỒN THƠNG TIN,
DỮ LIỆU TRÊN MẠNG XÃ HỘI..........................................................................32

3.1 Lộ dữ liệu cá nhân nguy hiểm như thế nào?.....................................32
3.2 Làm gì để tránh lộ dữ liệu thông tin cá nhân....................................32
KẾT LUẬN....................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................39

3

MỞ ĐẦU


Trong thời đại tồn cầu hóa, việc kết nối, tương tác trên mạng xã hội ngày
càng phổ biến. Tuy nhiên, rất ít người sử dụng Internet tại Việt Nam quan tâm đến
việc bảo mật thông tin cá nhân. Sự dễ dãi của nhiều người khi đưa thông tin cá nhân
lên mạng khiến thơng tin của họ có nhiều nguy cơ bị khai thác.

Vấn đề này xảy ra đối với người dùng thường xuyên chia sẻ thông tin cá nhân,
các vấn đề riêng tư trên mạng xã hội mà bỏ qua những rủi ro, đe dọa về bảo mật
thông tin cá nhân. Thông tin cá nhân (TTCN) (hay quyền riêng tư trên Internet) có
phạm vi rất rộng, liên quan đến mọi mặt của đời sống nên các hành vi xâm hại, xâm
phạm cũng vô cùng đa dạng, phong phú. Chỉ cần lướt qua một vài tờ báo hay các
trang mạng xã hội, chúng ta dễ dàng nhận thấy, các vụ việc xâm phạm, vi phạm
thông tin cá nhân đã, đang xảy ra ngày càng nhiều, liên quan đến hầu khắp các mối
quan hệ xã hội của cá nhân, bằng các hình thức, dưới các thủ đoạn, với các động cơ,
mục đích khác nhau. Điều này khơng những gây phiền tối tới cuộc sống sinh hoạt
thường nhật của mỗi cá nhân mà còn tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh, an tồn thơng
tin, ảnh hưởng xấu tới xã hội, thậm chí đã có khơng ít sự vụ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, sức khoẻ, tính mạng của con người.
Việc lơ là cảnh giác, thái độ xem nhẹ đối với quyền bảo mật riêng tư có thể khiến
người dùng dễ dàng trở thành mục tiêu tấn công của tội phạm mạng, nhất là trong
những lĩnh vực tài chính hay những vấn đề về cá nhân. Do vậy, cần thiết phải ban
hành các quy định pháp luật để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ
TTCN, bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và xã hội.

Bài viết này đưa ra những cái nhìn tổng quan thực trạng pháp luật về bảo vệ
TTCN ở Việt Nam cùng với các nguy cơ lộ thông tin cá nhân của người dùng trên
các mạng xã hội và đề xuất một số giải pháp đảm bảo an tồn giao thơng thơng tin,
dữ liệu cho người dùng trên Internet.

4


CHƯƠNG 1 QUYỀN RIÊNG TƯ TRÊN INTERNET
(QUYỀN RIÊNG TƯ CÁ NHÂN)

1.1 Quyền riêng tư trên Internet

Khái niệm

Quyền riêng tư trên Internet (tiếng Anh là Internet privacy) là quyền riêng tư
cá nhân (personal privacy) liên quan đến việc lưu trữ, hiển thị và cung cấp cho bên
thứ ba thông tin liên quan đến bản thân thông qua Internet. Quyền riêng tư trên
internet là một phần thuộc quyền riêng tư dữ liệu (data privacy). Những lo ngại về
quyền riêng tư đã được thảo luận kể từ khi bắt đầu có sự chia sẻ máy tính quy mơ
lớn.

Quyền riêng tư liên quan đến thông tin nhận dạng cá nhân (PII) hoặc thông tin
không thuộc thông tin nhận dạng cá nhân chẳng hạn như hành vi của khách hàng
khi truy cập trang web, hành vi mua hàng trên internet, sở thích của người dùng trên
mạng xã hội, hành vi tìm kiếm của người dùng,....

Thông tin nhận dạng cá nhân là bất kỳ thông tin nào có thể được sử dụng để
xác định một cá nhân. Ví dụ: chỉ cần hai yếu tố thơng tin là tuổi và địa chỉ có thể
giúp xác định một cá nhân là ai mà không cần phải tiết lộ rõ ràng tên của họ. Các
dạng thông tin nhận dạng cá nhân (PII) khác có thể được kể đến như dữ liệu theo
dõi GPS được sử dụng trên các ứng dụng của người dùng, vì thơng tin lộ trình hằng
ngày có thể đủ để nhận dạng một cá nhân.

Các cấp độ quyền riêng tư

Internet và quyền riêng tư kỹ thuật số (digital privacy) có khái niệm khá khác
so với quyền riêng tư truyền thống. Quyền riêng tư trên internet chủ yếu liên quan

đến việc bảo mật thông tin người dùng. Giáo sư luật Jerry Kang giải thích rằng thuật
ngữ riêng tư thể hiện ở 3 khía cạnh là không gian, quyết định và thông tin. Về
không gian, các cá nhân kỳ vọng không gian vật lý của họ (ví dụ: nhà, xe hơi)
khơng bị xâm nhập. Cuối cùng, quyền riêng tư thông tin liên quan đến việc thu thập
thông tin người dùng từ nhiều nguồn khác nhau, để tạo ra các cuộc thảo luận quy
mô lớn.

Đối với những người chỉ có mối quan tâm thơng thường về quyền riêng tư trên
internet thì họ sẽ khơng cần đến chế độ ẩn danh hồn tồn. Dù vậy, họ có thể bảo vệ
quyền riêng tư của họ thơng qua việc tự kiểm sốt việc tiết lộ thông tin cá nhân

5

bằng cách hạn chế điền thông tin cá nhân vào các biểu mẫu trên internet, công khai
số điện thoại, địa chỉ trên mạng xã hội,.... Mặt khác, một số người có nhu cầu bảo
mật sự riêng tư mạnh mẽ hơn nhiều. Trong trường hợp đó, họ có thể thiết lập chế độ
ẩn danh internet để đảm bảo quyền riêng tư - tức là sử dụng internet mà không cho
bất kỳ bên thứ ba nào khả năng liên kết các hoạt động internet với thông tin nhận
dạng cá nhân của người dùng internet. Để giữ thông tin của bản thân ở chế độ riêng
tư, người dùng cần cẩn thận với những gì mình gửi và xem trực tuyến. Khi điền vào
biểu mẫu và mua hàng hóa, thơng tin được theo dõi và vì nó khơng riêng tư, một số
cơng ty gửi cho người dùng những spam và quảng cáo về các sản phẩm tương tự.

Một số thông tin được đăng trên internet vẫn tồn tại trong nhiều thập kỷ, tùy
thuộc vào các điều khoản dịch vụ và chính sách bảo mật của các dịch vụ cụ thể
được cung cấp trực tuyến. Điều này có thể bao gồm các bình luận, hình ảnh được
viết trên blog, trang web và các kênh truyền thông xã hội chẳng hạn như Facebook,
Instagram và Twitter. Tất cả đều được lưu trữ vào không gian ảo và một khi được
đăng, bất kỳ ai cũng có thể tìm thấy và truy cập nó. Một số nhà tuyển dụng có thể
nghiên cứu một nhân viên tiềm năng bằng cách tìm kiếm trực tuyến các chi tiết về

hành vi trực tuyến của họ, điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả của ứng viên.

1.2 Những rủi ro của quyền riêng tư trên Internet

Kiểm thử phần mềm tốn nhiều chi phí, nhân lực và thời gian. Trong một số dự
án, chi phí kiểm thử phần mềm chiếm 40% tổng giá trị của dự án. Do đó một trong
các mục tiêu của kiểm thử là tự động hóa nhiều, nhờ đó mà giảm thiểu chi phí, giảm
lỗi, đặc biệt giúp việc kiểm thử dễ dàng và nhanh chóng hơn.

Các công ty được thuê để theo dõi những trang web mà mọi người truy cập và
sau đó sử dụng thơng tin đó cho việc gửi quảng cáo dựa trên lịch sử duyệt web của
họ. Có nhiều cách để mọi người có thể tiết lộ thơng tin cá nhân của họ, ví dụ bằng
cách sử dụng "phương tiện truyền thông xã hội" và gửi thông tin ngân hàng và thẻ
tín dụng đến các trang web khác nhau. Ngoài ra, hành vi được quan sát trực tiếp như
nhật ký duyệt web, truy vấn tìm kiếm hoặc nội dung của hồ sơ Facebook có thể tự
động xử lý để phân tích ra các chi tiết có khả năng xâm phạm hơn về một cá nhân,
như khuynh hướng tình dục, quan điểm chính trị và tơn giáo, chủng tộc, sử dụng
chất gây nghiện, trí thơng minh và tính cách. Ngày nay, các nhà quảng cáo dựa vào
những dữ liệu được phân tích đó để đưa sản phẩm, dịch vụ tiếp cận khách hàng
thông qua các kênh, hoạt động mà họ thường xuyên tương tác trên internet.

Những người quan tâm đến quyền riêng tư trên internet thường dẫn chứng một
số rủi ro về quyền riêng tư và các sự kiện có thể ảnh hưởng đến quyền riêng tư mà

6

họ có thể gặp phải thơng qua các hoạt động trực tuyến. Chúng bao gồm từ việc thu
thập số liệu thống kê về người dùng cho đến các hành vi độc hại hơn như lây lan
phần mềm gián điệp và khai thác các dạng lỗi phần mềm khác nhau.


Một số mạng xã hội đang cố gắng bảo vệ thông tin cá nhân của người đăng ký.
Ví dụ, trên Facebook, chế độ cài đặt quyền riêng tư có sẵn cho tất cả người dùng đã
đăng ký: họ có thể chặn một số cá nhân xem hồ sơ của họ, họ có thể chọn "bạn bè"
của họ và có thể giới hạn người có quyền truy cập vào ảnh và video của họ. Cài đặt
bảo mật cũng có sẵn trên các mạng xã hội khác như Google Plus và Twitter. Người
dùng có thể áp dụng các cài đặt như vậy khi cung cấp thông tin cá nhân trên
internet.

Vào cuối năm 2007, Facebook đã khởi chạy chương trình Beacon trong đó hồ
sơ của người dùng được hồn tồn cơng khai để bạn bè xem. Nhiều người đã tức
giận vì sự vi phạm quyền riêng tư này và vụ kiện Lane v. Facebook, Inc. đã xảy ra
sau đó.

Trẻ em và thanh thiếu niên thường sử dụng internet (bao gồm cả phương tiện
truyền thông xã hội) theo những cách có thể gây rủi ro cho quyền riêng tư của
chúng. Đây cũng là một nguyên nhân khiến các bậc phụ huynh lo lắng. Những
người trẻ tuổi có thể khơng nhận ra rằng tất cả thơng tin và trình duyệt của họ có thể
được theo dõi khi họ truy cập một trang web cụ thể nào đó và việc họ bảo vệ quyền
riêng tư của mình hồn tồn phụ thuộc vào họ. Do đó, người trẻ phải được thơng
báo về tất cả những rủi ro này. Ví dụ: trên Twitter, các mối đe dọa bao gồm các liên
kết rút ngắn có thể dẫn đến các trang web hoặc nội dung có khả năng gây hại. Các
mối đe dọa từ email bao gồm lừa đảo qua email và tệp đính kèm thuyết phục người
dùng cài đặt phần mềm độc hại và tiết lộ thông tin cá nhân. Các mối đe dọa khác
cịn có thể đến từ phần mềm độc hại ẩn trong video, bài nhạc và phần mềm tải
xuống. Khi sử dụng điện thoại thông minh, các mối đe dọa cịn là định vị địa lý,
nghĩa là điện thoại có thể phát hiện vị trí của người dùng và cơng khai trực tuyến
cho mọi người xem. Người dùng có thể tự bảo vệ mình bằng cách cập nhật bảo vệ
chống vi-rút, sử dụng cài đặt bảo mật, tải các bản vá, cài đặt tường lửa, sàng lọc
email, tắt phần mềm gián điệp, kiểm sốt cookie, sử dụng mã hóa, chống lại kẻ tấn
cơng trình duyệt và chặn cửa sổ pop-ups.


Tuy nhiên, hầu hết mọi người không biết cách để thực hiện những biện pháp
bảo vệ trên. Đối với doanh nghiệp, họ có thể thuê các chuyên gia để giải quyết
những vấn đề này, nhưng đối với hầu hết các cá nhân, cách duy nhất là sự tự giáo
dục bản thân.

7

Những lo ngại về quyền riêng tư của người dùng internet đặt ra một thách thức
nghiêm trọng (Dunkan, 1996; Till, 1997). Trong một cuộc khảo sát trực tuyến,
khoảng 7/10 cá nhân trả lời rằng điều khiến họ lo lắng nhất là quyền riêng tư của họ
trên internet, thay vì qua thư điện tử hoặc điện thoại. Quyền riêng tư trên internet
chậm nhưng chắc chắn sẽ trở thành mối đe dọa, vì dữ liệu cá nhân của một người có
thể rơi vào tay kẻ xấu nếu được truyền qua web.

1.2.1 Địa chỉ giao thức Internet (IP)

Tất cả các trang web nhận được là địa chỉ IP được sử dụng bởi máy tính của
khách truy cập. Các cơng ty so sánh dữ liệu theo thời gian để liên kết tên, địa chỉ và
thơng tin khác với địa chỉ IP. Có sự không rõ ràng về sự riêng tư của các địa chỉ IP.
Tịa án Cơng lý Liên minh Châu Âu đã đặt quy định về địa chỉ IP rằng nó cần được
xem như là một loại thông tin nhận dạng cá nhân trong trường hợp trang web theo
dõi họ, hoặc bên thứ ba như nhà cung cấp dịch vụ, biết tên hoặc địa chỉ đường phố
của chủ sở hữu địa chỉ IP, tuy nhiên, điều đó chỉ đúng đối với các địa chỉ IP tĩnh,
không dành cho địa chỉ IP động. Các quy định của California nói rằng địa chỉ IP cần
được coi là thông tin cá nhân nếu bản thân doanh nghiệp, khơng phải bên thứ ba, có
thể liên kết chúng với tên và địa chỉ đường phố. Một tịa án ở Alberta tun bố rằng
cảnh sát có thể có được địa chỉ IP và từ đó điều tra được tên và địa chỉ liên quan đến
nó mà khơng cần lệnh khám xét; Các cảnh sát tại thành phố Calgary, Alberta, đã tìm
thấy các địa chỉ IP của tội phạm trực tuyến và nhà cung cấp dịch vụ sẽ cung cấp cho

cảnh sát tên và địa chỉ liên quan đến các địa chỉ IP đó.

1.2.2 Cookies HTTP

Cookie HTTP là dữ liệu được lưu trữ trên máy tính của người dùng, hỗ trợ
truy cập tự động vào các trang web hoặc tính năng web hoặc thông tin trạng thái
khác được yêu cầu trong các trang web phức tạp. Nó cũng có thể được sử dụng để
theo dõi người dùng bằng cách lưu trữ dữ liệu lịch sử sử dụng đặc biệt trong cookie
và các cookie như vậy được gọi là cookie theo dõi, ví dụ, những cookie được
Google Analytics sử dụng. Cookies là một mối quan tâm phổ biến trong lĩnh vực
bảo mật internet. Mặc dù các nhà phát triển trang web thường sử dụng cookie cho
các mục đích kỹ thuật hợp pháp, nhưng các trường hợp lạm dụng vẫn xảy ra thường
xuyên. Năm 2009, hai nhà nghiên cứu lưu ý rằng hồ sơ trên các mạng xã hội có thể
được kết nối với cookie, cho phép các hồ sơ được kết nối với thói quen duyệt web.

Trước đây, các trang web thường không khiến người dùng nhận thức rõ ràng
về việc lưu trữ cookie, tuy nhiên cookie theo dõi và đặc biệt là cookie theo dõi của
bên thứ ba thường được sử dụng như một cách để lập hồ sơ dài hạn về lịch sử duyệt

8

web của cá nhân - một vấn đề riêng tư mà khiến các nhà lập pháp châu Âu và Hoa
Kỳ hành động vào năm 2011. Cookies cũng có thể có ý nghĩa đối với thám tử máy
tính. Trong những năm qua, hầu hết người dùng máy tính khơng hồn tồn biết về
cookie, nhưng người dùng đã nhận thức được tác động có thể có hại của cookie
internet: một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng 58% người dùng đã xóa cookie khỏi
máy tính của họ ít nhất một lần và rằng 39% người dùng xóa cookie khỏi máy tính
của họ mỗi tháng. Vì cookie là mục tiêu chính của nhà quảng cáo đối với khách
hàng mục tiêu tiềm năng và trên thực tế người dùng đang ý thức hơn về bảo mật sự
riêng tư bằng cách xóa cookie nên các nhà quảng cáo bắt đầu sử dụng sang cookie

flash và cookie zombie.

Cookies có nhiều lợi ích. Một là đối với các trang web thường xuyên truy cập
yêu cầu mật khẩu, cookie có thể cho phép người dùng không phải đăng nhập mỗi
lần. Một cookie cũng có thể theo dõi sở thích của một người để hiển thị cho họ các
trang web có thể khiến họ quan tâm. Cookies làm cho nhiều trang web miễn phí sử
dụng mà khơng cần bất kỳ loại thanh tốn nào. Ngồi ra cookies cũng có một số lợi
ích tiêu cực. Ví dụ: một trong những cách trộm cắp phổ biến nhất là tin tặc lấy tên
người dùng và mật khẩu mà được cookie lưu. Mặc dù có nhiều trang web miễn phí,
nhưng họ bán khơng gian của mình cho các nhà quảng cáo. Những quảng cáo này,
được cá nhân hóa theo sở thích của một người, đơi khi có thể đóng băng máy tính
của một người hoặc gây phiền tối. Cookies hầu như vơ hại ngoại trừ cookie của
bên thứ ba.

1.2.3 Cookies flash

Khi một số người dùng chọn tắt cookie HTTP để giảm rủi ro về quyền riêng tư
như đã lưu ý ở trên, các loại cookie mới đã được phát minh ra: vì cookie là mục tiêu
chính của nhà quảng cáo đối với khách hàng mục tiêu tiềm năng và trên thực tế
người dùng đang ý thức hơn về bảo mật sự riêng tư bằng cách xóa cookie nên các
nhà quảng cáo bắt đầu sử dụng sang cookie Flash và cookie zombie.Trong một
nghiên cứu năm 2009, cookie Flash đã được tìm thấy là một cơ chế phổ biến để lưu
trữ dữ liệu trên 100 trang web được truy cập nhiều nhất. Một nghiên cứu khác về
truyền thông xã hội năm 2011 cho thấy, "Trong số 100 trang web hàng đầu, 31
trang web có ít nhất một sự trùng lặp giữa cookie HTTP và Flash." Tuy nhiên, các
trình duyệt hiện đại và phần mềm chống phần mềm độc hại hiện vẫn có thể chặn
hoặc phát hiện và xóa những cookies như vậy.

Cookie flash, còn được gọi là đối tượng chia sẻ cục bộ, hoạt động giống như
cookie thông thường và được Adobe Flash Player sử dụng để lưu trữ thông tin tại


9

máy tính của người dùng. Chúng có rủi ro riêng tư tương tự như cookie HTTP,
nhưng không dễ bị chặn, nghĩa là chế độ ngăn chặn cookie ở một số trình duyệt khó
có thể ảnh hưởng đến chúng. Một cách để xem và kiểm sốt chúng là với các tiện
ích mở rộng hoặc tiện ích bổ sung cho trình duyệt. Cookie flash không giống như
cookie HTTP theo nghĩa là chúng không được chuyển từ máy khách trở lại máy
chủ.

1.2.4 Evercookies

Evercookies, được tạo bởi Samy Kamkar , là các ứng dụng dựa trên
JavaScript tạo cookie trong trình duyệt web chủ động "chống lại" việc bị xóa bằng
cách sao chép bản thân trong các hình thức khác nhau trên máy của người dùng và
phục hồi các bản sao bị thiếu hoặc hết hạn. Nó có khả năng lưu trữ cookie trong hơn
mười loại cơ chế lưu trữ để một khi chúng ở trên máy tính của một người, chúng sẽ
khơng bao giờ biến mất. Ngồi ra, nếu evercookie đã tìm thấy người dùng đã xóa
bất kỳ loại cookie nào được đề cập, nó sẽ tạo lại chúng bằng cách sử dụng từng cơ
chế có sẵn. Evercookies là một loại cookie zombie. Tuy nhiên, các trình duyệt hiện
đại và phần mềm chống phần mềm độc hại vẫn có thể chặn hoặc phát hiện và xóa
các cookie đó.

1.2.5 Sử dụng cho việc quảng cáo

Có nhiều tranh cãi về việc nên sử dụng công nghệ này ở đâu. Cookies lưu trữ
các định danh duy nhất trên máy tính của một người được sử dụng để dự đốn
những gì người ta muốn. Nhiều cơng ty quảng cáo muốn sử dụng công nghệ này để
theo dõi những gì khách hàng của họ đang xem trực tuyến. Đây được gọi là quảng
cáo hành vi trực tuyến cho phép nhà quảng cáo theo dõi các lượt truy cập trang web

của người tiêu dùng để cá nhân hóa và nhắm mục tiêu quảng cáo. Evercookies cho
phép các nhà quảng cáo tiếp tục theo dõi khách hàng bất kể cookie của họ có bị xóa
hay khơng. Một số cơng ty đã sử dụng công nghệ này nhưng vấn đề đạo đức vẫn
đang được tranh luận rộng rãi.

Ví dụ đối với Pinterest, khi muốn cung cấp nội dung thú vị nhất cho người sử
dụng. Họ sẽ sử dụng thơng tin từ các tính năng trên trang web Pinterest như nút
Lưu. Các đối tác quảng cáo của họ cũng có thể cung cấp cho họ thơng tin về hoạt
động ngồi Pinterest của người dùng để cung cấp quảng cáo được cá nhân hóa phù
hợp hơn. Tuy nhiên, người dùng hồn tồn có thể từ chối để Pinterest sử dụng
những thông tin này bằng cách truy cập vào cài đặt tài khoản.

10

AdSense sử dụng cookie để cải thiện quảng cáo. Một số ứng dụng phổ biến
của cookie là nhắm mục tiêu quảng cáo dựa trên những thông tin liên quan đến
người dùng, để cải thiện báo cáo về hiệu suất chiến dịch và để tránh hiển thị quảng
cáo mà người dùng đã nhìn thấy. Cookie không chứa thông tin nhận dạng cá nhân.
Tùy thuộc vào cài đặt của nhà xuất bản và người dùng, thông tin liên kết với cookie
được sử dụng trong quảng cáo có thể được thêm vào Tài khoản Google của người
dùng.

1.2.6 Dấu vân tay của thiết bị

Dấu vân tay của thiết bị là thông tin được thu thập về phần mềm và phần cứng
của thiết bị máy tính từ xa nhằm mục đích xác định các thiết bị riêng lẻ ngay cả khi
cookie liên tục (và cả cookie zombie) không thể đọc hoặc lưu trữ trong trình duyệt,
địa chỉ IP của máy khách bị ẩn và ngay cả khi một người chuyển sang trình duyệt
khác trên cùng một thiết bị. Điều này có thể cho phép nhà cung cấp dịch vụ phát
hiện và ngăn chặn hành vi trộm cắp danh tính và gian lận thẻ tín dụng, nhưng cũng

có thể lập hồ sơ dài hạn về lịch sử duyệt web của cá nhân ngay cả khi họ cố gắng
tránh theo dõi, gây lo ngại lớn cho những người ủng hộ quyền riêng tư trên internet.

1.2.7 Hình ảnh trên internet

Ngày nay, khi máy ảnh kỹ thuật số, điện thoại thông minh và mạng xã hội phát
triển, những hình ảnh của con người, sự vật được chụp và đăng tải trên internet rất
thường xuyên, ví dụ nhiếp ảnh gia đường phố khi làm như vậy để phục vụ cho mục
đích nghệ thuật, những nhiếp ảnh gia tài liệu xã hội để ghi lại con người trong cuộc
sống hàng ngày, hay những bất kỳ những người bình thường nào khi họ bắt gặp
những tình huống “thú vị” trong cuộc sống hay muốn lên án một ai đó, họ vẫn chụp
lại khoảnh khắc đó và đăng tải trên internet. Tuy nhiên, khơng phải ai trong những
bức ảnh này cũng muốn được xuất hiện trên internet.

Một số tổ chức cố gắng giải quyết mối quan tâm liên quan đến quyền riêng tư
này. Ví dụ, hội nghị Wikimania năm 2005 yêu cầu các nhiếp ảnh gia phải có sự cho
phép trước của mọi người trong ảnh của họ và một số người đeo thẻ "khơng có ảnh"
để cho biết họ không muốn chụp ảnh.

Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, chính phủ đã ban hành các
bộ luật về An ninh mạng với mục đích giải quyết được vấn đề xâm phạm riêng tư
một cách nhiễu loạn ngày nay trên internet.

Theo một nghiên cứu mới, cơng nghệ nhận dạng khn mặt có thể được sử
dụng để truy cập vào dữ liệu riêng tư của một người. Các nhà nghiên cứu tại Đại

11

học Carnegie Mellon đã kết hợp quét hình ảnh, điện tốn đám mây và hồ sơ cơng
khai từ các trang mạng xã hội để xác định các cá nhân trong thế giới ngoại tuyến.

Các chuyên gia đã cảnh báo về những rủi ro riêng tư phải đối mặt với sự gia tăng
của việc nhận dạng trực tuyến và ngoại tuyến. Các nhà nghiên cứu cũng đã phát
triển một ứng dụng di động 'thực tế mở rộng' có thể hiển thị dữ liệu cá nhân qua
hình ảnh của một người được chụp trên màn hình điện thoại thơng minh. Vì các
cơng nghệ này có sẵn rộng rãi, danh tính trong tương lai của người dùng có thể bị
cơng khai hiển thị cho bất kỳ ai có điện thoại thơng minh và kết nối internet.

Chế độ xem đường phố Google (Google Street View)

Chế độ xem đường phố của Google, được phát hành tại Hoa Kỳ vào năm
2007, hiện đang là chủ đề của một cuộc tranh luận đang diễn ra về việc vi phạm
quyền riêng tư cá nhân. Google Street View tiết lộ thơng tin trực quan có nghĩa là
nó có khả năng cung cấp thơng tin và bằng chứng trực tiếp về nơi ở, hoạt động và
tài sản riêng của một người. Ngoài ra, việc tiết lộ thơng tin về cơng nghệ của một
người ít trừu tượng theo nghĩa là, nếu được chụp ảnh, một người được thể hiện trên
Google Street View trong một bản sao ảo về ngoại hình ngồi đời thực của chính
họ. Mặc dù Google Street View bắt đầu làm mờ biển số xe và khuôn mặt của mọi
người vào năm 2008, công nghệ này bị lỗi và khơng hồn tồn đảm bảo chống lại
việc tiết lộ danh tính và tài sản riêng tư.

1.2.8 Cơng cụ tìm kiếm (Search engines)

Cơng cụ tìm kiếm (SE) có khả năng theo dõi những gì mà người dùng tìm
kiếm. Thơng qua việc tìm kiếm thơng tin bằng máy tính, tài khoản hoặc địa chỉ IP
thì thơng tin cá nhân người dùng có thể được tiết lộ. Các cơng cụ tìm kiếm cho rằng
việc giữ lại thông tin của người dùng là cần thiết vì nó hỗ trợ việc cung cấp dịch vụ
tốt hơn, bảo vệ chống lại áp lực bảo mật và bảo vệ chống gian lận. Một cơng cụ tìm
kiếm ghi nhận lại tất cả thông tin người dùng và gán cho mỗi người một số ID cụ
thể.


Cơng cụ tìm kiếm cũng có thể lưu giữ lại thơng tin người dùng trong tối đa
chín mươi ngày, chẳng hạn như thơng tin về vị trí và thời gian sử dụng cơng cụ tìm
kiếm. Hầu hết các nhà vận hành của cơng cụ tìm kiếm sử dụng dữ liệu để hiểu được
nhu cầu nào của người dùng cần phải được đáp ứng. Những người làm việc trong
lĩnh vực pháp lý cũng được phép sử dụng thông tin được thu thập từ các trang web
của cơng cụ tìm kiếm này. Ví dụ như Google có thể lưu giữ thơng tin trong khoảng
3 q trước khi nó trở nên lỗi thời đối với cộng đồng. Yahoo! cũng theo bước chân
của Google sẽ xóa thơng tin người dùng sau một khoảng thời gian chín mươi ngày.

12

Các cơng cụ tìm kiếm khác như Ask! đã quảng bá một công cụ "AskEraser" – công
cụ này về cơ bản chỉ lấy đi thông tin cá nhân khi được yêu cầu. Một số sẽ thay đổi
đã xảy ra cho các cơng cụ tìm kiếm trên internet. Bắt đầu từ năm 2009, Google bắt
đầu chạy một hệ thống mới nơi tìm kiếm Googletrở nên cá nhân hóa. Khi tìm kiếm
trên Google, kết quả được hiển thị sẽ dựa trên việc ghi nhớ thơng tin trước đó có
liên quan đến người dùng này. Cơng cụ tìm kiếm Google khơng chỉ hiện ra kết quả
được tìm kiếm mà cịn cố gắng làm cho người dùng cảm thấy như cơng cụ tìm kiếm
có thể nhận ra sở thích của họ. Điều này đạt được bằng cách sử dụng quảng cáo trực
tuyến. Một hệ thống mà Google sử dụng để lọc quảng cáo và kết quả tìm kiếm là
bằng cách sử dụng một hệ thống xếp hạng kiểm tra mức độ liên quan bao gồm quan
sát hành vi người dùng trong khi họ tìm kiếm cụm từ nào đó trên Google, điều này
có thể khiến người dùng quan tâm/thích thú. Một chức năng khác của cơng cụ tìm
kiếm là khả năng dự đốn vị trí. Các cơng cụ tìm kiếm có thể dự đốn vị trí hiện tại
của một người bằng cách định vị địa chỉ IP và vị trí địa lý.

1.2.9 Vấn đề bảo mật của các trang mạng xã hội

Sự ra đời của Web 4.0 đã gây ra hồ sơ xã hội - quá trình xây dựng hồ sơ người
dùng bằng dữ liệu xã hội của người đó và gia tăng mối quan tâm đối với quyền

riêng tư trên internet. Web 4.0 là hệ thống nhằm hỗ trợ chia sẻ thông tin và cộng tác
trên internet và các trang web mạng xã hội như Facebook, Instagram, Twitter và
MySpace. Các trang mạng xã hội này đã chứng kiến sự bùng nổ về mức độ phổ biến
của họ bắt đầu từ cuối những năm 2000. Thông qua các trang web này, nhiều người
đang cung cấp thông tin cá nhân của họ trên internet.

Đây là một chủ đề thảo luận về việc ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho vấn đề
thu thập và phân phối thông tin cá nhân. Một số người sẽ nói rằng đó là lỗi của các
mạng xã hội vì họ là những người đang lưu trữ lượng thơng tin và dữ liệu khổng lồ,
nhưng những người khác cho rằng chính người dùng chịu trách nhiệm về vấn đề
này vì chính người dùng là phía cung cấp thơng tin đầu tiên. Điều này liên quan đến
vấn muôn thuở là cách mà chúng ta định nghĩa các trang mạng xã hội là như thế
nào. Ngày càng đông người phát hiện ra những rủi ro khi đưa thông tin cá nhân của
họ lên internet nhưng họ tin tưởng vào trang web sẽ giữ kín thơng tin. Tuy nhiên,
trong một nghiên cứu gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những người
trẻ tuổi đang thực hiện các biện pháp để giữ thông tin được đăng trên Facebook ở
một mức độ nào đó. Ví dụ về các hành động như vậy bao gồm quản lý cài đặt quyền
riêng tư của họ để có thể hiển thị một số nội dung nhất định cho "Chỉ bạn bè" và bỏ
qua các yêu cầu kết bạn trên Facebook từ người lạ.

13

Vào năm 2013, một vụ kiện tập thể đã được đệ trình chống lại Facebook với
cáo buộc công ty đã quét các tin nhắn của người dùng cho các web liên kết, dịch
chúng sang các lượt thích “likes” trên các trang cá nhân của người dùng Facebook.
Các nguyên đơn cho rằng rằng dữ liệu được lấy từ các tin nhắn riêng tư được sử
dụng cho quảng cáo nhắm đối tượng (targeted advertising). Đây là một rủi ro ngày
càng tăng bởi vì những người trẻ tuổi có quyền truy cập internet dễ dàng hơn bao
giờ hết, do đó họ tự đặt mình vào vị trí mà mọi thứ quá dễ dàng để họ đăng tải
thông tin nhưng không thận trọng xem xét mức độ gỡ bỏ. Ngồi ra, do xã hội truyền

thơng kỹ thuật số phát triển nhanh chóng, nhận định của mọi người về sự riêng tư
cũng đang phát triển và điều quan trọng là phải xem xét thật kĩ về sự riêng khi
tương tác trực tuyến.

1.2.10 Dữ liệu lớn (Big data)

Dữ liệu lớn là sự tích lũy và tổng hợp nhanh chóng của một lượng lớn thơng
tin đang được trao đổi trên các hệ thống truyền thông kỹ thuật số. Dữ liệu lớn không
thể được xử lý bởi các bộ xử lý máy tính thơng thường và thay vào đó được lưu trữ
trên cơ sở dữ liệu hệ thống máy chủ lớn. Thông tin này được đánh giá bởi các nhà
khoa học phân tích thơng qua sử dụng các chương trình phần mềm; mà diễn giải
thơng tin này thành xu hướng và nhân khẩu học của người dùng. Thông tin này
được thu thập từ tất cả các nơi trên internet, chẳng hạn như các dịch vụ phổ biến
như Facebook, Google, Apple, Spotify hoặc hệ thống GPS. Dữ liệu lớn cung cấp
cho các công ty khả năng:

 Lập hồ sơ nhân khẩu học chi tiết của người dùng internet, ngay cả khi họ
không được người dùng trực tiếp bày tỏ hoặc chỉ định.

 Kiểm tra tính sẵn có của sản phẩm và tối ưu hóa giá để có lợi nhuận tối đa
trong khi xóa hàng tồn kho.

 Nhanh chóng cấu hình lại danh mục rủi ro trong vài phút và hiểu các cơ hội
trong tương lai để giảm thiểu rủi ro.

 Khai thác dữ liệu khách hàng để hiểu rõ hơn và tạo chiến lược quảng cáo để
thu hút và duy trì khách hàng.

 Xác định đâu là khách hàng quan trọng nhất.


 Tạo các chương trình giảm giá dựa trên tỷ lệ tương ứng với số tiền khách
hàng đã bỏ ra, để đảm bảo tỷ lệ mua lại cao hơn.

 Biết được vị trí khách hàng đang ở thơng qua định vị thiết bị di động nhằm

14

gửi đề xuất các ưu đãi phù hợp
 Phân tích dữ liệu từ phương tiện truyền thơng xã hội để phát hiện xu hướng

thị trường mới và sự thay đổi nhu cầu.
 Sử dụng phân tích nhấp và khai thác dữ liệu để phát hiện hành vi gian lận.
 Xác định nguyên nhân gốc rễ của lỗi, sự cố và lỗi bằng cách điều tra phiên

người dùng, nhật ký mạng và cảm biến máy.
1.2.11 Những rủi ro bảo mật Internet tiềm năng khác

 Theo dõi thiết bị chéo nhằm xác định hoạt động của người dùng trên nhiều
thiết bị.

 Phần mềm độc hại “Malwware” là một thuật ngữ ngắn gọn của "phần mềm
độc hại" “malicious software” và được sử dụng để mô tả phần mềm gây thiệt
hại cho một máy tính, máy chủ hoặc mạng máy tính cho dù đó là thơng qua
việc sử dụng vi-rút, trojan, phần mềm gián điệp, v.v.

 Web bug là một đối tượng được nhúng vào trang web hoặc email và thường
vơ hình đối với người dùng trang web hoặc người đọc email. Nó cho phép
kiểm tra xem một người đã xem một trang web cụ thể hay đọc một email hay
chưa.


 Lừa đảo “Phishing” là một q trình gian lận hình sự nhằm cố gắng có được
thông tin nhạy cảm như tên người dùng, mật khẩu, thẻ tín dụng hoặc thông
tin ngân hàng. Lừa đảo là một tội phạm internet, họ sẽ giả dạng là một người
đáng tin cậy trong một số trường hợp trên internet.

 Máy chủ proxy độc hại (hoặc các dịch vụ "ẩn danh" khác).
 Sử dụng mật khẩu yếu ngắn, bao gồm tất cả các số, tất cả chữ thường hoặc

tất cả chữ in hoa có thể dễ dàng bị đốn ra.
 Tái sử dụng mật khẩu hoặc cùng một mật khẩu trên nhiều nền tảng đã bị lộ

do rò rỉ dữ liệu.
 Sử dụng cùng tên đăng nhập và/hoặc mật khẩu cho nhiều tài khoản trong đó

một tài khoản bị xâm phạm dẫn đến các tài khoản khác bị xâm phạm.
 Sử dụng phần mềm lỗi thời có thể chứa các lỗ hổng đã được sửa trong các

phiên bản mới hơn, cập nhật hơn.

15

1.3 Quan điểm cộng đồng

Mối bận tâm về quyền riêng tư trên internet và ý nghĩa thực tế trong cuộc
sống

Các hệ luỵ xảy ra khi xử lý các vấn đề về quyền riêng tư trên internet không
chỉ dừng lại ở việc hỏng tệp, mất dữ liệu mà còn là nguy cơ cuộc sống cá nhân bị
xâm hại. Một trong những rủi ro đáng sợ nhất là khả năng bị đánh cắp danh tính.
Các cơng ty, doanh nghiệp lớn thường được cho là nạn nhân của các cuộc tấn công

này, tuy nhiên trong các báo cáo gần đây, xu hướng này đã thay đổi. Các hacker
đang nhắm vào người dùng cá nhân tại gia, thiếu trang bị các biện pháp bảo mật.
Các cuộc tấn công này không nhằm mục đích đánh cắp dữ liệu tức thời mà giành
quyền truy cập cho các tấn công trong tương lai. Thông tin mà các hacker đánh cắp
được thường được dùng để giả mạo danh tính trong các giao dịch, gian lận khai
thuế, vay vốn, tống tiền hoặc lừa đảo.

Nền kinh tế ngầm mở rộng khiến các cuộc tấn công internet ngày càng gia
tăng. Đây trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hacker để thu thập các thông tin như
tài khoản người dùng, email hay thậm chí là dữ liệu cá nhân như tài khoản ngân
hàng và mã PIN.

Chiếc bẫy rất phổ biến mà các hacker này sử dụng là các trang thương mại
điện tử - nơi mà người tiêu dùng không thể ngờ tới. Điều này không hàm ý rằng họ
sẽ bị đánh cắp thông tin mỗi lần mua hàng nhưng nguy cơ sẽ rất cao. Các cuộc tấn
công này thường xuất hiện ở các trang thương mại điện tử có quy mơ vừa và lớn
hơn là các trang nhỏ lẻ. Số lượng người dùng lớn sẽ mang lại nhiều thông tin tiềm
năng hơn. Theo "Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2019" do Cục
Thương mại điện tử và Kinh tế số phát hành, lo ngại thông tin cá nhân bị tiết lộ là 1
trong 3 trở ngại lớn nhất của người tiêu dùng khi mua hàng trực tuyến. Liên tiếp
trong 2 năm 2017 và 2018, sợ lộ thông tin cá nhân đều thuộc Top 10 lý do người
tiêu dùng chưa tham gia mua sắm trực tuyến.

Dù đã có các chính sách bảo mật từ các trang thương mại điện tử nhưng khả
năng bị vi phạm quyền riêng tư của người dùng thường nằm ngồi tầm kiểm sốt
của họ sau khi thực hiện giao dịch. Một trong những hình thức phổ biến nhất để
đánh cắp thông tin cá nhân là tấn công vào các máy chủ của các nhà bán lẻ điện tử.
Theo giải thích từ các chuyên gia, các nhà bán lẻ điện tử này vẫn có lỗ hổng trong
việc vận hành và phát triển hệ thống bảo mật. Tại Việt Nam, thiếu hụt nhân sự
chuyên môn cao về bảo mật tại các doanh nghiệp thương mại điện tử đã tạo nên các

lỗ hổng nguy hiểm này, dẫn đến mất mát dữ liệu người dùng. Điều này sẽ gây ra

16

những thiệt hại lớn về uy tín và tài chính cho các doanh nghiệp và cả khách hàng.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp đã chú trọng hơn đến việc bảo mật dữ liệu và
đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống an tồn, thậm chí chấp nhận bồi thường nếu việc làm
dụng thông tin xảy ra từ máy chủ của trang web.

Người dùng trực tuyến phải tìm cách bảo vệ thơng tin mình chia sẻ trên các
website, cụ thể là mạng xã hội. Trong thời đại Web 4.0 ngày nay, mỗi cá nhân là
một nhà cung cấp thông tin và xây dựng hành trình trực tuyến cá nhân. Các hacker,
doanh nghiệp đã nắm bắt những điều này để sử dụng cho nhiều mục đích marketing.
Mối lo ngại về quyền riêng tư trên internet xuất phát từ việc người tiêu dùng phải
đánh đổi dữ liệu cá nhân để tham gia vào các tương tác, giao dịch trên các diễn đàn
trực tuyến. Đối với các doanh nghiệp, những dữ liệu này được thu thập, lưu trữ và
quản lý để doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu giao dịch hiện tại của khách hàng
và tiếp cận họ trong tương lai, nâng cao các dịch vụ và xử lý các vướng mắc nhanh
chóng, hiệu quả. Tuy nhiên, vấn đề trọng tâm của các doanh nghiệp vẫn là lợi
nhuận, họ không thể chi tiêu vô hạn định cho công tác bảo mật thông tin khách
hàng, đồng thời, việc liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp có thể thúc đẩy chia sẻ
tài nguyên thông tin để cùng thu lợi nhuận cao hơn. Để tránh bị xâm phạm, mỗi cá
nhân phải tự bảo vệ mình thơng qua các phần mềm, giải pháp bảo mật hiện có hoặc
gây áp lực lên các tổ chức quản lý để thực thi luật và quy định về an ninh mạng.

Xã hội nhiễu loạn - lượng thông tin lớn giúp bảo vệ quyền riêng tư

Một quan điểm khác là khi lượng thơng tin tăng lên nhanh chóng thì quyền
riêng tư trên internet càng được bảo vệ. Lý do là chi phí cho việc giám sát tăng lên,
gây khó khăn trong việc trích xuất dữ liệu.


Trong xã hội nhiễu loạn thông tin hiện nay, công chúng đang kỳ vọng nhiều
hơn về quyền riêng tư nhưng kỳ vọng cá nhân lại giảm. Không phải ai cũng có
khả năng bị đánh cắp thơng tin, nhưng bất kì ai cũng có thể là nạn nhân. Để
khơng bị theo dõi, người dùng nên sử dụng các công nghệ mã hố hoặc tương tự.
Điển hình như cơng nghệ mã hố HTTPS thường được sử dụng cho các website
tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử,… để bảo mật thông tin thanh toán trực
tuyến. Tuy nhiên, hiện nay HTTPS đã trở thành tiêu chuẩn bảo mật tối thiểu mà
các website doanh nghiệp cần đáp ứng. Giao thức này đảm bảo các thông tin lưu
truyền giữa máy khách và máy chủ không bị hacker đọc được.

17

1.4 Pháp luật và các quy định

1.4.1 Chính sách bảo mật toàn cầu

Từ lâu, Google đã bị lên án vì vấn đề bảo mật kém tại Hoa Kỳ và nhiều quốc
gia. Tuy nhiên, vào năm 2007, Peter Fleischer - đại diện đến từ Google, cho rằng
các chính sách bảo mật quốc tế hiện tại không bảo vệ người tiêu dùng một cách thoả
đáng. Đại diện Google đã đề nghị Liên Hợp Quốc thiết lập chính sách bảo mật
internet tồn cầu nhằm bảo vệ hiệu quả quyền riêng tư của người tiêu dùng và tối
thiểu hố những ảnh hưởng tiêu cực lên các trình duyệt web như Google. Tại thời
điểm đó, Google đang bị Liên minh châu Âu điều tra vì vi phạm các chính sách bảo
mật tồn cầu hiện có. Mỹ và Liên minh châu Âu có các chính sách bảo mật riêng
biệt, gây khó khăn cho các cơng ty như Google hoạt động tồn cầu mà khơng vi
phạm các chính sách. Google chỉ là một doanh nghiệp lớn điển hình, thu lợi nhuận
bằng cách cung cấp, phục vụ các sản phẩm trình duyệt web cho người dùng. Tuy
nhiên, điều khách hàng lo ngại nhất là chất lượng sản phẩm và quyền riêng tư của
họ. Các dữ liệu thu thập được từ các công cụ tìm kiếm cho phép các doanh nghiệp

theo dõi hành trình trực tuyến của người tiêu dùng, từ các trang web họ truy cập đến
các giao dịch được thực hiện. Điều này đặt ra vấn đề toàn cầu khi cả thế giới khơng
có một chính sách bảo mật chung và nhất quán.

1.4.2 Quy định về bảo vệ dữ liệu

Kể từ tháng 3 năm 2012, Liên minh châu Âu đã đề xuất bộ luật để giải quyết
vấn đề chính sách bảo mật tồn cầu. Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) là một
bộ quy định nhất quán được đề xuất trên toàn Liên minh châu Âu, bảo vệ người
dùng internet khỏi bị theo dõi và sử dụng dữ liệu cá nhân trái phép. Quy định này
bảo vệ quyền riêng tư người dùng theo hai cách chính: xác định rõ thuật ngữ "dữ
liệu cá nhân" và tăng hình phạt đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm quyền riêng tư
trực tuyến của người dùng.

Trong Điều 4(2) của bộ luật, định nghĩa về dữ liệu cá nhân được mở rộng đáng
kể, bao gồm bất kỳ thông tin trực tuyến nào được dùng để truy tìm một cá nhân.
Các hình phạt thích hợp được đề ra đối với hành vi vi phạm quyền riêng tư người
dùng tại Điều 77 và 79. Quy định bảo vệ dữ liệu cũng buộc các công ty phải chịu
trách nhiệm cho các vi phạm dựa trên hậu quả và mức độ nghiêm trọng. Trung tâm
Dân chủ & Công nghệ (CDT) đã đánh giá các đề xuất này một các chi tiết và chính
thức đưa ra phân tích vào ngày 28 tháng 3 năm 2012. Trung tâm Dân chủ & Công
nghệ là một tổ chức phi lợi nhuận, ủng hộ sự tự do và quyền riêng tư trên internet
thơng qua chính sách cơng của chính phủ. Các phân tích trên đã thu thập ý kiến của

18

công chúng trước khi đưa ra phán quyết. Hai vấn đề chính mà CDT phải giải quyết
trong q trình phân tích là các quy tắc thiếu linh hoạt trong việc xây dựng hồ sơ
người dùng trên cơ sở lịch sử sử dụng mạng và chính sách liên quan đến kiểm sốt
thơng tin trực tuyến của trẻ em.


1.4.3 Quyền riêng tư trên Internet tại Việt Nam

Đáp ứng được mối lo ngại đó, trong những thập niên gần đây, pháp luật ở
nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập các chuẩn mực về việc tiếp cận, sử dụng
TTCN trong các giao dịch giữa cá nhân với doanh nghiệp hoặc giữa cá nhân với các
cơ quan công quyền. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “TTCN” đã được nhắc tới trong Luật Dược năm 2005
và yêu cầu bảo mật “TTCN” trong lĩnh vực hàng không đã được đề cập trong Luật
Hàng không dân dụng năm 2006. Tuy nhiên, các quy định cụ thể về bảo vệ TTCN
chỉ thực sự xuất hiện trong Luật Công nghệ thông tin năm 2006 (Luật CNTT). Mặc
dù vậy, Luật CNTT chỉ quy định việc bảo vệ TTCN trên môi trường mạng chứ
không quy định chung cho việc bảo vệ TTCN. Theo quy định của khoản 1 Điều 21
Luật CNTT, tổ chức, cá nhân “ thu thập, xử lý và sử dụng TTCN của người khác
trên môi trường mạng phải được người đó đờng ý trừ trường hợp pháp ḷt có quy
định khác”. Khi thu thập, xử lý và sử dụng TTCN của người khác, chủ thể thực hiện
hành vi này có trách nhiệm: “

a) Thơng báo cho người đó biết về hình thức, phạm vi, địa điểm và mục đích
của việc thu thập, xử lý và sử dụng TTCN của người đó;

b) Sử dụng đúng mục đích TTCN thu thập được và chỉ lưu trữ những thông tin
đó trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật hoặc
theo thoả thuận giữa hai bên;

c) Tiến hành các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm TTCN không
bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi hoặc phá huỷ;

d) Tiến hành ngay các biện pháp cần thiết khi nhận được yêu cầu kiểm tra lại,

đính chính hoặc hủy bỏ theo quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này;
không được cung cấp hoặc sử dụng TTCN liên quan cho đến khi thơng tin đó
được đính chính lại.”

Ngoại lệ cho việc thu thập, xử lý và sử dụng TTCN của người khác mà không
cần sự đồng ý của người đó được đặt ra “Trong trường hợp TTCN đó được sử dụng
cho mục đích sau đây:

19

a) Ký kết, sửa đổi hoặc thực hiện hợp đồng sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch
vụ trên mơi trường mạng;

b) Tính giá, cước sử dụng thông tin, sản phẩm, dịch vụ trên môi trường mạng;

c) Thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”

Khoản 1 Điều 22 Luật CNTT quy định quyền của chủ thể thông tin trong việc
kiểm tra, yêu cầu đính chính hoặc hủy bỏ TTCN do chủ thể khác lưu trữ. Theo đó,
“cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân lưu trữ TTCN của mình trên mơi
trường mạng thực hiện việc kiểm tra, đính chính hoặc hủy bỏ thơng tin đó”. Khoản
2 Điều 22 Luật CNTT quy định “tổ chức, cá nhân không được cung cấp TTCN của
người khác cho bên thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự
đồng ý của người đó”. Thêm vào đó, “cá nhân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại do hành vi vi phạm trong việc cung cấp TTCN”.

Có thể nói rằng, các quy định kể trên hàm ý rằng, việc “thu thập, xử lý, sử
dụng, chuyển nhượng TTCN” của bất cứ tổ chức, cá nhân nào trên mơi trường
mạng đều phải bảo đảm u cầu về “tính hợp pháp”. Chủ thể TTCN có một số
quyền nhất định đối với tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý, sử dụng và chuyển nhượng

TTCN.

Điểm đáng nói là, Luật CNTT chỉ mới khẳng định các nghĩa vụ và ràng buộc
pháp lý kể trên đối với việc thu thập, xử lý, lưu trữ, chuyển nhượng TTCN trên mơi
trường mạng. Do đó, đạo luật này để lại một khoảng trống pháp lý đối với việc bảo
vệ TTCN không ở trên môi trường mạng (tức là ở mơi trường vật lý - mơi trường
offline). Thêm vào đó, thuật ngữ “chủ thể TTCN” hoặc chủ thể dữ liệu (data
subject) chưa được sử dụng trong đạo luật này.

Trên cơ sở quy định của Luật CNTT, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của cơ quan nhà nước. Nghị định này lần đầu tiên có quy định tại khoản 5 Điều 3
giải thích “TTCN” là “thơng tin đủ để xác định chính xác danh tính một cá nhân,
bao gờm ít nhất nội dung trong những thông tin sau đây: họ tên, ngày sinh, nghề
nghiệp, chức danh, địa chỉ liên hệ, địa chỉ thư điện tử, số điện thoại, số chứng minh
nhân dân, số hộ chiếu. Những thơng tin thuộc bí mật cá nhân gờm có hờ sơ y tế, hờ
sơ nộp thuế, số thẻ bảo hiểm xã hội, số thẻ tín dụng và những bí mật cá nhân khác”.

Tiếp nối quy định này, các quy định về bảo vệ TTCN còn được quy định trong
Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 về “bảo vệ thông tin của người tiêu dùng”
(Điều 6). Theo quy định này, người tiêu dùng được bảo đảm an tồn, bí mật thông

20


×