Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Isds men report summary vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.95 MB, 38 trang )

SUPPORTED BYHà Nội
2020
Nam giới và Nam tính

trong một Việt Nam hội nhập

NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH TỪ CUỘC NGHIÊN CỨU
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BÌNH ĐẲNG GIỚI

Nhà xuất bản
Phụ nữ Việt Nam


Hà Nội Nam giới và Nam tính
2020
trong một Việt Nam hội nhập

NHỮNG PHÁT HIỆN CHÍNH TỪ CUỘC NGHIÊN CỨU
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BÌNH ĐẲNG GIỚI

2 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

Mục lục

3 Lời nói đầu

5 Tóm tắt

6 Những phát hiện chính

8 Giới thiệu



9 Những khái niệm cơ bản

10 Phương pháp

10 Hạn chế của cuộc nghiên cứu

11 Những phát hiện chính

12 Phát hiện 1: Hình mẫu “người đàn ơng đích thực” củng cố những chuẩn mực nam tính

truyền thống vốn duy trì ưu thế của nam giới so với phụ nữ.

14 Phát hiện 2: Các chuẩn mực nam tính truyền thống có tác động tiêu cực đến nam giới.

16 Phát hiện 3: Nam giới còn giữ nhiều chuẩn mực mang định kiến giới, cản trở quyền

năng của phụ nữ và biện minh cho sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới.

20 Phát hiện 4: Nam thanh niên thuộc thế hệ thiên niên kỷ ở đô thị là những tác nhân của

“lệch chuẩn tích cực”.

29 Phát hiện 5: Đại dịch COVID-19 có thể tác động đa dạng đến nam tính và bình đẳng giới.

31 Kết luận

33 Tài liệu tham khảo

HỘP VÀ HÌNH


12 Hộp 1: Những tiêu chí truyền thống về một “người đàn ơng đích thực” đã kép lùi nam giới và bình
đẳng giới

14 Biểu đồ 1: Áp lực giảm theo độ tuổi nhưng tăng theo trình độ học vấn và thời gian làm việc
15 Biểu đồ 2: Nam giới trẻ tuổi hơn có nhiều cảm xúc tiêu cực hơn
16 Biểu đồ 3: Nam giới thực hiện những hành vi nguy cơ
17 Biểu đồ 4. Các chuẩn mực giới trong quan niệm của nam giới
19 Biểu đồ 5: Suy nghĩ của nam giới về giả định phân chia tài sản cho con cái
20 Biểu đồ 6: Phân công lao động giữa chồng/vợ
21 Biểu đồ 7: Tỷ lệ chia sẻ việc nhà trong gia đình chia theo độ tuổi và theo nơi sống
22 Biểu đồ 8: Quyết định về các chi tiêu hàng ngày và các chi tiêu lớn của gia đình
22 Biểu đồ 9: Tỷ lệ chia sẻ các quyết định trong gia đình chia theo các nhóm tuổi và khu vực
23 Biểu đồ 10: Sở hữu tài sản trong gia đình
24 Biểu đồ 11: Tỷ lệ sở hữu bất động sản trong gia đình chia theo nhóm tuổi và theo khu vực
25 Biểu đồ 12. Tình trạng bạo hành giữa vợ chồng/ bạn tình
25 Biểu đồ 13: Tình trạng bạo lực giữa hai vợ chồng/bạn tình chia theo các nhóm tuổi
28 Hộp 2: Lệch chuẩn tích cực của thế hệ thiên niên kỷ về nam tính và bình đẳng giới

Lời nói đầu 3

Lời nói đầu

Australia coi việc thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ
nữ là một khía cạnh quan trọng trong quan hệ đối tác với Việt
Nam. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong những
năm gần đây trong việc thúc đẩy vị thế và quyền của phụ nữ trên
toàn quốc. Chỉ riêng trong thập kỷ qua, Việt Nam đã công bố các
mục tiêu chiến lược và khung pháp lý đầu tiên để thúc đẩy tiến
độ hướng tới bình đẳng trong lãnh đạo và kinh tế, cũng như giải

quyết tình trạng bạo lực trên cơ sở giới. Việt Nam đã tận dụng
triệt để đường lối ngoại giao đa phương của mình để thực hiện
các nghị quyết quan trọng về phụ nữ, hịa bình và an ninh, và
tiến hành các chiến dịch truyền thông để nâng cao nhận thức về
bình đẳng giới.

Tuy nhiên, trên toàn cầu, đại dịch COVID-19 diễn ra năm 2020 đã nhấn mạnh tình trạng phân
biệt đối xử trên cơ sở giới trong các hoạt động kinh tế và cũng như trong gia đình. Đại dịch đã
làm nổi bật tình trạng cơng việc của phụ nữ như là “lực lượng lao động thứ cấp” trong các hộ
gia đình, trong đó nhiều phụ nữ làm việc bán thời gian và khơng có bảo hiểm xã hội. Việc đóng
cửa trường học và các biện pháp “cách ly tại nhà” cũng góp phần làm tăng thêm cơng việc chăm
sóc khơng được trả lương của phụ nữ trong gia đình. Trong thời kỳ khủng hoảng, các ứng phó
truyền thống có xu hướng trở nên phổ biến, và những ứng phó này có thể đặt ra thách thức
đối với nhiều thành tựu đã đạt được liên quan đến vị thế và vai trò của phụ nữ trong xã hội.
COVID-19 đã nhấn mạnh rằng giữa nam và nữ cần tiến hành thương thảo nhiều hơn để đạt
được bình đẳng giới.

Do đó, Chính phủ Australia rất vui mừng hỗ trợ Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS) tại
Việt Nam triển khai một nghiên cứu quan trọng “Nam giới và nam tính tại Việt Nam trong bối
cảnh tồn cầu hóa”, do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia Việt Nam đồng tài trợ.
Australia hỗ trợ nghiên cứu này thông qua Chương trình “Đầu tư cho phụ nữ” (Investing in
Women) – một dự án nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc thúc đẩy quyền tự chủ
về kinh tế cho phụ nữ ở Đơng Nam Á.

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu quan niệm của nam giới về bình đẳng giới và những kỳ vọng xã
hội. Nghiên cứu được tiến hành đúng vào thời điểm rất quan trọng.

Đây là nghiên cứu quy mô lớn đầu tiên về nam giới và nam tính ở Việt Nam, được thực hiện
với hơn 2.500 nam giới trong độ tuổi lao động sống ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Khánh
Hịa và Hịa Bình.


4 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

Nghiên cứu đặt ra một số câu hỏi quan trọng: Nam giới Việt Nam nghĩ gì về bình đẳng giới? Các
chuẩn mực và định kiến xã hội về nam tính ảnh hưởng như thế nào đến các hành động của nam
giới? Các phát hiện này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về: cách thức các chuẩn mực và định kiến
này định hình các kỳ vọng của xã hội đối với nam giới Việt Nam, điều này ảnh hưởng như thế
nào đến suy nghĩ, hành vi và hành động của nam giới đối với phụ nữ trong các hoạt động kinh
tế, bình đẳng giới và các cơ hội kinh tế cho phụ nữ.

Một điều quan trọng là nghiên cứu này cũng xác định các cơ hội để tạo ra những thay đổi tích
cực. Đơ thị hóa, các thành tựu giáo dục và các điều kiện kinh tế được cải thiện đều có thể dẫn
đến những thay đổi các chuẩn mực giới. Điều này có thể giúp đảm bảo rằng quan niệm, nhận
thức về nam tính khơng ngăn cản phụ nữ hoặc nam giới phát huy tối đa những tiềm năng của
họ. Nghiên cứu này sẽ có những đóng góp quan trọng về mặt chính sách và can thiệp, giúp cải
thiện chất lượng cuộc sống cho cả nam giới và phụ nữ, đồng thời thúc đẩy những nỗ lực chung
để tăng cường bình đẳng giới và thúc đẩy quyền tự chủ về kinh tế cho phụ nữ ở Việt Nam.

Bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia tại Việt Nam

Tóm tắt

Tuy Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thúc đẩy bình đẳng giới
nhưng phân biệt đối xử trên cơ sở giới và những khoảng cách giữa hai giới vẫn còn tồn tại trong
nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Để thay đổi thực tế này , chúng ta cần phải có những cách tiếp
cận mới hướng tới cả phụ nữ và nam giới (chứ khơng chỉ hướng tới phụ nữ) và cần có những
chính sách và các chương trình xã hội nhằm thay đổi các chuẩn mực giới và hành vi của nam
giới đồng thời tiếp tục các nỗ lực nâng cao quyền năng của phụ nữ.
Cùng đóng góp vào việc xây dựng các chính sách và chương trình xã hội theo cách tiếp cận mới,
Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội đã triển khai dự án nghiên cứu nhằm có được sự hiểu biết

tốt hơn về nam giới, nam tính và những chuẩn mực giới mà đã và đang hạn chế quyền năng của
phụ nữ và nam giới và cản trở các nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới. Với tài trợ của Quỹ Phát triển
Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) và Chương trình Đầu tư cho Phụ nữ (Investing
in Women – IW) - một sáng kiến của Chính phủ Úc, nghiên cứu đã được thực hiện với tổng số
2567 nam giới trong độ tuổi 18 -24 sống tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hịa và
Hịa Bình trong hai năm 2018 và 2019.
Khung lý thuyết của nghiên cứu này dựa trên hai trụ cột là lý thuyết - kiến tạo xã hội và lý thuyết
nữ quyền. Nhân dạng nam giới được xã hội định hình thơng qua một q trình tương tác văn
hóa phức tạp, trong đó nam giới học hỏi các kịch bản giới phù hợp với nền văn hóa của mình

6 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

và họ điều chỉnh những kịch bản đó để khiến chúng được chấp nhận. Nam giới không chỉ khác
biệt với phụ nữ và các giới khác, mà họ còn khác nhau bởi vì nhân dạng của họ được kiến tạo
từ tương tác của yếu tố giới và các chiều cạnh khác như nhân khẩu học, kinh tế-xã hội, văn hóa
và chính trị. Do vậy, trải nghiệm nam tính là không đồng nhất và không phổ quát cho mọi nam
giới trong xã hội. Các nhóm nam giới khác nhau trải nghiệm và thực hành các phiên bản nam
tính khác nhau, và sự khác nhau giữa các phiên bản có thể rất lớn, nó phụ thuộc vào bối cảnh
kinh tế-xã hội và chính trị của nơi họ sống, phụ thuộc vào các giai đoạn khác nhau trong cuộc
đời của họ.

Những phát hiện chính

Phát hiện 1: Hình mẫu “người đàn ơng đích thực” củng cố những chuẩn mực nam tính
truyền thống, là những chuẩn mực đã duy trì ưu thế của nam giới so với phụ nữ.

Hình mẫu “người đàn ơng đích thực” đã “gia cố” nhiều chuẩn nam tính truyền thống vốn
duy trì quan niệm phổ biến về nam giới và ưu thế của họ đối với phụ nữ. Nam giới cho rằng
người đàn ơng đích thực phải là trụ cột của gia đình và là người lãnh đạo trong xã hội.


Phát hiện 2: Các chuẩn mực nam tính truyền thống tác động tiêu cực đến nam giới.

Nhiều chuẩn mực nam tính có thể dẫn tới những trơng đợi quá lớn cũng như những khắc
chế đối với bản thân người đàn ông và người khác. Phân tích sâu hơn những phát hiện của
cuộc nghiên cứu cho thấy một người đàn ơng càng có nhiều chuẩn nam tính truyền thống
thì người đó càng có nhiều hành vi kiểm soát/bạo lực đối với vợ/ bạn tình của mình.

Phát hiện 3: Nam giới còn giữ nhiều chuẩn mực mang tính định kiến giới, cản trở quyền
năng của phụ nữ và biện minh cho sự phân biệt trên cơ sở giới.

Những chuẩn mực giới thiên lệch vẫn còn rất phổ biến trong suy nghĩ của nam giới về
nam giới và phụ nữ. Cứ 3 người nam giới thì có 2 người cho rằng phụ nữ nói chung khơng
có khả năng làm việc như nam giới. Trong suy nghĩ của nam giới Việt Nam, vai trò chủ
yếu của phụ nữ là chăm sóc và làm việc nhà, phụ nữ khơng có khả năng làm việc dưới áp
lực cao, và không đủ năng lực trở thành người lãnh đạo, phụ nữ phải ưu tiên gia đình và
hy sinh cho hạnh phúc của gia đình. Về thực chất, những quan niệm này củng cố ưu thế
và đặc quyền của nam giới đối với phụ nữ, hạn chế các cơ hội nâng cao quyền tự chủ về
kinh tế của phụ nữ và biện minh cho sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tại nơi làm việc
cũng như trong gia đình và ngồi xã hội.

Phát hiện 4: Nam thanh niên thuộc thế hệ thiên niên kỷ ở đô thị là những tác nhân của
“lệch chuẩn tích cực”.

Trong khi các chuẩn mực giới truyền thống được chấp nhận rộng rãi trong nam giới Việt Nam
thì nhóm nam giới trẻ tuổi, nam giới sống ở đơ thị, những người có học vấn cao và những
người tiếp cận nhiều hơn tới tồn cầu hóa có xu hướng ít chịu ảnh hưởng của những khuôn

1 Tham gia quá trình tồn cầu hóa được đo lường thơng qua việc sử dụng ngoại ngữ, trải nghiệm sống và làm việc ở nước ngoài, và
sử dụng internet.


Tóm tắt 7

mẫu truyền thống, khn mẫu nam tính cứng nhắc và những chuẩn mực mang tính định kiến
đối với phụ nữ. Thái độ của nhóm nam thanh niên thế hệ thiên niên kỷ ở đơ thị về nam tính,
về hơn nhân, gia đình, về phụ nữ và bình đẳng giới đang chuyển dịch theo hướng tích cực hơn.
Ví dụ, có 38,8% nam giới đơ thị trong độ tuổi 18-29 chia sẻ việc nấu ăn với vợ so với 24,4% nam
giới ở độ tuổi từ 60 trở lên. Ở vùng nông thôn, tỷ lệ này tương ứng là 29,4% so với 18,1%. Đây
là những dấu hiệu của lệch chuẩn tích cực so với phân cơng lao động giới truyền thống.

Phát hiện 5: Đại dịch COVID-19 có tác động đa dạng đến nam tính và bình đẳng giới.

Đại dịch COVID-19 đã tác động to lớn tới cả nam giới và phụ nữ nói riêng cũng như tới
bình đẳng giới nói chung. Những chuẩn mực phổ biến trói buộc nam giới vào vai trò
trụ cột của gia đình và giới hạn phụ nữ trong vai trị chăm sóc gia đình đã bị thách thức
nghiêm trọng trong thời gian xảy ra đại dịch. Một mặt, đây có thể là một cơ hội thay đổi
những chuẩn mực truyền thống về giới và nam tính theo hướng bình đẳng hơn, đặc biệt
đối với những nam thanh niên trẻ sống ở đơ thị. Mặt khác, đây có thể được nhìn nhận
như là một nguy cơ đối với những nam giới đang cưỡng lại sự thay đổi và có thể làm gia
tăng bạo lực trên cơ sở giới, tiếp tục làm suy yếu quyền năng của phụ nữ và kéo lùi tiến
trình bình đẳng giới. Một nghiên cứu gần đây với 303 phụ nữ đã kết hôn ở Hà Nội cho
thấy đại dịch COVID-19 đã làm gia tăng bạo lực gia đình3.

Thay đổi những chuẩn mực cứng nhắc về nam tính và mang
tính định kiến giới là điều cần thiết để đạt được bình đẳng
giới và quyền năng cho phụ nữ.

Những chuẩn mực truyền thống về nam tính và về giới đã ăn sâu trong nếp nghĩ của nhiều
nam giới Việt Nam. Những chuẩn mực này đã làm sai lệch nhận thức của nam giới, hạn chế
quyền năng của phụ nữ và góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng bất bình đẳng giới ở nhiều
lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Tuy vậy, những nam giới trẻ, nam giới sống ở khu vực đơ thị,

nam giới có học vấn cao hơn và nam giới tham gia nhiều hơn vào quá trình tồn cầu hóa có thái
độ nhìn nhận tích cực hơn về phụ nữ và bình đẳng giới. Thay đổi những chuẩn mực về giới và
về nam tính trong nam giới Việt Nam là điều cần thiết để có thể đạt được những tiến bộ toàn
diện và bền vững hơn trong việc nâng cao quyền năng của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới.

Bởi nam tính là kiến tạo xã hội, nên nam tính có thể thay đổi. Thay đổi những chuẩn mực cứng
nhắc về nam tính và những chuẩn mực mang tính định kiến giới đang tồn tại trong nam giới
Việt Nam cần được nhìn nhận như là một phần quan trọng trong nỗ lực tập thể để thúc đẩy
bình đẳng giới. Xã hội Việt Nam đang có một cơ hội để xác định lại hình mẫu “người đàn ông
đích thực” như là những người ủng hộ và thúc đẩy bình đẳng giới.

2 Thế hệ thiên niên kỷ (tiếng Anh: Millennial) được xác định là những người sinh trong giai đoạn 1981 – 1996 khi diễn ra những biến
đổi to lớn về kinh tế-xã hội và chính trị, như sự kiến khủng bố ngày 11/9; cuộc Đại suy thoái, và sự bùng nổ của internet với sự ra đời
của mạng xã hội như Facebook, YouTube và Tweeter. Ở Việt Nam, năm 1986 đã đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ chuyển đổi về kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội.

3 Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội và Đại học Y tế Công cộng Hà Nội, 2020. “Trong thời gian đại dich...tôi đã bị đánh suốt” – Kết quả
nghiên cứu về tác động của đại dịch COVID-19 tới bạo lực gia đình với phụ nữ tại Hà Nội, Việt Nam. Cuộc nghiên cứu được thực hiện từ
tháng 6 đến tháng 9/2020 với tài trợ của Văn phịng Đơng Nam Á của tổ chức Rosa Luxemburg Stiftung.

Giới thiệu

Những nỗ lực to lớn trong việc trao quyền năng cho phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt
Nam đã đem lại nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn chỉ chiếm một tỉ lệ
nhỏ trong các vị trí lãnh đạo ở các cấp, họ vẫn bị ‘gánh nặng kép’ ràng buộc và vẫn bị phân
biệt đối xử tại nơi làm việc, là nạn nhân của bạo lực trong gia đình và nơi công cộng. Để thay
đổi thực tiễn này, chúng ta cần một cách tiếp cận mới hướng tới cả phụ nữ và nam giới. Các
chính sách và chương trình xã hội phải thúc đẩy sự thay đổi các chuẩn mực giới và hành vi
của nam giới. Những chính sách và chương trình như vậy cần dựa trên những bằng chứng từ
nghiên cứu xã hội về nam giới và quan niệm của họ về phụ nữ và bình đẳng giới.


Tóm tắt 9

Để đóng góp vào việc xây dựng các chính sách đó , Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, với sự
tài trợ của Quỹ NAFOSTED và Chương trình đầu tư cho phụ nữ (Investing in Women) đã
thực hiện dự án nghiên cứu Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập. Đây là cuộc
khảo sát đầu tiên có quy mơ lớn về nam giới và nam tính ở Việt Nam. Cuộc khảo sát được
thực hiện trong hai năm 2018 -2019, với 2567 nam giới ở độ tuổi từ 18 đến 64 sống tại Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hịa và Hịa Bình. Mục đích của cuộc khảo sát nhằm: (1) góp
phần thu hẹp những khoảng trống đang tồn tại trong hiểu biết về nam giới và nam tính, và
(2) cung cấp bằng chứng cho việc thiết kế các chính sách và chương trình can thiệp với cách
tiếp cận lấy nam giới làm trung tâm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ.

Khung lý thuyết của nghiên cứu này dựa trên hai trụ cột chính. Trụ cột thứ nhất là lý thuyết
kiến tạo xã hội. Lý thuyết này cho rằng đối với những người sinh ra là nam, nhân dạng của
họ như là một người đàn ông sẽ phát triển trong q trình họ trưởng thành. Giới tính của họ
là nam nhưng nhân dạng người đàn ông được hình thành thơng qua một q trình phức tạp
của các tương tác văn hóa, trong đó họ học những kịch bản giới phù hợp với văn hóa của họ
và cố gắng điều chỉnh những kịch bản đó sao cho chúng được chấp nhận. Trụ cột thứ hai là lý
thuyết nữ quyền, theo đó sự khác biệt về giới tồn tại khơng chỉ giữa các giới mà cịn trong bản
thân mỗi giới. Nam giới không chỉ khác với phụ nữ và các giới khác, mà họ còn khác nhau bởi
nhân dạng của họ được hình thành từ sự tương tác của các yếu tố giới với các chiều cạnh khác
về nhân khẩu, kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị. Do vậy, trải nghiệm nam tính khơng thể
là đồng nhất và phổ quát đối với mọi nam giới trong xã hội. Các nhóm nam giới khác nhau
trải nghiệm và thực hành các phiên bản nam tính khác nhau, và sự khác nhau giữa các phiên
bản nam tính này có thể rất lớn và phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế-xã hội và chính trị nơi họ
sống, phụ thuộc vào các giai đoạn khác nhau của cuộc đời họ.

Những khái niệm cơ bản


Chuẩn mực giới quy định nam tính là gì, nữ tính là gì và nam giới và phụ nữ nên ứng xử như
thế nào trong cuộc sống hàng ngày, khuyến khích chấp nhận những hành vi đó như là bẩm sinh
tự nhiên và hợp thức hoá chúng trong những bối cảnh nhất định.

Nam tính là một mơ hình cụ thể của các hành vi hoặc thực hành xã hội có liên quan đến những
ý tưởng về cách nam giới nên ứng xử và vị trí của họ trong quan hệ giới. Cũng như nữ tính, có
nhiều loại nam tính khác nhau, chúng thay đổi theo thời gian và theo các bối cảnh khác nhau.4

Nam tính chủ đạo5 (hegemonic masculinity) là một kiểu nam tính “được đánh giá cao nhất” và
được lý tưởng hoá để biện minh cho sự thống trị của nam giới đối với phụ nữ nói chung và cho
phép một số nam giới đứng trên những nam giới khác.6

4 Robert W. Connell, “Understanding Men: Gender Sociology and the New International Research on Masculinities,” Social Thought &
Research 24, no. 1/2 (2001): 13–31.

5 Có tác giả dịch hegemonic masculinity là “nam tính bá quyền”
6 Connell, R. W., and James W. Messerschmidt. 2005. “Hegemonic Masculinity: Rethinking the Concept”. Gender and Society 19(6):

829-859. Accessed 20 July 2020. www.jstor.org/stable/27640853.

10 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

Phương pháp

Cuộc khảo sát sử dụng các phương pháp khác nhau bao gồm cả nghiên cứu định lượng và
định tính. Một phần của nghiên cứu định tính đã được thực hiện từ trước nhằm khám phá các
chủ đề chính và các chủ đề phụ và giúp thiết kế bảng hỏi của khảo sát định lượng.

Khảo sát định lượng đã phỏng vấn 2567 Hà Nội 574 (22.4%)
nam giới trong độ tuổi từ 18-64 tại Hà Nội, Hồ Bình 10 phỏng vấn sâu

thànhThành phố Hồ Chí Minh, Hịa Bình và 01 TLN nam
Khánh Hòa. Phương pháp chọn mẫu ngẫu 01 TLN cả nam và nữ
nhiên phân tầng được áp dụng để chọn mẫu
nghiên cứu. Công tác thu thập số liệu được 608 (23.7%)
tiến hành trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 phỏng vấn sâu
8 năm 2019. Mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài 02 TLN nam
khoảng 60 phút tại nhà riêng của người được 01 TLN nữ
lựa chọn hoặc địa điểm thích hợp nhằm đảm
bảo tính riêng tư và tạo sự thoải mái cho họ. Quần đảo
Hoàng Sa
Giai đoạn thứ hai của nghiên cứu định tính được
thực hiện và phân tích song song với nghiên cứu 2,567 nam giới 516 (20.1%)
định lượng nhằm thu thập được những thông tuổi từ 18 - 64 10 phỏng vấn sâu
tin sâu và đặc thù của các nhóm nam giới khác 01 TLN nam
nhau. Trung bình, mỗi cuộc phỏng vấn sâu và Khánh Hòa 01 TLN nữ
thảo luận nhóm tập trung được thực hiện với Tp Hồ Chí Minh
thời gian từ 90 đến 120 phút. Quần đảo
Trường Sa
Hạn chế của cuộc nghiên cứu
869 (33.8%)
10 phỏng vấn sâu
01 TLN nam
01 TLN nữ

* TLN: Thảo luận nhóm

• Nhóm nam ở độ tuổi trẻ nhất (18-24) tham gia trả lời phỏng vấn ít hơn so với cỡ mẫu ban
đầu vì một số người đi làm việc ở nơi khác hoặc không có mặt ở nhà vào thời điểm cuộc
khảo sát diễn ra. Điều này ảnh hưởng tới cấu trúc tuổi của mẫu khảo sát chung và do vậy
đã phần nào hạn chế tính khái quát của kết quả nghiên cứu.


• Cuộc khảo sát cũng gặp phải những hạn chế vốn có của các nghiên cứu xã hội nói chung,
như tỷ lệ báo cáo không đầy đủ và xu hướng trả lời “an toàn” cho phù hợp với các quan
niệm đạo đức - xã hội nói chung, đặc biệt là đối với những câu hỏi ở các chủ đề nhạy cảm
như bạo lực, tình dục và các hành vi nguy cơ.

Những
phát hiện chính

12 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

Phát hiện 1: Hình mẫu “người đàn ơng đích thực” củng cố
những chuẩn mực nam tính truyền thống vốn duy trì ưu thế
của nam giới so với phụ nữ.

Mẫu hình một người đàn ơng Việt Nam được mong muốn nhất (nam tính chủ đạo) được mơ
tả trong hình mẫu người đàn ơng đích thực. Theo quan điểm của nam giới trong mẫu nghiên
cứu, những phẩm chất được coi là phải có ở người đàn ơng đích thực bao gồm ít nhất 23 tiêu
chí thuộc bốn lĩnh vực trong cuộc đời của một người đàn ơng: sự nghiệp, năng lực và tính cách,
sinh lực và bổn phận với gia đình.

HỘP 1. Những tiêu chí truyền thống về một “người đàn ông đích thực” đã kéo lùi
nam giới và bình đẳng giới

Làm cơng việc có tay nghề cao

Như đã trình bày trong Hộp 1, người đàn ơng đích thực được trơng đợi là phải có một loạt các
tiêu chí nam tính truyền thống trong quan niệm phổ biến về thế nào là một người đàn ông. Về
sự nghiệp, người đàn ơng đích thực phải nỗ lực để trở thành Đảng viên, ưu tiên cho công việc,
trở thành người lãnh đạo và cố gắng phấn đấu để có vị trí cao trong hệ thống nhà nước. Về năng

lực và tính cách, người đàn ơng đích thực phải mạnh mẽ, chấp nhận mạo hiểm, và có quan hệ
xã hội rộng rãi. Về sinh lực, người đàn ơng đích thực phải có khả năng tình dục cao và có nhiều
kinh nghiệm tình ái, biết uống rượu bia và sẵn sàng sử dụng sức mạnh/bạo lực khi cần thiết để
bảo vệ danh dự của mình. Cuối cùng, về bổn phận đối với gia đình, người đàn ơng Việt Nam
đích thực phải là trụ cột của gia đình, lấy vợ, sinh con, ni sống gia đình và thờ cúng tổ tiên.
Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy những phát hiện thú vị về những đặc điểm chủ yếu
của người đàn ông đích thực. Phần lớn những người trả lời, bất kể độ tuổi, hoàn cảnh xuất thân
và địa bàn sinh sống, đều nhấn mạnh giá trị trọng tâm của một người đàn ơng đích thực, đó là
vai trị trụ cột gia đình.

Những phát hiện chính 13

Do vai trị trụ cột là một biểu tượng của nam tính đối với nam giới Việt Nam, nó có một giá trị
tinh thần mạnh mẽ và vì thế nó là bất di bất dịch. Những người đàn ông tham gia khảo sát xác
quyết rằng vai trị đó chỉ có thể do nam giới đảm nhận chứ không thể là phụ nữ.

Đàn ông bao giờ cũng là trụ cột của gia đình. Từ xưa đến nay vẫn thế.
Nam, 41 tuổi, Hà Nội

Người đàn ơng đích thực thì nói chung tồn bộ cơng việc của gia đình mình phải thể
hiện vừa là gương mẫu, vừa là trụ cột… [Hỏi: Trụ cột nghĩa là thế nào?] À, cái chuyện
đó rất đơn giản, mình làm chồng, làm cha mình phải nghĩ ra nguồn thu để nuôi sống gia
đình mình… cơng việc nặng nhọc gì đó mình phải đứng mũi chịu sào… đàn ông phải
là người quyết định chứ một tổ chức mà ai cũng làm giám đốc hết thì ai làm nhân viên?
[Hỏi: Có nên để cho vợ làm giám đốc?] Khơng được. [Hỏi: Tại sao?] Thì đã nói đàn ông
là trụ cột thì đàn ơng phải là người quyết định. [Hỏi: Thế phụ nữ không trụ cột được hả
anh?] Không, phụ nữ không trụ cột được.

Nam, 63 tuổi, Khánh Hồ


Gắn với vai trị trụ cột của gia đình là những đặc điểm và nghĩa vụ được kỳ vọng đối với một
người đàn ơng đích thực trong cả gia đình và xã hội.

Đích thực ở đây có nghĩa là người đàn ơng phải chăm lo được cho gia đình, phải có cơng
việc ổn định, nuôi dạy được con cái tốt, hiếu thảo với bố mẹ.

Nam, 28 tuổi, Hà Nội

Dám nghĩ dám làm có chí hướng thì mới có tiền. Phải biết quan tâm gia đình, có hiếu
với ba mẹ, chững chạc.

Nam, 27 tuổi, Khánh Hồ

Thậm chí nếu như người nam giới khơng thể đảm trách tốt vai trị kiếm tiền cho gia đình, người
đó vẫn là trụ cột và là người ra quyết định trong gia đình. Bản thân người phụ nữ đã thừa nhận
rằng mặc dù họ có thể kiếm tiền và gánh vác nhiều trách nhiệm hơn người chồng, vị trí trụ cột
gia đình vẫn thuộc về nam giới.

Trong gia đình em thì chồng em là trụ cột. Chồng dù không kiếm ra tiền bằng người đàn
bà nhưng vị trí của người đàn ơng vẫn cao hơn. Gia đình em, từ kinh tế đến đối nội, đối
ngoại, con cái đều đến tay em nhưng em vẫn coi trọng người đàn ơng vì trong gia đình
nếu vắng bóng người đàn ơng thì nó khác. Các quyết định trong gia đình vẫn cần phải
hỏi ý kiến.

Thảo luận nhóm nữ, Hồ Bình

14 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

Tuy nhiên, phân tích định lượng của chúng tơi cho thấy có những biến thể trong quan niệm về
hình mẫu người đàn ơng đích thực của các nhóm nam giới. Nam giới trẻ, nam giới sống ở khu

vực đô thị, nam giới có học vấn cao và nam giới tham gia nhiều vào tồn cầu hóa dường như có
ít quan niệm và những thực hành liên quan tới những chuẩn mực nam tính truyền thống, cứng
nhắc. Những nam giới nhiều tuổi hơn, nam giới tham gia tích cực vào các nhóm xã hội và nam
giới ủng hộ những chuẩn mực mang tính định kiến về giới, và những người có trải nghiệm về
bạo lực thời thơ ấu có quan điểm truyền thống hơn về người đàn ơng đích thực. Những nam
giới ủng hộ những chuẩn mực nam tính truyền thống thường có xu hướng kiểm soát/sử dụng
bạo lực đối với vợ/bạn tình của mình và ưa thích con trai hơn.

Phát hiện 2: Các chuẩn mực nam tính truyền thống có tác động
tiêu cực đến nam giới.

Các tiêu chí về người đàn ơng Việt Nam đích thực được đề ra quá cao buộc nam giới phải cố
gắng không ngừng để đạt được chúng. Cùng với quá trình thực hiện nhiệm vụ gần như bất khả
thi này, nam giới phải đối mặt với áp lực xã hội rất lớn khi phải tuân thủ những chuẩn nam tính
như vậy. Gắn với quan niệm nam giới là trụ cột gia đình, nam giới Việt Nam có xu hướng cho
rằng một trong những bổn phận trước nhất của họ là nuôi sống gia đình. Do vậy, có việc làm
được trả lương cao đã trở thành một biểu tượng quan trọng về nam tính.7
Thật vậy, tài chính và sự nghiệp được phát hiện là hai vấn đề gây áp lực lớn nhất cho nam giới
cả nông thôn và đô thị. Gần một phần tư nam giới tham gia khảo sát đã thừa nhận họ cảm thấy
áp lực trong cuộc sống, trong đó có hơn 80% cảm thấy bị áp lực về tình trạng tài chính, và gần
70% bị áp lực về sự nghiệp. Áp lực đối với nam giới có xu hướng giảm dần theo độ tuổi nhưng
lại gia tăng theo trình độ học vấn và với thời gian làm việc.

BIỂU ĐỒ 1. Áp lực giảm theo độ tuổi nhưng tăng theo trình độ học vấn và thời
gian làm việc

7 Christian Haywood and Mairtin Mac an Ghaill, Men and Masculinities: Theory, Research, and Social Practice (Open University Press:
Open Univ, 2003).

Những phát hiện chính 15


Áp lực nhất chắc là về tiền bạc. Vì độ tuổi này nhiều lúc nhìn bạn bè có cơ ngơi hơn
mình thì mình cũng áp lực. Khi so sánh bản thân mình với người khác thì muốn mình
bằng hoặc hơn.

Nam giới, 28 tuổi, Hà Nội

Những áp lực này có thể gây tác động bất lợi lên sức khỏe tâm thần của nam giới, đặc biệt là
nhóm nam giới trẻ và nam giới sống ở khu vực đơ thị, họ là những nhóm có tỷ lệ trải nghiệm
những cảm xúc tiêu cực cao hơn trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát. Đáng chú ý là có gần
3% số nam giới tham gia khảo sát có ý định tự tử, tỷ lệ này tăng tới 5,4% (tỷ lệ cao nhất) trong
nhóm nam giới ở độ tuổi 18-29. Một trong những lý giải cho hiện tượng này có thể là trong khi
nhóm nam nhiều tuổi hơn đã ổn định cuộc sống gia đình và sự nghiệp thì nhóm nam giới trẻ, áp
lực rất lớn về việc xây dựng gia đình và sự nghiệp, đặc biệt là khi mà khu vực đơ thị lại là nơi có
sự cạnh tranh mạnh hơn và chi phí cho cuộc sống đắt đỏ hơn. Theo một nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới về Việt Nam, tỷ lệ tự tử ở nam giới đã gia tăng trong những năm gần đây và cao
hơn gấp 3 lần tỷ lệ này ở phụ nữ.8

BIỂU ĐỒ 2. Nam giới trẻ tuổi hơn có nhiều cảm xúc tiêu cực hơn
(12 tháng trước thời điểm khảo sát) (% số nam giới có cảm xúc tiêu cực)

40
35 34,234,6

30

25

20
15 15,5 13,5 15 13,9

11,3 9,9 9,3 9,6
10 7,6 6,7 8,2 7,3

5 3,9

0

18-29 30-39 40-49 50-59 60+

Cảm thấy cô đơn và lạc lõng Cảm thấy thất vọng và chán nản Cuộc đời là một sự thất bại

Hơn nữa, để đối phó với những áp lực và tình trạng căng thẳng, nhiều nam giới Việt đã tìm đến
những thực hành có hại, trong đó hút thuốc lá, uống rượu bia là hai hành vi phổ biến nhất. Cứ
10 nam giới thì có 7 người hút thuốc lá và có 6 người đã từng uống tới say xỉn ít nhất một lần
trong đời.

8 Vietnam Suicide Rate 2000 – 2020. Accessed 5 August 2020. />
16 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

BIỂU ĐỒ 3. Nam giới thực hiện những hành vi nguy cơ (%)

80

70 67,7

60 55,3 58,2

50 48,4

40 34,4


30 24 23,4
19,5
20 17,7 8
1 0,7
10 9,1 8,7 8,1 Bị xử phạt 4,1
2,7 4,3 1,8 Sử dụng hành chính 1,9 0
chất kích
0 Ẩu đả với thích dạng Bị giam giữ
vật dụng ma túy vì phạm pháp
Hút thuốc Uống rượu/bia Cá độ/ gây sát
thương
đến say xỉn đánh bạc

Ít nhất một lần Dưới 5 lần trong 12 tháng trước Trên 6 lần trong 12 tháng trước

Phát hiện 3: Nam giới còn giữ nhiều chuẩn mực mang định
kiến giới, cản trở quyền năng của phụ nữ và biện minh cho sự
phân biệt đối xử trên cơ sở giới.

Một tỷ lệ cao nam giới đã nhập tâm các chuẩn mực giới thiên lệch (mang tính định kiến về giới),
phản ánh những mong đợi giới truyền thống về vai trò, giá trị, năng lực và khát vọng của nam
giới và phụ nữ.

Đáng chú ý là cứ 3 nam giới thì có đến 2 người tin rằng nam giới làm việc hiệu quả hơn phụ nữ,
đặc biệt là trong vai trò lãnh đạo. Một tỷ lệ đáng chú ý là hơn 92% số nam giới đồng ý với quan
niệm cho rằng “thiên chức của người phụ nữ là chăm sóc gia đình và là hậu phương vững chắc
cho chồng phát triển sự nghiệp”. Tương ứng, có hơn 82% nam giới cho rằng “phụ nữ nên ưu
tiên gia đình hơn là phấn đấu cho sự nghiệp”, “phụ nữ nên chịu đựng và hy sinh để giữ gìn hạnh
phúc gia đình” và hơn 84% nam giới đồng ý với ý kiến cho rằng phụ nữ nên làm những công

việc nhẹ nhàng và đơn giản. Những phát hiện này cho thấy nam giới tin rằng phụ nữ có năng
lực làm việc kém hơn đàn ông và phụ nữ nên hy sinh sự nghiệp của mình để chăm lo gia đình
và hỗ trợ cho sự thành công của người chồng.

Những phát hiện chính 17

BIỂU ĐỒ 4. Các chuẩn mực giới trong quan niệm của nam giới (% số nam đồng ý)

Năng lực Phụ nữ nên làm các công việc nhẹ nhàng, đơn giản 84,4
82,7
Phụ nữ nên ưu tiên chăm sóc gia đình 68,4
hơn là phấn đấu cho sự nghiệp 68,1

Phụ nữ thường cảm tính, khơng nhất qn
trong công việc

Nam giới làm lãnh đạo tốt hơn phụ nữ

Nam giới làm chính trị thì phù hợp hơn phụ nữ 66,7

Phụ nữ khơng có khả năng làm việc dưới áp lực cao 64,5

Nam giới làm việc hiệu quả hơn phụ nữ 64,2

Mối quan hệ và gia đình Nam giới là bờ vai che chở cho người phụ nữ của mình 94,5
95
Tình dục Nam giới làm việc nhà là giúp đỡ phụ nữ 92,8
Thiên chức của phụ nữ là chăm sóc cho gia đình, 82,7
làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp của chồng 72,7
68,4

Phụ nữ nên chịu đựng và hy sinh 61
để giữ gia đình hạnh phúc
78,7
Khi đã kết hơn người vợ phải dành hết tâm trí 71,6
cho gia đình nhà chồng 63,9
58,7
Chồng/bạn trai nên là người đưa ra quyết định chính 52,8
47,5
Vợ/người yêu không nên trang điểm và ăn mặc nổi bật 27,6
để tránh thu hút sự chú ý của người khác giới 26,8
12,7
Đàn ơng khó kiềm chế ham muốn tình dục hơn phụ nữ

Đàn ơng có ham muốn tình dục mạnh hơn phụ nữ

Đàn ông tán tỉnh, trêu ghẹo phụ nữ là chuyện bình thường

Vợ/người yêu nên chiều chồng/bạn trai của mình
nếu người đó muốn quan hệ tình dục

Đàn ông có nhiều bạn tình là điều bình thường
Phụ nữ phải thế nào

thì mới bị quấy rối và xâm hại tình dục

Đàn ơng ngoại tình là chuyện có thể hiểu
và chấp nhận được

Phụ nữ có nhiều bạn tình là điều bình thường


Phụ nữ ngoại tình là chuyện có thể hiểu
và chấp nhận được

18 Nam giới và Nam tính trong một Việt Nam hội nhập – Những phát hiện chính và hàm ý đối với Bình đẳng giới

Ví dụ dưới đây cho thấy rõ ràng cách đàn ơng cho rằng mình có năng lực hơn phụ nữ mà không
nhận ra rằng đó là bất bình đẳng giới.

Nói chung mình khơng phải là trọng nam khinh nữ gì cả nhưng người phụ nữ thì nói
chung là … khơng bằng được người đàn ơng. Mình làm được 10 thì họ chỉ có 8 thơi. Họ
cũng đảm đang và cũng làm được việc nhưng có cái khơng bằng được.

Thảo luận nhóm nam, Hồ Bình

Nói về phụ nữ đầu tiên là nữ công gia chánh tốt, đảm đang thu vén gia đình, rồi thương yêu
chồng con, rồi mới đến công việc xã hội.

Một người vợ tốt trước hết phải là một người nội trợ giỏi, tiếp theo là phải yêu thương
chồng con, sau đó mới là có một công việc tốt.

Nam, 43 tuổi, Hà Nội

Phụ nữ lớn lên lấy chồng rồi phải theo chồng [...] Phụ nữ phải yêu thương chồng và gia
đình nhà chồng, và phải làm nội trợ giỏi.

Nam, 32 tuổi, Khánh Hòa

Phân tích định lượng sâu hơn chỉ ra sự khác biệt giữa các nhóm nam giới khác nhau đối với các
chuẩn mực giới về nam giới và phụ nữ. Nam giới trẻ, nam giới có trình độ học vấn cao hơn,
nam giới sống ở khu vực đô thị và nam giới tham gia nhiều vào toàn cầu hóa có ít định kiến

hơn về cả phụ nữ và nam giới. Phân tích cũng chỉ ra mối liên quan giữa việc tiếp xúc với những
chuẩn mực giới thiên lệch khi còn nhỏ và việc tin vào những chuẩn mực đó ở nam giới trưởng
thành. Những nam giới khi còn nhỏ đã được dạy hoặc thường được nghe về các chuẩn mực giới
thiên lệch sẽ có xu hướng tuân thủ các chuẩn mực đó nhiều hơn khi họ trưởng thành. Ngoài ra,
những nam giới có những chuẩn mực giới thiên lệch về nam giới cũng có sự thiên lệch đối với
phụ nữ và ngược lại.

Những chuẩn mực giới thiên lệch một lần nữa thể hiện rõ ràng trong suy nghĩ của nam giới về
việc phân chia tài sản cho con trai và con gái của họ. Khi được hỏi một câu hỏi giả định về việc
chia tài sản trong trường hợp có cả con trai và con gái, chỉ 1% nam giới cho rằng cha mẹ nên
chia tài sản chỉ cho con gái hoặc chủ yếu cho con gái so với 12-23% nam giới cho rằng chỉ nên
chia hoặc chủ yếu chia cho con trai. Suy nghĩ như vậy đúng cho tất cả các loại tài sản từ đất đai,
nhà cửa cho đến công việc kinh doanh và tiền bạc của gia đình, và điều này chỉ ra rằng khi sinh
ra là phụ nữ thì đã có nghĩa là bị bất lợi về quyền sở hữu tài sản so với nam giới.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×