Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tiểu luận cuối kỳ môn văn học nhật bản đề tài tsurezure gusa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.29 KB, 41 trang )

lOMoARcPSD|38842354

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA NHẬT BẢN HỌC – HỆ CHẤT LƯỢNG CAO


TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN VĂN HỌC NHẬT BẢN
ĐỀ TÀI: TSUREZURE-GUSA - 徒然草

Nhóm 8 – Danh sách thành viên:

STT Họ và tên MSSV Chịu trách nhiệm
2156191069 Nhóm trưởng
1 Nguyễn Trần Phương Ngọc 2156191048 Thành viên
2156191089 Thành viên
2 Lê Hoàng Ngọc Châu 2156191072 Thành viên
2156191043 Thành viên
3 Phạm Trần Anh Thư 2156191063 Thành viên

4 Điểu Thị Huyền Nhung

5 Lâm Duy Anh

6 Hồ Ngọc Minh

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12 NĂM 2023

Downloaded by Yen Pham ()


lOMoARcPSD|38842354

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC .............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................3
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DÒNG VĂN HỌC ẨN SĨ (隠者文学)
................................................................................................................................ 4

1.1 Dòng văn học ẩn sĩ (隠者文学).....................................................................4
1.2 Tác giả, tác phẩm .........................................................................................8
Tiểu kết chương 1.............................................................................................11
CHƯƠNG II: CẢM NHẬN MỘT VÀI ĐOẠN CỦA TÁC PHẨM BUỒN BUỒN
PHÓNG BÚT (徒然草) .......................................................................................12
2.1 Đoạn 75 .......................................................................................................12
2.2 Đoạn 79 .......................................................................................................17
2.3 Đoạn 92 .......................................................................................................20
2.4 Đoạn 137 .....................................................................................................24
Tiểu kết chương 2.............................................................................................31
CHƯƠNG 3: CẢM NHẬN CHUNG VỀ TÁC PHẨM VÀ DÒNG “VĂN HỌC
ẨN SĨ” TRONG THỜI TRUNG ĐẠI CỦA VĂN HỌC NHẬT BẢN...............32
3.1 Cảm nhận chung về tác phẩm ...................................................................32
3.2 Dòng văn học ẩn sĩ......................................................................................34
Tiểu kết chương 3.............................................................................................37
TỔNG KẾT .........................................................................................................38

Downloaded by Yen Pham ()


lOMoARcPSD|38842354

2

TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................40

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

3

LỜI MỞ ĐẦU
Văn học ẩn sĩ Nhật Bản là một thể loại văn học độc đáo và phát triển mạnh mẽ
trong thời Trung đại. Dòng văn học này đề cao cuộc sống thanh cao, thoát tục của
những người ẩn sĩ rời bỏ chốn phồn hoa, nhộn nhịp của đơ thị để tìm kiếm những
vắng vẻ, hoang sơ để sống cuộc đời an nhàn, tự tại. Văn học ẩn sĩ Nhật Bản đã góp
phần làm phong phú thêm nền văn học Nhật Bản. Nó thể hiện một tinh thần nhân
văn cao đẹp, một tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu cuộc sống ẩn sĩ. Trong tiểu luận
này, nhóm chúng tơi sẽ đọc và phân tích ba đoạn trích trong bài Tsurezuregusa (徒
然草) của nhà văn Yoshida Kenko (吉田 兼好) đồng thời nêu cảm nhận của nhóm
về bốn đoạn trích này. Từ những cơ sở đó chúng tơi sẽ đưa ra cảm nhận chung của
mình về dịng văn học ẩn sĩ Nhật Bản thời trung đại. Thông qua cảm nhận chung đó,
chúng ta sẽ hiểu hơn về sự độc đáo và đặc sắc mà văn học ẩn sĩ mang lại cho nền văn
học Nhật Bản thời bấy giờ. Đồng thời chúng ta cũng hiểu được tài hoa của những
người ẩn sĩ Nhật Bản, họ không chỉ là những nhà văn, nhà thơ tài năng, mà còn là
những tinh hoa tri thức mang trên vai mình trách nhiệm bảo tồn văn hóa và giáo dục
trong một thời đại chao lạc. Hơn nữa, việc phân tích và nêu cảm nhận về bốn đoạn
trích của tác giả Yoshida Kenko cũng đã thể hiện được nền kiến thức vô cùng thâm
sâu và phong phú của ơng, ơng cũng có cái nhìn nhạy bén về thiên nhiên, cái đẹp, có

những quan sát hết sức tinh tế và sâu sắc tâm lý của con người. Qua đó, chúng ta
thấy được dịng văn học ẩn sĩ là một dòng văn học giàu giá trị, mang đậm bản sắc
văn hóa Nhật Bản, góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học thế giới.

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

4

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DỊNG VĂN HỌC ẨN SĨ (隠者文学)

1.1 Dịng văn học ẩn sĩ (隠者文学)
Thời kỳ Kamakura (1185-1382), bởi sự thay đổi ý thức hệ của thời đại võ sĩ,

ảnh hưởng của nikki (nhật ký) và Nyoubou bungaku có phần giảm sút với thời Heian.
Hai thể loại là kiko (du ký) và zuihitsu (tùy bút) nổi lên và trở thành hai thể loại quan
trọng trong văn học Nhật Bản và đã khẳng định được một thế đứng riêng với các
phong cách riêng biệt. Hơn nữa, văn học Nhật Bản thời kỳ Trung thế kéo dài từ khi
Mạc phủ Kamakura đến khi Mạc phủ Tokugawa ra đời. Đây là thời gian chuyển giao
giữa thời đại quý tộc sang thời đại võ sĩ, ngoài ra các cuộc nội chiến cũng kéo dài
liên miên, do đó đây là thời kỳ văn học bị ảnh hưởng nhiều bởi sự bất ổn về chính
trị. Trong bối cảnh lịch sử đó, con người đã tìm đến Phật giáo như là một chỗ dựa
cho tinh thần. Họ bị ảnh hưởng bởi ý nghĩa về sự “vô thường” – “Vạn vật đều sẽ biến
đổi, khơng có gì tồn tại mãi mãi”. Hơn nữa, trong một thời nhiều tai ương và thiên
tai như vậy, lòng người sẽ mang nhiều nỗi bất an, bất mãn và phiền trách là điều dễ
hiểu. Một trong những phản ứng đó là bỏ đi tu để xa lánh hiện thực của cuộc đời.
Thêm vào đó, thời kỳ này bắt đầu xuất hiện các “ẩn sĩ”. Họ là những người thích
sống một mình ở những nơi xa rời trần thế, đi ở ẩn, kết cỏ dựng am trong núi sâu
hoặc lang thang du hành từ vùng này qua vùng khác. Họ xem cuộc đời này là vơ

thường, dốc lịng tu học Phật giáo, lấy sự thanh cao, đạm bạc nơi đời sống tu hành
làm niềm vui, viết những tác phẩm chính luận dựa trên ý niệm về sự “vơ thường” và
để lại những tác phẩm tùy bút nói lên chí hướng, kinh nghiệm bản thân. Đó là dịng
văn học ẩn sĩ mà người Nhật gọi là Inja bungaku (隠者文学). Trước đó đã có Saigyo
(1118-1190), Ton-A (1289-1372) là những văn hào ẩn sĩ có tiếng. Và nổi bật trong
những nhà văn ẩn sĩ thời kỳ này phải kể đến là Kamo no Chousei với Houjouki và
Kenko với Tsurezure-gusa. Các văn nhân ẩn sĩ xa rời thế tục, sống độc lập nên thi ca
và văn chương của họ cũng có phong vị u nhàn tịch mịch. Dòng văn học ẩn sĩ là điểm

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

5

đặc thù của văn học thời trung cận đại, trong khi dòng văn học nyoubou bungaku là
đặc trưng cho thời trung cổ và văn học người kẻ chợ (chounin bungaku) là đại diện
cho thời cận đại.

Để hiểu rõ hơn về dòng văn học ẩn sĩ, đầu tiên cần phải hiểu ẩn sĩ là gì:

- Ẩn sĩ là những người đã rời bỏ hệ thống quý tộc và các gia đình samurai để
sống ẩn dật và khoác áo tu sĩ. Hầu hết họ sống trong các ẩn thất ở các ngôi làng miền
núi, nhưng cũng có một số ở thành phố và vẫn duy trì các mối quan hệ với thế tục.
Họ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo và triết học Tịnh Độ, và các tác phẩm của
họ mang tính phê phán sâu sắc.

- Ẩn sĩ là những người sống ẩn dật. Đó là hành động cách ly và thốt ra khỏi
tập đồn, tránh sự xung đột. Xã hội đã có thể khống chế được các nhân, nhưng bên
trong, cá nhân vẫn tìm cách kháng lại để giữ được sự tôn nghiêm của mình. Khi muốn

làm chủ hồn tồn được mình thì chỉ có cách thốt hẳn ra ngồi xã hội. Thế nhưng
khi thốt ra thì đều phải nếm trải biết bao nhiêu cô đơn và thống khổ.

- Người ta lánh đời vì nhiều lý do. Thế nhưng cơ bản vẫn là lý do có tính triết
học một khi họ đã cho cuộc đời là một cõi vơ thường. Chỉ có sự cách ly với đời mới
giúp ta tìm ra bản ngã. Cho nên ẩn dật là vừa vứt vỏ xã hội và dập tắt thất tình lục
dục.

- Để hiểu được dòng văn học ẩn sĩ của thời Trung thế Nhật Bản, ta phải hiểu
tư tưởng lánh đời, thoát tục đã chi phối hành động của con người từ Đơng sang Tây,
tự cổ chí kim. Trong mấy nghìn năm, con người đã ràng buộc con người, cá nhân
cũng tự ràng buộc chính mình. Lánh đời chính là cắt gỡ một phần nào đó những ràng
buộc đó. Thiền học giúp người ta thoát khỏi sự ràng buộc bằng cách đưa họ về với
tình trạng của gỗ đá của thiền tọa để tìm ra sự đồng nhất của những mâu thuẫn tuyệt
đối và dẫn họ tới giác ngộ. Còn ẩn giả thì trong cơ độc, cố đi kiếm cái đẹp tịch liêu
của vạn vật và chân lý của cuộc đời.

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

6

- Người Nhật dùng chữ ẩn sĩ (inshi-隠士) nhưng thường gọi những kẻ lánh

đời là ẩn giả (inja-隠者). Họ chia các loại ẩn giả làm hai loại: Loại thứ nhất là những
người lánh đời, tu Phật nhưng không vào chùa và những người khơng lánh đời hồn
tồn. Loại thứ hai là những người vứt bỏ nghề nghiệp để chuyên tâm theo đuổi một
lĩnh vực nghệ thuật nào đó. Họ sống một đời tự do để có thể theo đuổi con đường
nghệ thuật của mình.


- Dịng văn học ẩn sĩ có thể vừa do những ẩn sĩ thuộc loại thứ nhất và loại thứ
hai viết ra nhưng không phải ẩn sĩ nào cũng muốn viết và có khả năng viết. Hơn nữa,
trong số các tác phẩm văn học của ẩn sĩ không chỉ có những tác phẩm trực tiếp liên
quan đến cuộc đời ở ẩn. Các tác phẩm thuộc loại chiến ký như Truyện Heike, Thái
Bình Ký, các tác phẩm thuộc loại du ký như Nhật Ký Đêm Mười Sáu, Du ký đường
biển,...đều do những người ở ẩn viết. Đó là văn học ẩn sĩ theo nghĩa rộng. Văn học
ẩn sĩ theo nghĩa hẹp mới là “văn chương của những người lánh đời viết về cuộc đời
ở ẩn” và như thế chỉ có Cảm nghĩ trong am (Houjouki) là gần với định nghĩa này
nhất, sau đó mới đến Buồn buồn phóng bút (Tsurezure-gusa) vì dù nội dung ca tụng
cuộc đời nhàn tĩnh nhưng vẫn nhắc nhiều đến thế tục.

Ba dạng thức ẩn sĩ tiêu biểu của Nhật Bản:
- Nhật Bản từ xưa cũng đã có nhiều ẩn sĩ, phần lớn là những nhà sư Phật. Ẩn
sĩ gắn liền với văn học có lẽ bắt nguồn từ Saigyo (1118-1243), một nhà sư du hành
cuối thời Heian và đầu thời Kamakura. Theo nhận xét của Ishida Yoshisada, dòng
văn học ẩn sĩ thời Trung thế Nhật Bản thể hiện chủ yếu dưới ba dạng thức: dạng
Saigyo, dạng Choumei và dạng Kenko. Dạng Saigyo chỉ chú trọng đến cái đẹp u
buồn của thiên nhiên (ẩn sĩ và du hành tăng), Choumei lấy cuộc sống nhàn tĩnh cá
nhân làm đối tượng (ẩn sĩ chốn lâm tuyền) còn Kenko tập tủng vào con người nói
chung (ẩn sĩ giữa thị thành).

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

7

- Kenko, ẩn sĩ giữa thị thành:
Nếu Choumei coi cuộc sống nhàn tĩnh thảo am là trên hết, thì một trăm năm

sau, Kenko tuy vẫn tiếp tục ngồi trong thảo am để mặc cho ngịi bút lơi cuốn mình
nhưng trung tâm suy nghĩ của ông không phải là bản thân cũng như bản thân cuộc
đời ẩn dật của mình. Ơng viết về cuộc sống bên ngoài cửa am, về những người mà
ơng giao du, từ những q tộc cung đình, giới quan liêu, tướng lĩnh, các tăng lữ và
cho đến cả thường dân trong xã hội.
Về mặt nghệ thuật, tuy Tsurezure-gusa khơng có nét thiên tài trong tuồng Nou
của Zeami, trong trà đạo của Rikyuu, trong triết lý Phật giáo của Dougen nhưng có
cái nhìn sắc bén và ngưng đọng, thấu suốt thực thể con người. Hơn thế, nó khơng cà
kê khơng dứt như Makura no Soushi của Sei Shounagon, cũng khơng có tham vọng
dạy dỗ người ta như Shasekishuu của tăng Mujuu. Nó chỉ nói vừa đủ và ngừng lại
ngay khi độc giả đã cảm thấy nói chừng đó là đủ.
“Điều kiện của ẩn sĩ là sự nhận thức về lẽ vơ thường, khuynh hướng tìm về cái
đẹp hay cầu đạo, u thích cuộc đời cơ độc u tịch, biết sống cảnh thanh bần. Bốn yếu
tố đã hội tụ đủ nơi Kenko. Khác chăng là ông không thương cảm, vịnh thán cảnh đời
vô thường như các tác giả đương thời nhưng ý thức về nó như một hiện thực. Đó là
quan niệm xem cuộc đời như một tuồng huyễn hóa, và nhờ đó, khơng sợ cái chết và
biết phản ứng tích cực hơn trước những sự đổi thay”. – Nguyễn Nam Trân.
Có thể nói rằng Kenko u thích con người trong mọi hình thái của nó, từ xấu
xa đến đẹp đẽ cao thượng. Ơng khơng chán đời, trái lại ông xem dục vọng của con
người là vũ khí để chống đối lại sức mạnh của vơ thường. Nếu có tỏ lịng thương
cảm, ơng cảm thương cho những nỗ lực khơng kết quả đó. Trong một chừng mực
nào đó, ta có thể nói ơng là người của một thứ chủ nghĩa hiện sinh dưới dạng sơ khai.

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

8

Cho đến thời của ông, chưa có một tác phẩm nào phong phú như Kenko trong lối

diễn ta vì nó đi từ hình thức dạy dỗ, khuyên bảo, phê bình, châm biếm cho đến
thuyết phục.

1.2 Tác giả, tác phẩm
a. Tác giả - Yoshida Kenko

Yoshida Kenko ( 吉田 兼好 ) tên thật là Urabe Kenko ( 卜部 兼好 ) sinh năm
1283 và mất 1350. Ơng xuất thân từ dịng họ nhiều đời làm chức quan giữ đền
Yoshida nên còn có tên là Yoshida Kaneyoshi.

Vào năm ông khoảng 20 tuổi, ông vào hậu cận quý tộc Horikawa, nhờ đó được
làm quan lục phẩm dưới đời thiên hoàng Go Nijo (1301-1308). Lúc Thiên hoàng
băng hà, ông xuất gia, lấy pháp danh là Kenko, lúc đó ơng mới trên dưới 30 tuổi.

Yoshida Kenko là người giỏi thơ waka và là nhà thơ waka thuộc trường phái
Nijo, môn hạ của Nijo Tameyo là một trong những người được người đời ca tụng là
Hòa ca Tứ Thiên vương (Bốn nhà thơ waka trụ cột), ông cũng là học giả cổ văn,
thông hiểu phép tắc nghi lễ cổ điển.

Ông giao thiệp thường xuyên với Tướng quân Ashikaga Takauji, nhiều võ
tướng và nhà thơ nổi tiếng khác.

Cuối đời ông về sống ở Marabigaoka bên cạnh chùa Ninnaji ở Kyoto.
Ơng cịn có tập thơ soạn riêng là Kenko Hoshi Kashu.
b. Tác phẩm Tsurezure-gusa
Tsurezure-gusa (徒然草, Buồn buồn phóng bút, Essays in Idleness hay cịn
được gọi là The Harvest of Leisure) là một bộ sưu tập các bài luận được viết bởi

Downloaded by Yen Pham ()


lOMoARcPSD|38842354

9

Yoshida Kenko trong khoảng từ năm 1330 và hồn thành vào khoảng năm 1331, lúc
đó có cuộc đảo chính Mạc phủ lần thứ 2 của Thiên hoàng Go Daigo. Tác phẩm được
coi là viên ngọc quý của văn học Trung thế Nhật Bản và là một trong ba tác phẩm
tiêu biểu của thể loại tùy bút (zuihitsu) cùng với Makura no Soushi (枕草子) của Sei
Shounagon và Houjouki (方丈記) của Kamo no Choumei.

Tsurezure-gusa bao gồm 243 đoạn văn, có độ dài khác nhau, từ một dòng đến
vài trang và độc lập với nhau. Nó cịn thể hiện đầy đủ các đặc trưng của thể loại tùy
bút, không nối kết các đoạn một cách gượng gạo. Tsurezure-gusa có lối văn phong
bình dị, trong sáng, cân đối và khơng hề thừa thãi.

Nội dung của tác phẩm nói về các thú vui thời kỳ vương triều và khảo sát về
các phong tục tập quán, nghi thức trong nếp sinh hoạt của người đời trước. Nội dung
còn bày tỏ thái độ ngưỡng mộ đối với văn hóa quý tộc cổ xưa đồng thời chú ý đến
những sự thay đổi của các giá trị đó.

Trong tác phẩm, Kenko đã đưa vào nhiều những giai thoại liên quan đến giới
quý tộc cung đình, các tăng nhân, chiến sĩ, nhà bn,... Hay trình bày các quan điểm
về cờ vây, nghệ thuật, nấu ăn, binh pháp, hoa cỏ chim chóc, gió trăng, ý nghĩa cuộc
đời, những u uẩn trong tâm lý của con người. Tác giả cịn khun người đọc nên tìm
ra cái đẹp trong lẽ vô thường, nếu đã ghét cái chết thì phải biết yêu thương cuộc sống.
Tác phẩm cũng đã thể hiện được Kenko là một người có kiến thức vơ cùng sâu rộng,
có cái nhìn nhạy bén về thiên nhiên, cái đẹp, có những quan sát hết sức tinh tế và sâu
sắc tâm lý của con người.

Cùng với Houjouki, Tsurezure-gusa được coi là đại biểu cho dòng văn học ẩn

sĩ. Tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Makura no Shoushi và chia sẻ với Houjouki
cái nhìn vơ thường về cuộc đời, con người.

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

10

Tsurezure-gusa được đánh giá là cao hơn Houjoki vì chủ trương chiêm nghiệm
cái đẹp trong sự biến đổi và được xem là điểm xuất phát của một quan niệm thẩm
mỹ mới, mujo no bi (cái đẹp của sự vô thường), đặc điểm của văn học trung cận đại
Nhật Bản.

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

11

Tiểu kết chương 1
Ở chương 1, nhóm đã đưa ra những khái quát cơ bản về dòng văn học ẩn sĩ

bao gồm: ẩn sĩ là gì; những dạng thức ẩn sĩ tiêu biểu. Khái quát về dòng văn học này
thì văn học ẩn sĩ là một dịng văn học giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Nó phản
ánh tâm tư, tình cảm của những người trí thức trong bối cảnh lịch sử đầy biến động,
đồng thời thể hiện vẻ đẹp tâm hồn thanh cao, tao nhã của người trí thức ẩn sĩ. Ở
chương này nhóm cũng đưa ra một số điều cơ bản về Yoshida Kenko (吉田 兼好) và
tác phẩm Tsurezuregusa (徒然草). Điều này sẽ là nền tảng để phân tích những ý
nghĩa trong tác phẩm Tsurezure-gusa ở chương 2.


Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

12

CHƯƠNG II: CẢM NHẬN MỘT VÀI ĐOẠN CỦA TÁC PHẨM BUỒN
BUỒN PHÓNG BÚT (徒然草)

2.1 Đoạn 75

第 75 段 つれづれわぶる人

何の用事もなくて独りでいるのが、 人間にとっては最高なのだ。

世の中のしきたりに合わせると、欲に振り回されて迷いやすい。

人と話をすると、ついつい相手のペースに合わせて自分の本心とは違
った話しをしてしまう。

世間との付き合いでは、 一喜一憂する事ばかりで、平常心を保つこ
とは出来ない。

あれこれ妄想がわいてきて、損得の計算ばかりする。

完全に自分を見失い、酔っぱらいと同じだ。 酔っ払って夢を見てい
るようなものだ。

せかせか動き回り、自分を見失い、ほんとうにやるべきことを忘れて

いる。 それは、人間誰にもあてはまることだ。

まだこの世の真理を悟ることはできなくとも、煩わしい関係を整理し
て静かに暮らし、世間づきあいをやめてゆったりした気持ちで本来の自分
を取り戻す。

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

13

これこそが、ほんの短い間でも、真理に近づく喜びを味わうといって
よいのである。

Đoạn 75: Những người khổ tâm vì ngồi không.
Tâm trạng của những người thở than sầu khổ vì tháng ngày trống rỗng, khơng
biết làm gì, nó ra sao nhỉ ? Trong hồn cảnh đó, (như trường hợp của ta thì nhờ) cái
tâm không bị ngoại vật chi phối nên ta sẽ bằng lịng với cảnh một thân một mình.
Nếu sống mà chạy theo người đời, tâm ta dễ bị những kích thích của ngoại
giới làm cho lầm lạc. Còn khi giao tiếp với người hay phải thổ lộ điều gì, cần phải
xem chừng để nói những điều người ta muốn nghe thành thử đâm ra lừa dối chính
mình. Đùa cợt hay tranh chấp với người đều dễ sinh ra vui buồn, hận thù, làm cho
lịng mình khơng được bình n. Cịn như suy nghĩ về việc được mất, đâm ra có
nhiều tính tốn so bì sẽ bị loạn tâm. Khi tâm trí đã loạn, ta (mất lý tính) giống như
kẻ say, và tình trạng say sưa sẽ dẫn đến mộng mị. Con người ta ai cũng vậy, cứ sống
ồ ạt mà khơng biết mình đang chúi mũi chạy theo cái gì thì sẽ đánh mất con người
thật của mình.
Người chưa hoàn toàn giác ngộ trên con đường tu Phật, nhưng biết lìa bỏ cám
dỗ trần tục, đem thân ra gửi nơi nhàn tĩnh, khơng cịn liên hệ đến việc đời, có được

tấm lịng bình thản, thì cho dù chỉ là trong thời điểm hiện tại, có thể nói là đã được
mãn nguyện.
Trong sách Maka Shikan đã có lời dạy : « Mưu sinh, thù tạc, tài nghệ, học thức
đều là đầu mối của sự mê lầm. Phải dứt bỏ ! ».

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

14

CẢM NHẬN

Đoạn viết trên thể hiện tình yêu của Yoshida Kenko dành cho “Tsurezure” (つ

れずれ), được viết ra để an ủi, xoa dịu nỗi buồn chán và cơ đơn của một cuộc sống
khơng có gì để làm.

Trước hết tác giả chỉ ra rằng, những người thấy buồn bã và bất mãn với cuộc
sống, đặc biệt là khi khơng có mục tiêu cụ thể hoặc khơng biết làm gì, thường là
những người đang theo đuổi theo những xu hướng và kỳ vọng của xã hội. Họ áp đặt
lên bản thân những khao khát về vật chất, danh vọng, và quyền lực. Điều này dẫn
đến tâm hồn của họ dễ bị ảnh hưởng bởi những kích thích từ bên ngồi, gây nên sự
lạc lõng và mất đi bình yên nội tâm. Cuộc sống dưới áp lực của những ham muốn và
dục vọng này là nguyên nhân chính khiến tâm trí họ bị lạc lối và cảm giác khó chịu.
Việc bị chi phối bởi những khao khát này dẫn đến những suy nghĩ và hành động tiêu
cực, tạo nên những trạng thái tinh thần đau khổ và gây phiền não không chỉ cho bản
thân mà còn ảnh hưởng đến người xung quanh. Tác giả đánh giá cao việc tự do tâm
hồn bằng cách lìa bỏ những áp lực và mong đợi từ xã hội, tập trung vào việc xây
dựng một cuộc sống có ý nghĩa và bình n trong những giây phút hiện tại. Điều này

giúp họ tránh xa khỏi những mối liên quan vơ nghĩa và tìm kiếm hướng đi đúng đắn,
mang lại hạnh phúc và sự mãn nguyện trong cuộc sống.

Tác giả cũng đặt ra rằng, những mối quan hệ xã hội và các tương tác với người
khác có thể là nguồn gốc của tâm trạng trống rỗng và đau khổ. Trong quá trình giao
tiếp với người khác, chúng ta thường phải chú ý để nói những điều mà người khác
muốn nghe, điều này có thể dẫn đến việc tự lừa dối, làm mất đi sự chân thành và
trong sáng của bản thân. Ngoài ra, những trải nghiệm như những cuộc vui chơi, mâu
thuẫn, và tranh chấp với người khác cũng có thể đưa ta vào trạng thái tâm lý vui buồn
khác nhau, gây ra cảm giác hận thù và làm cho tâm hồn khơng thể đạt được sự bình
n. Các mối quan hệ xã hội có thể tạo ra những biến động tâm trạng mà ta cần phải

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

15

đối mặt, và nếu không được quản lý chặt chẽ, chúng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến
tâm hồn và sự hòa hợp trong cuộc sống.

Để vượt qua tâm trạng trống rỗng và sầu khổ, tác giả nhấn mạnh rằng chúng
ta cần học cách sống tự do, không bị trói buộc bởi những yêu cầu về vật chất, danh
vọng, và quyền lực. Việc sống chân thành và trong sáng, không tự lừa dối, được coi
là yếu tố quan trọng để đạt đến tâm hồn bình yên. Hơn nữa, khả năng buông bỏ những
ham muốn và dục vọng cùng việc tạo ra những mối quan hệ xã hội lành mạnh cũng
là chìa khóa quan trọng. Bằng cách này, chúng ta có thể giảm bớt những áp lực khơng
cần thiết, tạo ra không gian cho sự tự do tâm hồn và đồng thời ngăn chặn những yếu
tố có thể gây xao lạc tâm trí.


Tác giả cũng đề cao lối sống nhàn tĩnh, không bị rối bời bởi những vấn đề và
thách thức trong cuộc sống. Lối sống này không chỉ giúp chúng ta đạt được tấm lịng
bình thản và an nhiên mà cịn hỗ trợ chúng ta vượt qua những phiền não và khổ đau
của cuộc sống. Bằng cách tập trung vào sự tĩnh lặng và không vướng bận vào những
vấn đề vụ lợi tạm thời, chúng ta có thể tạo nên một khơng gian tinh thần thanh thản
và bình n, giúp chúng ta đối mặt với thách thức một cách bình tĩnh và sâu sắc hơn.
Đoạn văn trên thể hiện quan điểm sống tích cực của tác giả, đẩy mạnh ý tưởng về sự
tự do, bình an, và hạnh phúc. Quan điểm này khơng chỉ là một triết lý cuộc sống mà
cịn mang theo ý nghĩa quan trọng trong việc giúp chúng ta vượt qua những khó khăn
và thử thách trong hành trình sống. Bằng cách tập trung vào lối sống nhàn tĩnh, không
vướng bận vào những vấn đề tạm thời, chúng ta có thể xây dựng một tâm hồn bình
an, giúp đối diện với cuộc sống một cách tích cực và mạnh mẽ hơn.

Nguyễn Bỉnh Khiêm, một trong những nhà thơ, nhà hiền triết nổi tiếng của
nền văn học Việt Nam cũng từng viết trong bài thơ “Nhàn” một câu thơ vô cùng nổi
tiếng rằng:

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

16

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao”

Ở hai câu thơ này, tác giả đã sử dụng hai hình ảnh đối lập: “nơi vắng vẻ” và
“chốn lao xao”. “Nơi vắng vẻ” là nơi thanh bình, tĩnh lặng, khơng ồn ào, náo nhiệt.
“Chốn lao xao” là nơi tấp nập, đông đúc, nhộn nhịp. Hai hình ảnh này tượng trưng

cho hai cách sống khác nhau. Tác giả tự nhận mình là “dại” vì chọn cách sống “nơi
vắng vẻ”. “Dại” ở đây khơng có nghĩa là khờ khạo, khơng biết suy nghĩ, mà là một
cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm để thể hiện sự khác biệt trong cách sống của mình
so với những người khác. Những người khác, họ cho rằng sống “chốn lao xao” mới
là khơn, bởi ở đó có thể tìm kiếm được danh lợi, quyền lực. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm
lại cho rằng sống “nơi vắng vẻ” mới là khôn, bởi ở đó có thể tìm được sự bình n,
thanh thản trong tâm hồn. Sống “nơi vắng vẻ” khơng có nghĩa là xa lánh xã hội, mà
là biết cách cân bằng giữa cuộc sống cá nhân và cuộc sống xã hội. Chúng ta vẫn cần
tham gia vào các hoạt động xã hội, nhưng cần biết cách giữ cho tâm hồn mình được
bình yên, thanh thản. Câu thơ đã thể hiện quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
coi trọng sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn hơn là danh lợi, quyền lực. Quan
niệm sống này có ý nghĩa sâu sắc, bởi nó giúp con người tránh được những phiền
não, khổ đau của cuộc đời. Lý tưởng trên của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thật giống
với Urabe Kenko, hay giống với Tsurezure của vị thiền sư Nhật Bản này.

Tôi vô cùng đồng ý với quan điểm của hai tác giả về lý tưởng sống cao đẹp
đó. Khi sống theo người đời, chạy theo những nhu cầu vật chất, danh vọng, quyền
lực, con người dễ bị những kích thích của ngoại giới làm cho lầm lạc, mất đi sự bình
n. Tơi cũng đồng ý với quan điểm của Kaneyoshi về cách vượt qua tâm trạng trống
rỗng, sầu khổ. Để vượt qua được những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, chúng
ta cần phải biết cách sống tự do, không bị ràng buộc bởi những nhu cầu vật chất,
danh vọng, quyền lực. Chúng ta cần phải biết cách sống chân thành, trong sáng,

Downloaded by Yen Pham ()

lOMoARcPSD|38842354

17

khơng lừa dối chính mình. Chúng ta cũng cần phải biết cách buông bỏ những ham

muốn, dục vọng, những mối quan hệ xã hội không lành mạnh.

Tuy nhiên, tâm trạng trống rỗng, sầu khổ không chỉ là tâm trạng của những
người sống theo người đời, chạy theo những nhu cầu vật chất, danh vọng, quyền lực.
Mà ngay cả những người sống chân thành, trong sáng, không bị ràng buộc bởi những
nhu cầu vật chất, danh vọng, quyền lực cũng có thể rơi vào tâm trạng này. Bởi vì,
cuộc sống vốn dĩ là một chuỗi những thăng trầm, biến động. Có những lúc, chúng ta
có thể gặp phải những khó khăn, thử thách, khiến ta cảm thấy chán nản, mệt mỏi,
thậm chí là tuyệt vọng. Để vượt qua tâm trạng trống rỗng, sầu khổ, chúng ta cần phải
có một bản lĩnh vững vàng, một tinh thần lạc quan, yêu đời. Chúng ta cần phải biết
cách đối mặt với những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, khơng được bng
xi, đầu hàng.

2.2 Đoạn 79

第 79 段 無能の能ということ

どんな場合でも、 よく知らないふりをするにかぎる。

立派な人間は、 知っていても知ったかぶりをしないものだ。

軽薄な人間に限って、 何でも知らない事はないといった返事をする。
だから、聞いている相手が圧倒されることもあるが、 本人自身が自分から
すごい思い込んでいるさまは、 どうにも救いがたい。

よく知っている方面については、口数少なく、 聞かれない限りは黙
っているのが一番である。

Downloaded by Yen Pham ()


lOMoARcPSD|38842354

18

Đoạn 79: Đừng tỏ ra ta đây rành rẽ.
Trước một vấn đề, cứ giữ thái độ không hiểu biết thấu đáo là tốt hơn cả. Người
lỗi lạc thì cho dù chuyện có nắm vững chăng nữa, cũng làm ra vẻ mình chỉ biết sơ
sơ.
Chính cái anh nhà quê mới bước chân ra từ hốc núi mới là kẻ khi bàn luận điều
chi, đối đáp như thể ta đây cái gì cũng biết, cái gì cũng rành. Vì là người dám lấy thái
độ như thế, chắc hẳn anh chàng cũng có tài cán về một phương diện nào đó đáng để
đời nể phục. Dù vậy, cái cách thức anh ta trình bày hiu hiu tự đắc về mình trơng thật
khó coi.
Gây ấn tượng tốt cho ta là loại người ăn nói thận trọng cho dù khi bàn về vấn
đề mình nắm rõ và khơng mở miệng nếu người khác không đặt câu hỏi.

CẢM NHẬN
Đôi khi trong cuộc sống này có những lúc chúng ta nói về một điều gì đó như
thể chúng ta biết rất nhiều về nó. Và tất nhiên bản thân tơi cũng khơng ngoại lệ, có
những lúc mặc dù khơng có kiến thức hoặc kinh nghiệm gì về vấn đề đó nhưng mà
cách nói chuyện của tơi như thể tơi rất am hiểu về nó và điều này đơi lúc dẫn đến
những tình huống rất xấu hổ. Nhưng có một điểm rất kỳ lạ đó là khi người khác làm
điều tương tự như trên thì theo bản năng tơi lập tức nhận ra việc người đó khơng hề
có kiến thức về vấn đề này và độ nơng cạn của họ trong vấn đề đó, điều này khiến
tơi cảm thấy rất khó chịu? Những kiểu người thích tỏ ra mình thơng minh xuất hiện
ở mọi nơi, ở mọi khía cạnh trong cuộc sống này và cách tơi đối diện với những loại
người như thế này đó là tránh mặt họ để khơng cảm thấy khó chịu làm ảnh hưởng
đến công việc.

Downloaded by Yen Pham ()


lOMoARcPSD|38842354

19

Trong đoạn trích “ 無能の能ということ” ( Đừng tỏ ra ta đây rành rẽ ) thì tác

giả đã khuyến khích người đọc đi theo một chiều hướng rất kỳ lạ đó là chủ động giả
vờ như họ khơng biết ngay cả khi họ biết điều gì đó. Điều này khi nhìn trong cuộc
sống hiện tại thì nó khơng tự nhiên thậm chí cịn có gì đó rất kỳ lạ. Tại sao chúng ta
lại giấu đi năng lực của bản thân mà khơng thể hiện nó ra với mọi người để nhận
được sự thán phục cũng như công nhận của người khác. Chúng ta sẽ được tất cả mọi
người trong hồn cảnh lúc đó nhìn với một ánh mắt ngưỡng mộ. Tuy nhiên nếu suy
nghĩ kỹ thì chúng ta sẽ nhận ra được tác giả rất khéo léo trong quan hệ giữa người
với người và biết cách bảo vệ bản thân của mình. Điều này khơng biết có phải do ảnh
hưởng của thời đại nên cách suy nghĩ có chút khác nhau hay khơng nhưng xét theo
góc nhìn của tơi thì việc này rất kỳ lạ. Trong một xã hội đầy biến động về qn sự
lẫn chính trị thì thì việc tỏ ra mình khơng tham gia hoặc giả vờ khơng biết là điều tốt
nhất. Nó có thể giúp chúng ta tránh được nhiều rắc rối không cần thiết hay còn gọi
là rước họa vào thân.

Cũng giống với những gì tác giả đã khun thì trong mơi trường hiện tại tơi
cũng thấy được những người sống theo cách sống “giả vờ không biết”. Họ là những
người thực sự có năng lực trong cơng việc nhưng không hề khoe khoang những kỹ
năng, kinh nghiệm mình có được. Họ rất ít nói với người khác nhưng khi những
người thân cận, những người mà họ tin tưởng hỏi về cách để giải quyết vấn đề gì đó
thì họ sẵn sàng chỉ hết mình mà khơng giấu giếm mà chỉ dạy một cách nhiệt tình.
Khi mà họ khơng nắm vững vấn đề đó thì họ sẽ thừa nhận và cùng nghiên cứu giải
quyết vấn đề. Điều này tạo nên bầu khơng khí vui vẻ để cùng nhau học tập và phát
triển chứ không tạo nên một bầu khơng khí khó chịu.


Tuy nhiên điều này cũng rất ít xảy ra vì lượng kiến thức của họ rất lớn. Việc
này có thể gọi là “khiêm tốn" . Có một số người khiêm tốn bằng cách họ khơng nói
những điều đao to búa lớn về bản thân mình hoặc khoe mẽ về những gì mình có. Cịn
có một số người thể hiện điều đó qua vẻ ngồi của họ. Khi nhìn vào thì họ cũng giống

Downloaded by Yen Pham ()


×