Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Ôn tập ngữ văn 12 cho ôn thi thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.15 KB, 18 trang )

ÔN TẬP VĂN 12

I. Đọc hiểu

* Yêu cầu: đủ dài, đủ ý

Câu 1.

- Thể thơ: Lục bát, tự do, bảy chữ, tám chữ...
- Phương thức biểu đạt:

Tự sự Có cốt truyện, mạch truyện, nhân vật, sự kiện, sự việc...

Miêu tả Dùng ngôn ngữ để cho người nghe hoặc người đọc hình dung được nhân vật, sự việc

Biểu cảm Biểu đạt cảm xúc, thường được sử dụng trong thơ, vè, ca dao,.....

Nghị luận Bàn luận về sự vật hay hiện tượng nào đó, dẫn chứng, lập luận để chứng minh

Thuyết minh Thể hiện đặc điểm riêng của từng đối tượng được đề cập

Hành chính – cơng vụ Quốc hiệu, tiêu ngữ; Ngày, tháng, năm lập văn bản...

- Phong cách ngơn ngữ:

Sinh hoạt Là lời ăn tiếng nói hàng ngày (nhật ký, thư từ, truyện trò, tin nhắn điện thoại...)

Nghệ thuật Dùng trong truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình, hồi kí, ca dao, vè, thơ, kịch, chèo, tuồng...

Báo chí Là ngôn ngữ tin tức thời sự (thuyết minh, phỏng vấn, báo viết...)


Chính luận Trình bày, bình luận, đánh giá chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng

Hành chính Được dùng trong các văn bản hành chính

Khoa học Thuộc lĩnh vực khoa học (bài giảng, nói chuyện khoa học, giáo án, sách, vở...)

Câu 2. Chỉ ra hình ảnh, câu văn, nêu ý nghĩa
Câu 3. Biện pháp nghệ thuật:

- Gọi tên BPNT: so sánh, nhân hóa, điệp, hốn dụ, ẩn dụ …
- Chỉ ra hình ảnh có BPNT đó

- Nêu tác dụng:
+ So sánh: - Làm cho câu thơ/ đoạn thơ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

- Khẳng định/ thể hiện/ nhấn mạnh.......

+ Nhân hóa: - Làm cho sự vật trở nên sinh động, có hồn
- Thể hiện/ Khẳng định....

+ Ẩn dụ - Tăng sức gợi hình, gợi cảm
Hốn dụ: - Thể hiện/ Khẳng định....
- Làm cho đoạn văn, đoạn thơ sinh động, phong phú.
+ Liêt kê:

- Diễn tả cụ thể, toàn diện....
+ Đảo ngữ: - Gây ấn tượng cho câu thơ/ đoạn thơ.

- Nhấn mạnh/Khẳng định.....
+ Điệp từ, - Tạo nhịp điệu cho đoạn thơ.

ngữ, cấu trúc:- Nhấn mạnh/Khẳng định .......

+ Đối: - Tạo sự cân đối/ đăng đối hài hòa
- Thể hiện/ Khẳng định....

+ CHTT: - Tạo giọng điệu băn khoăn, trăn trở, chiêm nghiệm.
- Khẳng định/ Khuyên nhủ
+ Nói quá - Tạo tạo ấn tượng, tăng sức biểu cảm
phóng đại: - Nhấn mạnh/ Lên án

+ Nói giảm - Giảm nỗi buồn, tang thương
nói tránh: - Thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia…
Câu 4.
- Thông điệp, bài học:

+ Từ hình ảnh ..., tác giả muốn truyền tải thơng điệp....
+ Bên cạnh đó là bài học về...
- Thái độ của tác giả:
+ Yêu thương, trân trọng, quý mến, kính trọng, biết ơn...
+ Thương cảm, đồng cảm...
+ Khẳng định, cổ vũ,...
+ Căm thù, lên án, châm biếm, lo ngại, cảnh báo...
- Em có đồng ý với ý kiến...:
+ Chỉ ra rõ có đồng ý hay khơng
+ Nêu ngun nhân

II. Làm văn

CHUNG


Câu 1. Nghị luận xã hội:

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Trong cuộc sống,... / Xã hội ngày nay...

- Giải thích: Trước hết, chúng ta cần phải hiểu...

- Biểu hiện: Một người có...là người... / Chúng ta có thể thấy trong thực tế...

- Nguyên nhân: khách quan: gia đình, thầy cơ, bạn bè, xã hội, cộng đồng...

chủ quan: chính bản thân người...

- Ảnh hưởng: Hậu quả là... / Chính nhờ đó...

- Giải pháp: Chúng ta cần phải...

- Phản đề: Tuy nhiên,...

- Liên hệ: Bản thân là một người học sinh, em...

- Kêu gọi: Mọi người hãy cùng chung tay...

Câu 2. Phân tích hình tượng nhân vật ... trong đoạn trích ... (1), qua đó nhận xét ... của tác phẩm/ tác giả (2)
I. Dàn bài:
II.
Mở bài:
1. - Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
2. Thân bài:
Khái quát chung:

3.
- Về tác giả, tác phẩm: HCST, nhan đề, vị trí trong văn học VN... (không lặp lại ý ở mở bài)
- Tóm tắt:

+ Đoạn trước
+ Nhân vật
- ND đoạn trích
Phân tích:
LĐ 1.
LC1.
LC2.
...
LĐ 2.
LC1.
LC2.
...
* Để phân tích, ta cần chia luận điểm rõ ràng. Trong mỗi luận điểm cần có các luận cứ và dẫn
chứng để chứng minh cho các luận cứ ấy.
Đánh giá NT:
* Với những tác phẩm truyện, kịch:
- Xây dựng bối cảnh
- Tình huống truyện độc đáo

4. - Bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật
Phân tích ý thứ hai của đề bài:
5.
III. - Giá trị nhân đạo: tố cáo, ca ngợi, thương cảm, chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật
- Giá trị hiện thực: phản ánh hiện thực (nguyên nhân, thực trạng, con người...)
- Góc nhìn về người nơng dân của tác giả: thấu hiểu, đồng cảm cho tình cảnh của họ và trân trọng,
ca ngợi vẻ đẹp của con người trong tình cảnh ấy

- Triết lý nhân sinh: cách nhìn đời, đạo làm người
Mở rộng vấn đề:
- Liên hệ với các tác phẩm khác
- Liên hệ với xã hội thời bấy giờ/ thời đại ngày nay
Kết bài:
* Ngược lại của mở bài: nên có sự đầu cuối tương ứng:
- Đánh giá vấn đề cần nghị luận
- Đánh giá tác giả, tác phẩm

ĐỀ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VỢ CHỒNG A PHỦ

A. Mở bài:

Tây Bắc, mảnh đất đã “để thương để nhớ” cho bao thi sĩ mỗi lần họ ghé thăm, là miền đất hứa truyền nguồn
cảm hứng cho những người thi sĩ thỏa sức sáng tạo để họ viết nên những trang thơ văn lấp lánh, làm giàu đẹp
cho nền văn học Việt Nam. “Người mẹ của tâm hồn” ấy đã phả vào trang văn của Tơ Hồi một sức sống tiềm
tàng mãnh liệt, đặc biệt là qua tác phẩm Vợ Chồng A Phủ. Qua hình tượng nhân vật Mị, tác giả đã phản ánh số
phận của những con người Tây Bắc “đi từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui tươi”. Đoạn trích đã miêu
tả tâm lý nhân vật ... qua đó khắc họa cái nhìn ... của tác phẩm: “Trích”.

B. Thân bài:

1. Khái qt chung:
Tơ Hồi là một nhà văn xuất sắc của văn học văn xi hiện đại. Ơng có vốn hiểu biết sâu sắc phong phú về cuộc
sống và con người miền núi. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là kết quả chuyến đi thực tế của Tô Hoài, in trong
tập truyện Tây Bắc, đã phản ánh chân thực và sinh động con đường đi theo cách mạng của nhân dân miền núi
cao.
- Tóm tắt:

+ Đoạn trước: Phần một của tác phẩm kể về cuộc đời của Mị từ trước cho đến khi về làm dâu nhà

thống lý nhưng Tơ Hồi khơng đi theo trình tự thời gian như vậy mà lại bắt đầu tác phẩm bằng hình ảnh một cô
con gái nhà thống lý ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa, lúc nào cũng phải làm việc, mặt
thì buồn rười rượi, trái ngược hoàn toàn với gia cảnh nhà thống lý Pá Tra, nhà có nhiều lương, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng, tưởng như người nhà họ sẽ không bao giờ mà biết khổ, mà buồn. Sự tương phản đấy báo
hiệu một cuộc đời không bằng phẳng một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi vùng cao Tây
Bắc. Điều đó đã gây nên sự tị mị, thơi thúc độc giả lật giở những trang tiếp theo để tìm ra khởi nguồn cho số
phận bất hạnh của người con gái ấy.

+ Nhân vật: Người con gái ấy tên là Mị, là nhân vật chính của tác phẩm với ngoại hình trẻ đẹp, u đời,
có tài thổi sáo, nhà nghèo và rất hiếu thảo. Mị khao khát yêu và cũng đã được u. Thế nhưng chỉ vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ, Mị đã trở thành con dâu nhà thống lý Pá Tra. Đời con dâu gạt nợ của Mi ở nhà thống lý
là một quãng đời thê thảm tủi cực, sống mà như đã chết.
- ND đoạn trích:
2. Phân tích:
* Để phân tích, ta cần chia luận điểm rõ ràng. Trong mỗi luận điểm cần có các luận cứ và dẫn chứng để chứng
minh cho các luận cứ ấy.
3. Đánh giá NT:
- Nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ kể chuyện mang phong vị miền núi giàu chất thơ và chất tạo hình, qua đó đã
tái hiện sự sống động, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc.
- Tác phẩm khơng đi theo tuyến tính thời gian mà đan xen giữa hiện thực và quá khứ, gây ấn tượng với người
đọc bằng cách mở đầu truyện gợi nhiều tị mị, từ đó dẫn dắt người đọc đi qua nhiều cung bậc cảm xúc bằng bút
pháp khắc họa hình tượng nhân vật qua miêu tả tâm lí và hành động. Từ đấy nhân vật Mị hiện lên trước mắt
người đọc, là cô gái tuy chịu nhiều áp bức, vùi dập, nhưng vẫn luôn khao khát tự do, hạnh phúc. Số phận của Mị
cũng chính là số phận của những con người lao động vùng Tây Bắc thời bấy giờ, bị giai cấp thống trị đày đọa cả
về thể xác lẫn tinh thần. Nhưng điều Tơ Hồi thấy được ở họ không phải là sự cam chịu, mà là một trái tim luôn
khao khát tự do, hạnh phúc, chính vì vậy mà ơng đã để những con người ấy đứng lên với những hành động phản
kháng mãnh liệt để đấu tranh cho số phận chính mình ở phần sau của câu chuyện.
4. Phân tích ý thứ hai của đề bài:
- Giá trị nhân đạo:
+ Tác giả phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của con người Tây Bắc.

+ Tin tưởng và miêu tả khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ
chế độ thực dân, phong kiến .
+ Biểu lộ sự căm ghét đối với chế độ thực dân, phong kiến.
- Giá trị hiện thực:
+ Phản ánh chân thực bức tranh đời sống của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám bị áp bức,
bóc lột.

+ Bộ mặt tàn bạo của bọn phong kiến miền núi
+ Phản ánh chân thực những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc
5. Mở rộng vấn đề:
Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về một đôi trai gái người Mông ở miền núi cao Tây Bắc cách đây mấy chục
năm. Song truyện đặt ra rất nhiều vấn đề có ý nghĩa nhân sinh nhân bản mà cho tới ngày nay vẫn cịn ngun
tính thời sự. Qua hình tượng nhân vật Mị, Tơ Hồi đã đưa ra bài học về quyền được sống của con người. Con
người cần được sống cho ra sống, không thể sống mà như đã chết. Vấn đề này tưởng như đã được giải quyết ở
thời đại mới, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều người chưa được sống một cuộc sống có ý nghĩa, chưa được
hưởng thụ những giá trị tinh thần mà con người xứng đáng hưởng. Từ ấy, tác giả chỉ ra rằng hạnh phúc phải
được xây dựng trên nền tảng tình u đích thực. Mọi sự ép buộc, áp đặt chỉ dẫn tới bi kịch. Bên cạnh đó tác
phẩm cũng là lời kêu gọi đấu tranh chống nạn bạo hành gia đình, những hủ tục lạc hậu chà đạp lên quyền sống
của con người. Có thể thấy giá trị của tác phẩm không chỉ dừng lại ở những cho chữ mà còn thực sự thi vào đời
sống hiện thực để lại trong lòng người đọc những bài học Và suy ngẫm đắt giá.

C. Kết bài:

Đọc Vợ chồng A Phủ, ta thấy Mị là một bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong suốt thời gian ở nhà thống lý,
Mị chỉ nói vài ba câu nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn
lao trong mạch suối ngầm trong mát. Cuộc đời đau khổ tủi nhục của mị là tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của
người dân lao động miền núi trước cách mạng dưới ách thống trị của thế lực phong kiến thực dân. Quá trình
vùng lên từ tự phát cho tới tự giác của Mị cho thấy niềm tin của Tơ Hồi vào sức sống tiềm tàng, sự vươn lên
mạnh mẽ của con người trong hoàn cảnh tăm tối hướng về ánh sáng nhân phẩm, tự do.


ĐỀ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VỢ NHẶT

I. Mở bài:

Nhà văn Kim Lân đã từng nói: "Đói, nó vừa đắng cay vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên một
tia sáng về đạo đức, danh dự." Và Vợ nhặt của ơng chính là tác phẩm đi sâu vào khai thác tia sáng đẹp đẽ trong
bi kịch tăm tối của nạn đói. Thơng qua câu chuyện nhặt được vợ của anh Tràng, Kim Lân không chỉ nói lên sự
sống mong manh của con người trước nạn đói khủng khiếp mà quan trọng hơn cả là đứng trên bờ vực của sự
sống và cái chết ấy con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành và đáng trân trọng.

II. Thân bài:

1. Khái quát chung:

Vợ Nhặt được coi là kiệt tác trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, cũng là truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi
Việt Nam hiện đại. Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư viết ngay
sau cách mạng tháng tám năm 1945. Tới năm 1954 Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết Vợ Nhặt
nên tác phẩm mang âm hưởng lạc quan của thời đại mới khi Cách mạng tháng Tám đã thành cơng, miền Bắc
được giải phóng. Nhan đề Vợ nhặt hàm chứa những mâu thuẫn éo le tạo nên tình huống truyện vừa độc đáo vừa
hấp dẫn, bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện.

- Tóm tắt:

+ Đoạn trước: Cảm quan về cái đói có thể nói đã thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật trong Vợ nhặt. Chẳng thế
mà ở những dòng đầu khi tả con đường qua xóm chợ, tác giả thấy nó “khẳng khiu” và ánh sáng đầu tiên mà ông
hắt vào trong truyện cũng là thứ ánh sáng nhập nhoặng mù mờ của buổi chiều tà chạng vạng. Trên con đường
ấy và dưới ánh sáng leo lắt ấy, hiện hữu những bóng người đói vật vờ, ủ rũ, xanh xám như những bóng ma,
người sống thì nằm ngổn ngang khắp đường chợ, ngay bên cạnh là ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.
Khơng khí vẩn lên múi ẩm thối và mùi gây của tử thi. Kim Lân đã mở ra tác phẩm của mình bằng những khung
hình đầy ám ảnh về nạn đói rồi mới từ đó cho thấy cái sáng tạo nghệ thuật mang tính quyết định của ơng: “Giữa

cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà
nữa.”

+ Nhân vật: Nhân vật Tràng được nhắc tên, cũng là nhân vật chính của tác phẩm đã được Kim Lân khắc họa
như một sự đẽo gọt sơ sài của tạo hóa, với hai con mắt gà gà nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình vập
vạp và tính cách có phần ngớ ngẩn: thỉnh thoảng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Chưa kể hắn còn là một kẻ
đói nghèo làm nghề kéo xe bị và là dân ngụ cư không biết tha hương từ đâu tới cái xóm này. Người như hắn có
lẽ cả đời cũng chẳng lấy được vợ. Nhưng rồi chỉ sau hai ba lần gặp gỡ cùng mấy lời bông đùa, hắn đã nhặt được
một người đàn bà cũng có chung số phận với hắn. Người đàn bà ấy thậm chí cịn khơng được Kim Lân đặt tên,
khơng có họ hàng thân thích, khơng biết tới từ đâu. Hai mảnh đời khốn khổ đã tìm thấy nhau giữa dịng đời tối
tăm và nên duyên vợ chồng. Sau khi có được sự chấp thuận của bà cụ Tứ, mẹ Tràng, họ đã chính thức về chung
một nhà.

- ND đoạn trích: Đoạn trích …

2. Phân tích:

* Để phân tích, ta cần chia luận điểm rõ ràng. Trong mỗi luận điểm cần có các luận cứ và dẫn chứng để chứng
minh cho các luận cứ ấy.

3. Đánh giá NT:

Kim Lân đã rất thành công trong nghệ thuật xây dựng bối cảnh tạo phông nền cho nhân vật xuất hiện: xuyên
suốt tác phẩm, hình ảnh nạn đói năm 1945 cứ trở đi trở lại như nỗi ám ảnh day dứt không nguôi về nỗi đau của
dân tộc. Từ bối cảnh ấy Kim Lân dẫn dắt người đọc vào một tình huống truyện độc đáo vừa kỳ lạ éo le vừa
cảm động. Đó là tình huống Tràng nhặt được vợ. Để rồi từ đây, ngòi bút tinh tế của ông tiếp tục đưa người đọc
và chiều sâu tâm hồn nhân vật bộc lộ ánh nhìn thấu hiểu, trân trọng về người lao động. Ngôn ngữ mộc mạc

giản dị nhưng tinh tế và giàu sức gợi đã góp phần khắc họa thế giới nội tâm nhân vật một cách chân thực cảm
động.


4. Phân tích ý thứ hai của đề bài:

a. Nhận xét (bình luận) về giá trị hiện thực
Xây dựng tình huống nhặt vợ của nhân vật Tràng, tác phẩm "Vợ nhặt" (hoặc đoạn văn) đã phản ánh chân thực
cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám - nạn đói khủng khiếp năm 1945 khiến bao người phải
chịu cảnh sổ sở. Người chết như "ngả rạ", "ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường", người sống mặt hốc
hác u tối "đi lại dật dờ như những bóng ma", "xanh xám như những bóng ma". Không gian thê lương, não nuột
với những tiếng hờ khóc, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Hiện thực thê thảm ấy còn hiện lên qua mùi gây của
xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống rấm. Khơng gian xóm ngụ cư khơng khác biệt
nhiều với không gian nghĩa địa. Đặc biệt, không gian năm đói đã tạo thành khung cảnh nền để Kim Lân kể lại
câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của Tràng. Câu chuyện bi hài được miêu tả trong truyện (đoạn văn trên)
góp phần hồn chỉnh bức tranh chân thực về tình cảnh thảm khốc của người nơng dân: Vì đói q mà chị vợ
nhặt đã phải đánh đổi cả lịng tự trọng để được ăn, để theo khơng người đàn ơng xa lạ; vì nghèo mà bà cụ Tứ
phải dằn vặt bởi không lo nổi dăm ba mâm cho đám cưới của con; vì khổ mà bữa cơm mừng dâu mới chỉ tồn
cháo lỗng, ăn với muối và món chè khốn đắng chát thực ra chỉ là cháo cám..

b. Nhận xét (bình luận) về giá trị nhân đạo
Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số phận cùng khổ của người nông dân
nghèo Việt Nam trước cách mạng tháng Tám mà còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp
của tình người, của khát vọng hạnh phúc. Đoạn trích đã diễn tả thành cơng sự đổi thay trong tâm trạng của nhân
vật Tràng: Từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vơ tâm trở thành người đàn ơng trưởng
thành, có trách nhiệm. Sự đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng hạnh
phúc.. có thể biến những điều khơng thể thành có thể, biến đau khổ thành ngọt ngào. Xây dựng hình tượng nhân
vật Tràng, nhà văn đã thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng với khát vọng hạnh phúc của con người để từ đó
khẳng định: Dù trong tình huống bi thảm tới đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn
hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống cho ra người. Đây cũng
chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

c. Nhận xét (bình luận) về vẻ đẹp của khát vọng, vẻ đẹp của tình người

Đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung khơng chỉ giàu giá trị hiện thực mà cịn giàu giá trị nhân đạo. Xây
dựng tình huống nhặt vợ của Tràng, đoạn văn nói lên tình cảnh thê thảm của người nơng dân trong cảnh đói,
gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy con người đến tình cảnh phải bán rẻ cả nhân phẩm để
được sống. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh
phúc cũng như vẻ đẹp của tình người trong nạn đói. Dưới sự thể hiện của ngịi bút giàu lòng nhân ái Kim Lân,
ta thấy sự túng đói quay quắt, hồn cảnh khốn khổ khơng làm con người từ bỏ lịng u thương, nhân hậu,
khơng ngăn cản được con người hy vọng vào cuộc sống, hy vọng vào hạnh phúc ngày mai. Họ vẫn vượt lên trên
cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình người đẹp đẽ, để hướng đến sự sống, hạnh phúc và ngày mai
tươi sáng hơn.Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn
bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Thị bẽn lẽn đi cạnh Tràng, lễ phép chào hỏi mẹ chồng, thị còn dậy sớm,
quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho
cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, thị
tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho
thóc của Nhật. Chính thị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong
tương lai. Miêu tả sự thay đổi của nhân vật Thị, Kim Lân đã thể hiện được sự trân trọng và niềm tin vào những
phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người, đó là những vẻ đẹp mà nạn đói khơng thể nào hủy diệt được. Chính
điều đó đã tạo nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc của ngòi bút Kim Lân.

d. Nhận xét (bình luận) về nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Ai đó đã nói rằng, tình huống truyện là linh hồn của tác phẩm. Đối với nghệ thuật truyện, xây dựng được một
tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố then chốt tạo nên sức sống của tác phẩm ấy. Đoạn trích

trên [..] dựng lên một tình huống vừa lạ, vừa éo le đã thể hiện những nét độc đáo trong ngòi bút nghệ thuật Kim
Lân.Trước hết, cái tài của Kim Lân là dựng được một tình huống lạ. Hiếm có một tình huống nào lại "lạ" như
tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng. Bởi chuyện dựng vợ, gả chồng xưa nay vốn là chuyện hệ trong cuộc đời
con người, vậy mà Tràng lại lấy được vợ theo kiểu nhặt. Lạ bởi Tràng lại không phải là người hào hoa, giàu có
gì mà chỉ là anh phu xe nghèo, xấu, hơi ngốc vậy mà Tràng lại có người theo khơng. Chính vì thế mà việc
Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã
có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó. Khơng chỉ dựng được tình huống lạ,
Kim Lân cịn tạo cho tình huống ấy những khía cạnh éo le, bất ngờ. Éo le bởi giữa lúc đói khát, ni thân cịn

chẳng xong vậy mà Tràng lại dám "đèo bòng", "rước cái của nợ đời ấy về". Có vợ, nhưng chen vào hạnh phúc
là nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống. Chính vì tình huống éo le này mà mọi người không biết nên
buồn hay nên vui, hạnh phúc hay đau khổ. Dựng lên tình huống nhặt vợ độc đáo của nhân vật, Kim Lân đã nói
lên được rất nhiều những vấn đề tư tưởng sâu sắc của tác phẩm, cũng như miêu tả rõ nét hơn chiều sâu tâm lí và
vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.

5. Mở rộng vấn đề:
Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số phận cùng khổ của người nông dân
nghèo Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám mà còn phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp
của tình thương, của khát vọng hạnh phúc khiến cho họ dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, có thê thảm đến đâu thì vẫn
ln hướng tới hạnh phúc tương lai. So với những tác phẩm viết về người lao động trước Cách Mạng như Tắt
Đèn, Chí Phèo, Lão Hạc để lại cái kết ám ảnh trong lòng người đọc với những số phận khốn khổ bị chèn ép tới
đường cùng tuyệt vọng thì Vợ nhặt lại mang đến một giá trị nhân đạo mới mẻ hơn: nhà văn để người nơng dân
nhìn thấy tương lai của con đường sống tất yếu của họ, ông tin tưởng mãnh liệt vào khả năng tự vươn dậy của
những người nông dân khốn khổ ấy. cho dù đứng trên miệng vực cái đói chết, bị dồn đến bước đường cùng thì
người lao động Việt Nam vẫn vững tin và tương lai một mai tươi sáng.

III. Kết bài:

Kim Lân khi viết truyện ngắn này đã lúc nào ý định khi viết về con người năm đói người ta thường viết về con
người chỉ nghĩ đến cái chết tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cái sống thực
sự khi ra đời hội nhập đã là một bài ca về sức sống kỳ diệu của con người trong nạn đói dù kế bên cái đó cái
chết người ta vẫn khao khát hạnh phúc Hướng về ánh sáng tin về sự sống và tương lai phía trước.

ĐỀ PHÂN TÍCH NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ

I. Mở bài:

“Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì dù xa xơi mấy vẫn lên đường”


Hịa chung với khơng khí thắng lợi của CMT8, miền Bắc tiến lên xây dựng XHCN, nhiều nhà văn nhà thơ
bắt đầu cuộc hành trình đi tìm nguồn cảm hứng ở những miền đất mới. Đặt chân tới mảnh đất Tây Bắc, Nguyễn
Tuân đã có những khám phá đầy mới mẻ và độc đáo về thiên nhiên và con người lao động nơi đây. Ông đã gửi
gắm những khám phá ấy của mình trong tập tùy bút “Người lái đị sơng Đà”. Tác phẩm cũng thể hiện…, đặc
biệt là qua đoạn trích: “…”

II. Thân bài:

1. Khái quát chung:

Nguyễn Tuân là định nghĩa về một người nghệ sĩ một cách trọn vẹn. Ông theo đuổi chủ nghĩa xê dịch
bởi chán ghét những điều tầm thường, tẻ nhạt, yên ổn. Người lái đò sơng Đà (in trong tập Sơng Đà) chính là kết
quả của chủ nghĩa xê dịch ấy lên miền cao Tây Bắc những năm kháng chiến chống Pháp, ghi lại cuộc gặp gỡ
của người nghệ sĩ cả đời đi tìm cái đẹp với một sinh thể độc lạ chỉ có ở Tây Bắc – dịng sơng Đà vừa hung bạo
vừa thơ mộng. Giới thiệu về dịng sơng, Nguyễn Tn mở đầu bằng lời đề từ ngắn gọn mà hàm súc.
- Lời đề từ:

+ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: Nhà văn Nguyễn Tuân đã đặc biệt muốn nhấn
mạnh cá tính độc đáo của của dịng sơng. Sơng Đà khác hẳn các dịng sơng khác bởi nếu tất cả các dịng sơng
khác đều chảy về hướng đơng thì riêng Sơng Đà chạy về hướng bắc. Có lẽ vì con sơng đặc biệt như vậy nên nó
trở thành đối tượng rất phù hợp với cá tính sáng tạo của Nguyễn Tn, nó được tác giả tìm đến để thể hiện cá
tính nghệ thuật của mình.

+ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dịng sơng”: tác giả lại thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của
dịng sơng và con người gắn bó với dịng sơng, bộc lộ rõ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là ngợi ca thiên nhiên
và con người Tây Bắc.
- Tóm tắt:

+ Đoạn trước: Mở đầu tác phẩm Nguyễn Tuân không vội vàng đưa người đọc đi chiêm ngưỡng vẻ đẹp

của con sông đà, mà giới thiệu qua về lý lịch của dịng sơng bằng lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà
giang độc bắc lưu”, phần nào đã nói lên tính cách của một dịng sơng bướng bỉnh ương ngạnh và khó trị như
một chàng trai cộc cằn. Góc nhìn của Nguyễn Tn xi theo mái chèo của người lái đị sơng Đà, đã chứng kiến
tính cách hung bạo của dịng sơng với những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, những cái hút nước, ba vịng
trùng vi thạch trận…, qua đó khắc họa vẻ đẹp tài hoa trí dũng của người lái đị.
Nhưng cái tinh tế trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân là thay vì chỉ nhìn cận cảnh, ơng đã quan sát con
sơng Đà từ đa góc độ, cụ thể là hướng từ trên xuống, một tầm nhìn bao quát cả dịng sơng, để rồi nhận ra con
sơng hằng năm và đời đời kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc lại có một mặt thơ mộng và trữ tình
tới vậy.

+ Nhân vật: Ơng khơng có tên, chỉ biết là người Lai Châu, đã ngoài 70 tuổi, dành một phần lớn cuộc đời
làm nghề lái đị dọc trên sơng Đà. Ông được Nguyễn Tuân miêu tả với cái đầu bạc nhưng cịn quắc thước lắm,
đặt trên thân hình cao to, gọn quanh, tay ông lêu ngêu như cây sào, đôi tay cịn trẻ tráng làm nhiều người lầm
tưởng mình đang đứng trước một chàng trai, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh thác. Không
phải Nguyễn Tuân mà chính cái nghề lái đị trên dịng sơng hiểm ác này đã khắc họa nên hình hài của ơng, qua
đó người đọc thấy được ở bên trong ơng lái đị là tình u, sự gắn bó sâu sắc với nghề. Đó cũng chính là chất
vàng mười đã qua thử lửa mà Nguyễn Tn tìm kiếm.
- ND đoạn trích: Đoạn trích …

2. Phân tích:

* Để phân tích, ta cần chia luận điểm rõ ràng. Trong mỗi luận điểm cần có các luận cứ và dẫn chứng để chứng
minh cho các luận cứ ấy.

A. Vẻ đẹp hung bạo của dịng sơng

a. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành:

Hùng vĩ của Sơng Đà khơng phải chỉ có thác đá. Mà nó cịn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành,
mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang
bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một
cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

b. Mặt ghềnh Hát Loóng:

Lại như quăng mặt ghềnh Hát Lng, dài hang cây số nước xơ đá, đá xơ song, sóng xơ gió. Cuốn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

c. Hút nước trên sông Đà:

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La.Trên song bỗng có những cái hút nước giống như cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên
mặt cái hút xốy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái
hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút
qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu,
những cái giếng sâu nước ác ặc lên như vừa rót dầu sơi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những
cái giếng hút ấy nó lơi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã
dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái
hút Sơng Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài
sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-
plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc
dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu
được trong lịng giếng xốy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ
chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn.

d. Tiếng thác nước trên sông Đà:


…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng
nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

e. Những thạch trận đá trên sông Đà:

Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sơng lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn
năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà
quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhơ vào đường ngoặt sơng là một số hịn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền. Mặt hòn đá nào trơng cũng ngỗ ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.
Mặt sơng rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sơng trắng xố càng làm bật rõ lên những
hịn những tảng mới trơng tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng
hình như Sơng Đà đã giao việc cho mỗi hịn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên song. Đám tảng đám
hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sơng địi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc khơng cịn biết lùi đi
đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hịn canh một cửa đá trơng như là
sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước
sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được
tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt
lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong
thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm
liệt. Một hịn ấy trơng nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.
Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.

B. Vẻ tài hoa trí dũng của người lái đò:

a. Vòng thạch trận thứ nhất:
Ơng đị hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hị la
vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng

vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hơng thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đổ vật túm thắt lưng ơng đị địi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng
thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đị
[…]. Mặt sơng trong tích tắc lồ sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng.
Nhưng ơng đị cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng
đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá
thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là
phá xong cái trùng vi thạch trận vịng thứ nhất. Khơng một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá ln vịng vây thứ
hai và đổi ln chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá. Ơng đã thuộc quy luật phục
kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh
cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng.

b. Vòng thạch trận thứ hai:
Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sơng Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ơng đị ghì cương lái, băm chắc lấy luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lơi vào tập đồn cửa tử. Ơng đị vẫn nhớ mặt bọn này,
đứa thì ơng tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ơng đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử
đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hị của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn khơng ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướnng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền
đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.

c. Vòng thạch trận thứ ba:
Còn một trùng vây thứ ba nữa. ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng
ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút
qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác.

C. Vẻ đẹp trữ tình của dịng sơng


a. Góc nhìn từ trên cao xuống

+ Hình dáng con sơng mang vẻ đẹp của mỹ nhân:
Tơi có bay tạt ngang qua Sơng Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách
nhìn về con sơng Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sơng Đà, khơng ai trong tàu bay
nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sơng hằng năm và đời đời kiếp
kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đị Sơng Đà. Cũng
khơng ai nghĩ rằng đó là con sơng của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sơng hãy cịn dài -
Năm năm báo ốn đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu
bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên
đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt
nương xuân.

+ Sắc nước:
Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn
xuống dịng nước Sơng Đà. Mùa xn dịng xanh ngọc bích, chứ nước Sơng Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lơ. Mùa thu nước Sơng đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tơi thấy dịng Sơng Đà là

đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ
thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

b. Góc nhìn từ xa tới gần

+ Con sông “cố nhân”:

Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sơng Đà lại gợi một cách. Đã có lần tơi nhìn Sơng Đà như
một cố nhận. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chỗ thống. Mải bám gót anh liên lạc, qn

đi mất là mình sắp đổ ra Sơng Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tơi nhìn cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa
tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bải Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ơi, trơng
con sơng, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nới lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày
rồi lại bắt ra Sơng Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấ mình biết là
lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

+ Vẻ đẹp tĩnh lặng hoang dại:

Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven song ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông
này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngơ non đầu mùa. Mà tinh
khơng một bóng người.

+ Thế giới thiên nhiên sinh động, kì ảo, thi vị:

Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hưu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ
song hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ song hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ơi, thấy thèm
được giật mình vì một tiếng cịi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu.
Con hưu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi khơng chớp mắt lừ lừ trơi trên một
mũi đị. Hưu vễnh tai, nhìn tơi khơng chóp mắt mà như hỏi tơi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: hỏi ông
khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt
song bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.

+ Vẻ đẹp trữ tình giàu chất thơ:

Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người
tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dịng song quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sơng như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và
con sông đang trôi những con đị mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đị đi én thắt mình dây cổ
điển trên dịng trên.


3. Đánh giá NT:

Đặc điểm nổi bật của tùy bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa. Ông vận dụng kiến thức trên nhiều lĩnh
vực: lịch sử, hội họa, điện ảnh… kết hợp với những ví von, so sánh, liên tưởng độc đáo, bất ngờ để vẽ nên
dịng sơng với đầy đủ nét tính cách: vừa hung dữ lại vừa trữ tình. Ngơn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình
ảnh, có sức gợi cảm cao cùng những câu văn có nhịp điệu lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như biến đổi
theo dịng chảy của sơng Đà. Nguyễn Tn quả thực đã sáng tạo ra một con sông Đà không hề vô tri, vơ giác
mà là sinh thể có hoạt động, tính cách, tâm trạng hẳn hoi. Và đặc biệt là bức nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, Nguyễn
Tuân đặt vào đó hình ảnh của người lái đị, tuy nhỏ bé nhưng khơng hề sợ hãi trước dịng chảy khắc nghiệt, dữ
dội kia, thậm chí cịn giành chiến thắng trong cuộc đọ sức với sơng Đà.

4. Phân tích ý thứ hai của đề bài:

Nhận xét về cảm hứng của Nguyễn Tuân:
Hai đoạn văn là hai nét vẽ hoàn thiện cho vẻ đẹp của dịng sơng vừa hung bạo vừa trữ tình, vừa hùng vĩ vừa thơ
mộng. Đó vẻ đẹp “chất vàng trong thiên nhiên Tây Bắc”. Qua đó thể hiện tình yêu,niềm tự hào về quê hương
đất nước của nhà văn Nguyễn Tuân. + Chất vàng – đó là sự quý hiếm, là giá trị mà con sông mang lại cho con
người, cho sự phát triển của đất nước. Vẻ hung bạo của Sông Đà làm nên tiềm năng thủy điện dồi dào cho đất
nước. Nét trữ tình của dịng sơng lại cho miền Tây Bắc tiềm năng phát triển ngành dịch vụ du lịch, thu hút sự
tham quan của nhiều du khách thập phương… Khát vọng tìm kiếm chất vàng trong thiên nhiên Tây Bắc của
Nguyễn Tuân đã được thể hiện một cách thành công nhờ vào: Việc khai thác đặc điểm của thể tùy bút- một thể
loại cho phép sự tự do trong việc sử dụng tư liệu phong phú về đối tượng và tự do vô bờ trong suy ngẫm, liên
tưởng, so sánh bất ngờ, táo bạo… Việc khai thác đề tài-Sông Đà. Đây là một con sơng độc đáo, khác thường, ít

được đề cập trong các sáng tác trước Nguyễn Tuân. Việc sử dụng vốn tri thức uyên bác thuộc các ngành: địa lí,
điện ảnh, âm nhạc, mĩ thuật …giúp con sơng hiện lên với nhiều góc độ và vẻ đẹp khác nhau. Việc nhân hóa con
sơng-biến nó thành một nhân vật với hai nét tính cách đối lập mà thống nhất vừa phản ánh chân thực đặc điểm
của Đà giang vừa tạo ra cái phông nền cho sự xuất hiện của con người-người lái đị trên sơng Đà. Đây là hình
tượng trung tâm mà nhà văn dụng cơng miêu tả trong tác phẩm…. Dựng nên hình tượng dịng sơng Đà với hai

nét tính cách trên, NT đã chứng tỏ là một cây bút có phong cách rất mực tài hoa, uyên bác.

5. Mở rộng vấn đề:
Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám vì lúc này, Nguyễn Tuân đã được ánh
sáng của Đảng soi rọi, phù sa của nhân dân bồi đắp. Ông đứng giữa lòng nhân dân mà nhân dân là cội nguồn
của nghệ thuật. Nhớ lại trước cách mạng Nguyễn Tuân vẫn chìm đắm trong vịng cái "Tơi" của một nhà văn
lãng mạn tiêu biểu. Ơng chỉ viết về những con người kì vĩ, lớn lao của một thời vang bóng ví như nhân vật
Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" lấy từ nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát. Sau cách mạng,
Nguyễn Tuân đi từ cái "Tôi" cô đơn đến cái "Ta" của cộng đồng. Vì vậy, sau cách mạng Nguyễn Tuân viết
nhiều về anh bộ đội, chị dân qn, anh du kích... Đó là những con người anh hùng ngay trong đời bình thường,
những con người rất bình dị. Ơng đị Lai Châu là một nhân vật như vậy. Để khẳng định rằng mình đã tìm thấy
chủ nghĩa anh hùng ở những người dân bình thường, Nguyễn Tuân đã để ơng đị Lai Châu là một người khuyết
danh khiến cho ơng cũng là một con người bình thường như mn nghìn người dân Tây Bắc khác. Có thể khẳng
định khơng q lời rằng họ chính là những bơng hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa, những con người vô
danh đã làm nên đất nước, như Nguyễn Khoa Điềm đã từng viết:

“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước”

III. Kết bài:

Viết về người lái đò, viết về một vùng đất của Tổ Quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc yêu
thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ơng lái đị
hiện lên càng anh dũng, ngoan cường trong lao động, và tấm lòng tài năng của Nguyễn Tuân càng được thấy rõ.
Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh của nhà văn, đưa người đọc bước vào một chân trời với màu sắc huyền ảo,
riêng biệt và độc đáo, thổi một làn gió mới vào nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ bằng những tinh túy, tài hoa,
uyên bác của mình.


ĐỀ PHÂN TÍCH HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

I. Mở bài:
Lưu Quang Vũ là cây bút tài hoa đã khẳng định tên tuổi của mình bằng những dấu ấn trong sự nghiệp
sáng tác thơ ca. Song phải tới khi chuyển sang lĩnh vực sân khấu thì “sân khấu mới là cảm hứng về con
người nghệ sĩ tài ba này”. Cảm hứng chủ đạo trong kịch của Lưu Quang Vũ về con người, cái đẹp, cái
thiện, cái tơi hịa tan trong cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn đề muôn thuở của nhân
loại mà tiêu biểu là vở “Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt”. Từ tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ dày vị của
nhân vật Trương Ba khi trong ngoài bất nhất, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm vào tác phẩm những tư tưởng
mới mẻ về sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn về
cách sống. Tác phẩm đã thể hiện sâu sắc những triết lý nhân sinh của Lưu Quang Vũ, đặc biệt là qua
đoạn trích: “…”

II. Thân bài:
1. Khái quát chung:
Tác giả: Lưu Quang Vũ đến với sân khấu khi sân khấu đòi hỏi sự đổi mới bức thiết. Nắm bắt được
điều đó, ơng đã đưa những chi tiết có thật trong cuộc sống trở thành những chi tiết nghệ thuật để
phản ánh những vấn đề thời sự nóng bỏng, những mâu thuẫn đang tồn tại. Hồn Trương Ba da hàng
thịt chính là một tác phẩm như vậy.
Tác phẩm: Dựa vào cốt truyện dân gian, LQV đã sáng tạo nên tình huống truyện đầy éo le, được thể
hiện ngay từ nhan đề gợi mở về nội dung “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Tên gọi của tác phẩm đã
thâu tóm tồn bộ mâu thuẫn, xung đột của nhân vật trong bi kịch sự vênh lệch của hai yếu tố quan
trọng có trong một con người đó là hồn và xác.
- Tóm tắt: Nhân vật chính Trương Ba là một người làm vườn lương thiện, có tài đánh cờ giỏi,
khơng may bị chết oan vì sự tắc trách của quan trời. Đế Thích là một ông tiên cao cờ, vì yêu quý và
mến tài đánh cờ của Trương Ba nên đã giúp Hồn Trương Ba sống lại trong thể xác của anh hàng thịt.
Tuy nhiên hành động này vô tình đẩy Hồn Trương Ba vào bi kịch đau đớn nghiệt ngã: bị tha hoá, bị
người thân hắt hủi xa lánh. Trương Ba rất lấy làm đau khổ, tuyệt vọng và quyết định tìm một cuộc
sống đích thực dù phải đánh đổi bằng cái chết. Quyết định ấy thúc đẩy hồn Trương Ba lấy hương
thắp gọi Đế Thích để nhờ ơng tiên này giúp đỡ.

- ND đoạn trích: đoạn trích thuộc cảnh VII, là đoạn kết vở kịch. Qua màn đối thoại giữa hồn
Trương Ba và … đã cho thấy …
2. Phân tích:

Đoạn 1. Đối thoại với Xác (1)

Đoạn 2. Đối thoại với Xác (2)

LĐ 1.
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một
hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn cấp và tha thiết: “Không! Không! Tôi không muốn
sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này.
ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi
cái xác này, dù chỉ một lát.” Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán
ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn. Nguyện vọng của Hồn Trương Ba đã được thỏa nguyện.
Sự phân tích và đối đầu giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt trước nhất có thể hiểu là sự tranh cãi quyết liệt
giữa 1 bên là Hồn Trương Ba (biểu tượng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho “phần Người” chân chính của
mỗi con người) và 1 bên là Xác hàng thịt (biểu tượng cho bản năng, cho những thèm muốn phàm tục, là “phần
Con” bình thường ẩn núp trong mỗi con người).
+ Hồn có dịp bộc bạch tâm cảnh uất ức, giận dữ vì phải chung sống với Xác thơ tục, bình thường, dung tục.
Hồn cũng ko che đậy sự khinh thường, khinh bỉ đối với Xác, “kẻ ảm đạm đui mù mù, ko xúc cảm, ko tư tưởng,
ko có ngơn ngữ”…; kẻ có nhu cầu vật chất kém cỏi gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh
thể chất gắn với sự hung tàn…Hồn cũng phủ nhận sự dựa dẫm của vong hồn vào xác thịt, khẳng định vong hồn
có đời sống riêng: “nguyên lành, trong lành, ngay thẳng”… Tưởng rằng, Hồn sẽ phần nào xả được nỗi âu sầu bị
dồn nén lâu nay lúc có dịp cất lên ngơn ngữ của mình.

+ Như vậy, hồn đang ở trong trạng thái vô cùng bức bối và đau khổ. Những câu cảm thán và dồn dập cùng với
ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên được điều đó. Hồn bức bối vì khơng thể nào thốt ra khỏi cái thân
xác ghê tởm ấy, Ghê tởm vì mình khơng cịn là chính mình nữa.Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, hồn là
thế yếu, đuối lý không thể cãi được bởi những điều xác nói dù đúng hay sai, muốn hay khơng hồn cũng phải

thừa nhận.Đó là cái đêm khi hồn đứng cạnh vợ xác thì “tay chân run rẩy”; “hơi thở nóng rực”; “cổ nghẹn lại” và
st nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn khơng thích và cho đó là
“phàm”. Hồn ghê tởm lúc ơng tát thằng con “tóe máu mồm máu mũi”,... Tất cả đều là sự thật. Xác còn gợi tả lại
một cách chi tiết những sự thật khiến cho hồn càng cảm thấy xấu hổ. Hồn đưa ra lời ngụy biện cho bản thân
bằng lí lẽ: “Ta vẫn sống một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.” nhưng lại bị xác cười nhạo và
khinh thường. Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là mình, nhưng cuối cùng phải
thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hố khơng có
cách gì chuyển biến được. Bi kịch của Hồn Trương Ba, vì thế, khơng những khơng được giải tỏa, mà cịn trở
nên đau đớn, xót xa hơn.
LĐ 2.
Trong cuộc đối thoại giữa hồn trương ba và xác hàng thịt, xác thắng thế nên hả hê cười nhạo và liên tục tuôn ra
những lời cười nhạo, chê bai với những lời thoại dài với chất giọng lúc thì mỉa mai lúc thì lên mặt dạy đời, chỉ
trích, châm chọc. Hồn chỉ bng những lời thoại ngắn cùng giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng
kêu thảm thiết.
Xác khôn ngoan, biết là lỡ lời nên đã biết tìm cách biện minh cho chính mình bằng lý lẽ: “là hồn cảnh” hay
“cũng đáng được q trọng”, khơng có tội. Hồn chỉ có phản ứng yếu ớt: “Nhưng… Nhưng”... Nhận biết Hồn bị
dồn vào thế bí, xác đưa ra giao kèo nhằm thỏa hiệp để chung sống bằng giọng nhẹ nhàng, vuốt ve hồn, xác chủ
động đưa ra “trò chơi tâm hồn”: “Những lúc một mình lẻ bóng, ơng cứ việc nghĩ rằng ơng có một tâm hồn bên
trong cao khiết, chẳng qua vì hồn cảnh, vì để sống mà ơng phải nhân nhượng tôi. Làm xong một điều xấu ông
cứ đổ lỗi cho tôi, để ông được thanh thản… miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của
tôi.” Nghe thấy xác nói xong, hồn nhận thấy được “lí lẽ ti tiện” của xác và thân lên một cách tuyệt vọng và bất
lực: “Trời! Đã là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thốt nhưng hồn
tồn vơ vọng”.
Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác nhận rõ ràng đã hiện lên với ưu thế của kẻ nắm đầu chuôi, nắm sự
thắng thế, chứng tỏ quyền uy của mình đối với hồn. Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được, cả hai phải
bổ sung và hoàn thiện cho nhau. Chính vì thế cuộc đấu tranh giữa hồn và xác chính là đấu tranh giữa linh hồn -
thể xác, vật chất - tinh thần, nội dung - hình thức, bản năng - lý tưởng, cao cả - tầm thường trong mỗi con
người, là giữa sự cao sang giữa phần con và phần người.

Đoạn 3. Đối thoại với người thân


Đoạn 4. Đối thoại với Đế Thích (1)

a. Phần đầu của màn đối thoại là cuộc tranh luận về quan niệm sống của Trương Ba và Đế Thích. Qua cuộc tranh
luận ấy, tác giả đề cao quan điểm sống – “phải sống là chính mình”.
Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tơi khơng thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể
được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tơi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý
chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
Tiếp đó, Trương Ba nêu lên một nhu cầu chính đáng cũng như một quan điểm sống cao đẹp – sống phải là chính mình:
“Bên trong khơng được, bên ngồi khơng được. Con muốn là con trọn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba,
sự bất nhất của bên trong và bên ngồi: “bên trong” là tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ và nhân cách cao đẹp của Trương Ba,
tâm hồn là tinh hoa chi phối thể xác, đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác sống của anh hàng thịt Nhưng “bề ngoài” cần
hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, bản năng, nhu cầu tự nhiên, khát vọng bản năng. thỏa hiệp với nhu cầu bản năng
Đây là nỗi dằn vặt, đau khổ và trăn trở của Trương Ba, hai người khơng thể dung hịa vì khơng thể có một tâm hồn cao
thượng trong một thân xác tội lỗi.Tài liệu của ơng Phan Danh Hiệu
Từ đó, Trương Ba lên tiếng địi hỏi những nhu cầu chính đáng của chính mình: “Ta muốn là ta trọn vẹn”. Đây là khát
vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng sống hịa thuận. “Tồn vẹn” nghĩa là phải có sự hài hịa giữa bên trong và bên
ngồi, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và tâm hồn. Khơng thể có sự sống là “hồn và xác”. Cuộc sống không
thuận theo tự nhiên, không thuận theo tự nhiên, sống khơng được là chính mình là một bi kịch nghiệt ngã.
Trước những yêu cầu của Trương Ba, Đế Thích cho rằng: “Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì“ trên trời dưới đất
”. Đế Thích chỉ ra rằng khơng chỉ Trương Ba sống bất nhất từ trong ra ngoài, nhưng ai cũng như vậy, nên Đế Thích
khuyên Trương Ba đừng cố làm hòn bi lăn ngược mà hãy biết chấp nhận, hãy biết thỏa hiệp, học cách chấp nhận. Đế

Thích dẫn chứng mình và Ngọc Hồng khơng được sống là chính mình: “Nhìn bề ngồi thì khơng thể sống theo suy nghĩ
bên trong, nhưng Ngọc Hồng cũng vậy, chính con người cũng có lúc phải nhào nặn. để xứng đáng với danh hiệu Ngọc
Hoàng. ” Như vậy, theo Đế Thích, “khơng ai được sống là chính mình”. Tài liệu của ơng Phan Danh Hiếu. Vì sống có
nghĩa là tồn tại, cịn tồn tại như thế nào thì cịn tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải phục tùng.
Đây là một quan niệm sống sai lầm đáng bị lên án.
Trương Ba bắt đầu đổi giọng tố cáo Đế Thích: “Sống nhờ đồ đạc, của cải người khác là điều khơng nên, đằng này, thân
mình cũng phải sống nhờ hàng thịt”. Trương Ba so sánh về đồ đạc, vật chất và bản thân. Việc mượn đồ đạc và của cải vật

chất từ người khác là điều không nên; sống nhờ, sống nhờ, sống ký sinh trên cơ thể người khác là một điều đáng xấu hổ
đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Anh ấy chỉ nghĩ đơn giản là để cho mình sống thơi, cịn sống thì khơng cần biết!”.
Dịng chỉ trích Di Thích quan niệm sai lầm bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Thích Ca Mâu Ni, sự sống là sự tồn
tại, khơng quan trọng nó tồn tại như thế nào. Đối với Trương Ba, sự sống không chỉ là sự tồn tại về mặt sinh học, mà cịn
là sự tồn tại có ý nghĩa.
* Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của Trương Ba – đó là cuộc
đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp.
b. Phần sau của màn đối thoại chủ yếu thông qua cuộc đấu tranh “tồn tại hay khơng tồn tại”. Cuộc đấu tranh này
tốt lên nhân cách cao thượng và đức hi sinh của Trương Ba.
Tiếp đó, Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: “Xác anh hàng thịt còn nguyên, ta sẽ trả lại cho anh. Cho hồn anh sống lại với
thân xác này”. Nhưng Đế Thích đã từ chối vì Đế Thích cho rằng linh hồn q giá của Trương Ba không thể thay thế được
linh hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba cho rằng: “Người tầm thường, nhưng chân chính… sinh ra để ở với
nhau”. Để khẳng định với lịng quyết tâm của mình, Trương Ba tỏ ra mạnh mẽ: “Nếu không cứu giúp, ta sẽ nhảy xuống
sơng, găm dao vào cổ thì hồn khơng cịn, xác hàng thịt”. Ý chí quật cường của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được
sống là chính mình”, và được “sống là chính mình” lúc này Trương Ba khơng cịn con đường nào khác ngồi cái chết. Bởi
chỉ khi chết đi, anh mới thực sự là chính mình, mới khơi phục được vẻ đẹp cao q trong tâm hồn. Đối với Trương Ba,
thiên đường đẹp nhất, nơi linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết là sống lại trong lịng những người u thương mình.

Đoạn 5. Đối thoại với Đế Thích (2)

3. Đánh giá NT:
- Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giưã cái phàm tục với cái
thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn
tại trong một con người.
+ Xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành
động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong.
+ Ngơn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính
cách nhân vật.
=> Thơng qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ gửi gắm sự cảnh báo của

mình vào đó: khi con người sống trong sự dung tục thì chắc chắn dung tục sẽ ngự trị và thắng thế, dẫn con
người đi vào sự tha hóa, lấn át dần những sự thanh cao, trong sạch và tốt đẹp. Đời sống đâu chỉ gói gọn trong
trong những nhu cầu thiết yếu của bản thân, mà còn rất nhiều thứ cần phải được quan tâm và dung hòa. Cuộc
đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và hoài bão với dục
vọng ham muốn tầm thường, giữa tầm thường và cao cả, giữa phần con và phần người luôn diễn ra hằng ngày,
hằng giờ trong mỗi con người.

4. Phân tích ý thứ hai của đề bài:
Nhận xét về triết lý nhân sinh:
- Khái niệm: triết lí nhân sinh là cách người ta nhìn cuộc đời hay là cái đạo làm người
- Biểu hiện của triết lí nhân sinh thể hiện trong đoạn trích:
+ Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng trân trọng. Một
cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hồ giữa linh hồn và thể xác.
+ Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác vạch ra quan
niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác.
+ Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả tạo
để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hồn thiện nhân cách.
- Đánh giá:

+ Cuộc đối thoại thể hiện bi kịch của nhân vật HTB: bị tha hoá, bị thể xác sai khiến. Tâm trạng đau khổ, giằng
xé trước cuộc sống trái tự nhiên.
+ Phẩm chất cao đẹp: luôn tự hào về đời sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn thẳng vào sự tha hoá của bản
thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh, với dục vọng tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Không thể tự an ủi, xoa dịu bản thân bằng những vẻ đẹp siêu hình của của tâm hồn, chính vì thế cần phải hoàn
thiện bản thân một cách toàn diện. Hoàn thiện bản thân chính là một cách để góp phần xây dựng xã hội văn
minh giàu đẹp. Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh còn dài và dai trong mỗi con người ở trên thế
giới này.
Thông qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ gửi gắm sự cảnh báo của mình
vào đó: khi con người sống trong sự dung tục thì chắc chắn dung tục sẽ ngự trị và thắng thế, dẫn con người đi
vào sự tha hóa, lấn át dần những sự thanh cao, trong sạch và tốt đẹp.

Đời sống đâu chỉ gói gọn trong trong những nhu cầu thiết yếu của bản thân, mà còn rất nhiều thứ cần phải được
quan tâm và dung hòa. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa
khát vọng và hoài bão với dục vọng ham muốn tầm thường, giữa tầm thường và cao cả, giữa phần con và phần
người luôn diễn ra hằng ngày, hằng giờ trong mỗi con người.
Ý nghĩa của triết lý “hãy sống là chính mình”:
Sự tồn tại của con người bao gồm một bộ phận con người và một bộ phận con người. Phần phụ mang tính bản
năng. Phận con người thuộc về nhân cách, là sự cao quý đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần con người đã
tạo nên con người thật sự. Ở đây hai hình ảnh hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phận con và phận người. Một bên
tượng trưng cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên thể hiện sự thô tục, thô tục. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn
mạnh, khơng thể có một tâm hồn cao thượng trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi
được sống là chính mình, hài hịa giữa thể xác và tâm hồn, bên trong và bên ngồi, nội dung và hình thức trong
một thể thống nhất hồn chỉnh, khơng phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: Bên trong, bên ngồi ”.
Để sống thật với chính mình, mỗi chúng ta cần biết cách cân bằng giữa việc chăm sóc tâm hồn cũng như trân
trọng và quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai
hạng người: một người chỉ biết tu bổ, chạy theo ham muốn vật chất mà không chăm lo đời sống tinh thần. Loại
cịn lại ln coi thường giá trị vật chất, bỏ bê việc chăm sóc bản thân, chỉ mong giữ cho tâm hồn đẹp. Thông
qua thể xác và tâm hồn, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng sống là chính mình mới là hạnh phúc đích thực của
con người. Vì vậy, trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự thô tục và vượt qua nghịch cảnh để hồn
thiện nhân cách của mình. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể là chính mình – là chính mình hồn tồn.

5. Mở rộng:
Liên hệ với Chí Phèo (có thể gộp vào phần 2)

III. Kết bài:
Ai khi sinh ra được làm con người cũng mang sẵn trong mình cả phần linh hồn và thể xác. Nhưng có khi sống

đến trọn cuộc đời mình đã mấy ai đặt ra câu hỏi liệu ta đã được sống là chính mình. Vấn đề này đã được Lưu

Quang Vũ đặt ra từ những thập niên 80 của thế kỉ XX. Chính vị vậy “Hồn Trương Ba da hàng thịt” vẫn còn là


vở kịch trăn trở lòng người. Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến

cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba.


×