Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đề 4. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945 và bài học về công tác xây dựng đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.08 KB, 14 trang )

Đề 4. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 –
1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG

I. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945

1. Hoàn cảnh lịch sử

2. Chủ trương của Đảng giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939
– 1945

II. Bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

1. Bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam

2. Vận dụng bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay

C. KẾT LUẬN

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO



A. MỞ ĐẦU

Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng đã khẳng định đường
lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đó là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng và
nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy mà cách mạng nước
ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục
diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh,
cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đến cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở
ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Có được những thắng lợi là do đường lối lãnh đạo của Đảng ta rất đúng đắn. Đó là
kinh nghiệm vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào những điều kiện cụ thể của Việt
Nam mà trong đó không thể không kể đến công lao to lớn của vị lãnh tụ vĩ đại
Nguyễn Ái Quốc. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em lựa chọn đề tài: “Chủ
trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945 và bài học về
công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.” làm đề tài tiểu luận.

B. NỘI DUNG
I. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 –

1945
1. Hoàn cảnh lịch sử


Tháng 9/1939. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Daladie (Daladier)
thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào
cách mạng ở thuộc địa. Tháng 6/1940, Dức tấn công Pháp. Chính phủ của Thủ
tướng Petanh (Pétain) dầu hàng Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng
6/1941, Đức tiến công Liên Xô.

Ở Đông Dương, bộ máy đàn áp dược tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố.
Ngày 28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng
sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngồi vịng pháp luật, giải tán các hội,
đồn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người...
Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng
tay đàn áp phong trào cách mạng: thực hiện chính sách tăng cường vơ vét sức

người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Tháng 9/1940, quân phiệt
Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật để thống trị và
bóc lột nhân dân Đông Dương. Nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ hai
tròng" Pháp - Nhật.Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Đờ Gôn (De
Gaulle) bỏ chạy. Chính phủ phản động Pêtanh (Pétain) lên cầm quyền. Tháng 6-
1941, Đức tiến công Liên Xô.

Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển. Tháng
12/1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh
chiếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và trong đất liền.

Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Thung kịp thời rút vào hoạt
động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các
đô thị. Ngày 29/9/1939, Trung ương Dảng gửi toàn Đảng một thông báo quan
trọng chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ nến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”

2. Chủ trương của Đảng giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939

– 1945

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về
nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế
quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ,
Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác
định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều
hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào
đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng
11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: (1).Đánh đổ đế quốc Pháp, vua
chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc.
(2).Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). (3).Lập
chính phủ cộng hòa dân chủ. (4). Lập quốc dân cách mệnh quân. (5).Quốc hữu hóa
những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên
rừng, dưới biển và dưới đất. (6).Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của
tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc,
nhà máy giao thợ thuyền quản lý. (7).Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế
quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền,
đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. (8).Thi hành luật lao động
ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. (9). Bỏ hết các thứ sưu thuế. (10).Thủ tiêu tất cả

các khế ước cho vay đặt nợ. (11).Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền
nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ
đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. (12).Phổ thông giáo
dục cường bách. (13).Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và
chính trị. (14).Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ

chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân
tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân
Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận
dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách
mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai
cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi
Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để
đánh đổ đế quốc Pháp”. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã
đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các
lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn
giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh
đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản
động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương
được hoàn toàn giải phóng”.

Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế;
cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng:
“cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm
trước cái làm sau”.

Ngày 28.1.1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10
đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng
minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và
phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu

cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa,
thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà

cách mạng nhiều nước thành công”. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật
chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột
cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp
giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật
ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông
Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách
mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền
địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải
phóng”. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho tồn dân tộc, thì chẳng
những tồn thể quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam
giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan
trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu
hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch
thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng
đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi
nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một
mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là:
“Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu
nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu
quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu

quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và
tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào,
Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với
Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt
trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập
đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp,
phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù
chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của
mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi
hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi

đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo
ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc
quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”.
Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19-5-1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng
phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh
với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn
giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đồn kết chiến đấu để đánh
đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại
còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh để
cùng thành lập Đông Dương độc lập đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho
nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ
nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá
cờ tồn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”.

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây
là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội

nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu
nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách
mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
vũ trang.

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang
cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền
từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng
lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo
người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5.1941) Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng
11.1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc,
chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và
quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập
hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ
thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc
cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng

này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai
cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng cộng sản
Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt
Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng
dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính
quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa

giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8
(tháng 5.1941) là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng
cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách
Mệnh” (1927) và cương lĩnh cách mạng đầu tiên (chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt, chương trình vắn tắt) của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị
thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là
sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị,
trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự
chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn
máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5-1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ
lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.

II. Bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay

1. Bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt, kiên quyết, kiên trì
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy, tổ chức

đảng, nhất là đồng chí Tổng Bí thư và người đứng đầu các cấp; sự đoàn kết thống
nhất trong toàn Đảng có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi Nghị quyết.

Thứ hai, chủ trương đúng đắn của Nghị quyết sẽ tạo được sự thống nhất về nhận
thức, hành động trong tồn Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân; đồng thời, đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho
việc hoạch định, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ ba, phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ "then
chốt" của công tác xây dựng Đảng, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, người
đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Thứ tư, xác định đúng trọng tâm trọng điểm và tạo ra đột phá trong thực hiện Nghị
quyết; kết hợp hài hòa giữa "xây" và "chống", kiên quyết xử lý nghiêm các trường
hợp suy thoái để tạo sự chuyển biến rõ nét trong thực hiện Nghị quyết.

Thứ năm, phải thực sự phát huy dân chủ, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn
ĐảngVận dụng bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay

2. Vận dụng bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay

2.1. Thực tiễn công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay


2.1.1. Một số kết quả đạt được

Một, công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng, luôn kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và không ngừng vận dụng, phát
triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định với đường lối đổi mới.

Các cấp uỷ Đảng đã kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá các đường lối, chủ trương của
Đảng thành các nghị quyết, chỉ thị, đề án, kế hoạch, chương trình hành động sát
với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị, thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ, khắc phục nhược điểm, giải quyết hiệu quả những vấn đề nảy sinh…

Hai, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được tăng cường, đã góp phần
nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận
trong xã hội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo có chuyển biến tích cực. Việc tuyên

truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đã góp phần nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong cán bộ,
đảng viên, nhất là trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh,
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển
biến tích cực.

Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng có
nhiều đổi mới, thường xuyên tổ chức hội nghị trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở,
tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa nghị quyết
vào cuộc sống, chất lượng học tập, quán triệt được nâng lên, tiết kiệm thời gian,
kinh phí.

Ba, công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao. BCH Trung ương đã ban

hành Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã nhận
diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ; Quy định 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ
Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ,
đảng viên, kịp thời chấn chỉnh tác phong công tác, lối sống xa hoa, lãng phí gây
phản cảm trong xã hội và gương mẫu thực hiện nếp sống văn minh, giản dị, tiết
kiệm; Quy định 08-QĐi/TW của BCH Trung ương về trách nhiệm nêu gương của
cán bộ, đảng viên; Các cấp uỷ Đảng cơ quan, đơn vị xây dựng và ban hành quy
định về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ và đặc điểm cụ thể của đơn vị mình, làm cơ sở để cán bộ, đảng viên tu dưỡng,
rèn luyện, phấn đấu trong công tác và sinh hoạt.

Công tác xây dựng Đảng về đạo đức đã góp phần đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hoá" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán
bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm
và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Bốn, xây dựng tổ chức Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên: Hầu hết các đơn
vị, cơ quan nhà nước thực hiện chủ trương hợp nhất bí thư cấp uỷ đồng thời là thủ
trưởng đơn vị. Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên. Nhiều chi bộ
đã đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng, quý; tăng cường sinh hoạt
chuyên đề, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt
đảng.

Việc đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát
với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa

phương, cơ quan, đơn vị. Công tác khen thưởng tổ chức Đảng, đảng viên được
thực hiện kịp thời, chặt chẽ, đúng đối tượng.

Năm, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới,
đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động
kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh. Qua công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được siết chặt hơn, bước đầu
đã có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức
Đảng và cán bộ, đảng viên…

2.1.2. Một số vấn đề đặt ra

Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận không nhỏ CB,ĐV cịn diễn ra nghiêm trọng.

Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng chưa được quan tâm chỉ
đạo đúng mức; nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ
năng lực lãnh đạo, chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh.

Công tác tư tưởng, lý luận còn nhiều bất cập và tính thuyết phục, tính chiến đấu
chưa cao; chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng đặt ra trong thực tiễn
công cuộc đổi mới.

Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém; nguyên tắc tập trung
dân chủ chưa thực hiện nghiêm; nền nếp, chế độ sinh hoạt đảng, nội dung sinh hoạt
chi bộ chậm được đổi mới; chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát chưa
cao; tự phê bình và phê bình yếu; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực cịn
xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi.


Việc đánh giá tổ chức đảng, CB,ĐV của một số tổ chức đảng chưa đúng thực chất;
công tác kết nạp đảng viên còn chú ý nhiều đến số lượng, chưa chú trọng đúng
mức đến chất lượng...

Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, song vấn đề cơ bản là: Đảng ta “chậm đổi
mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy

đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm
quan điểm, chủ trương; chưa cụ thể hoá và tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ một
số quan điểm lớn, đúng đắn về xây dựng Đảng đã đề ra trong Cương lĩnh và các
nghị quyết của Đảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm,
chưa thống nhất, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị, đổi mới kinh tế”... Một bộ phận không nhỏ CB,ĐV, kể cả một số cán bộ
chủ chốt các cấp, thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống
và năng lực công tác, chạy theo chủ nghĩa cá nhân, không hoàn thành nhiệm vụ,
nhưng chưa được xử lý kịp thời...

2.2. Giải pháp

Đảng phải nhận rõ và khắc phục có hiệu quả những yếu kém, khuyết điểm trong
công tác xây dựng Đảng; đồng thời, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, hồn
thiện đường lối đổi mới, nâng cao năng lực cầm quyền và năng lực tổ chức thực
hiện nghị quyết của các cấp uỷ, tổ chức đảng. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn hết sức quan trọng đối với Đảng ta hiện nay. Để thực hiện được yêu cầu
trên, Đảng phải tiếp tục đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện
mới; nhận thức đúng đắn một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương
lớn về xây dựng Đảng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng
XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cấp bộ đảng cần bám sát cơ sở, chỉ đạo, cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ những nội dung về xây dựng Đảng
đã được xác định trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng; tránh tình trạng đề

ra nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng Đảng, nhưng chậm triển khai tổ chức thực
hiện, hoặc tổ chức thực hiện nhưng kém hiệu quả. Cùng với đó, Đảng phải tập
trung xây dựng và hoàn thiện cơ chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ
chức để nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước; thường xuyên bám sát sự phát triển của tình hình, tổng kết thực tiễn,
phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, góp phần bổ sung, hoàn thiện
và phát triển đường lối của Đảng.

Đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
sống của CB,ĐV; tích cực phịng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Để
thực hiện tốt vấn đề đó, các cấp cần xây dựng và thực hiện bằng được các nguyên
tắc, thể chế thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và sự giám sát của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước. Các tổ chức đảng phải đặc biệt quan tâm công tác xây dựng
Đảng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; phải coi trọng tự giác học tập, rèn
luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước
Đảng, trước nhân dân, thật sự tiền phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc.

Toàn Đảng, trước hết là các cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu từng địa
phương, đơn vị phải có quyết tâm chính trị cao, tiến hành cuộc đấu tranh kiên
quyết, liên tục trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng đạt hiệu quả cao.
CB,ĐV, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao, cần phải thực sự làm gương, đi đầu trong
rèn luyện đạo đức, lối sống và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng; các tổ chức
đảng cần xử lý kiên quyết, kịp thời những vụ việc tham nhũng, làm trong sạch nội
bộ Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố
lòng tin và mối quan hệ đoàn kết máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong thời kỳ
mới.

Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Trước hết là đẩy mạnh việc học tập, làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thiết thực, có hiệu quả
gắn liền với đấu tranh chống suy thoái, tiêu cực về đạo đức, lối sống, “tự diễn

biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức
cách mạng phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với điều
kiện mới. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đấu tranh có hiệu quả chống chủ
nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, tham nhũng. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, tự rèn
luyện, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự và lòng tự trọng của cán bộ, đảng viên.
Biểu dương, tôn vinh những điển hình tiên tiến, những tấm gương sáng về đạo đức,
lối sống. Đề cao trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu. Kết hợp đề cao
kỷ luật, kỷ cương, pháp luật với bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.

Tăng cường đổi mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về công tác cán bộ. Theo đó,
các cấp ủy cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và
quản lý vững mạnh về chính trị, gương mẫu về đạo đức, lối sống, có trí tuệ, kiến
thức, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Trong tiến hành công tác
cán bộ, cần xem trọng cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, trọng dụng nhân tài và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài, dù người đó
là đảng viên hay người ngoài Đảng. Các cấp ủy cần cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ; đồng thời, phát
huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu tổ chức trong hệ thống chính
trị về công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải bảo đảm tính đồng bộ, có cơ
cấu hợp lý, chất lượng cao; làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, các
chuyên gia đầu ngành. Các cấp cần thực hiện tốt cơ chế tuyển chọn, quản lý, giám
sát cán bộ; trước khi bổ nhiệm, đề bạt phải tiến hành lấy tín nhiệm của CB,ĐV và
quần chúng trong cơ quan, đơn vị, kiên quyết không bổ nhiệm những cán bộ có uy

tín thấp. Đảng cần nghiên cứu đổi mới và hồn thiện chế độ bầu cử, mở rộng thực
hiện bầu cử có số dư, mở rộng quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương
án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ; khắc phục tình trạng chạy chức, chạy
quyền trong đội ngũ cán bộ. Việc nhận xét, đánh giá cán bộ phải công tâm, khách

quan, trên cơ sở tiêu chuẩn và tín nhiệm của quần chúng là thước đo chủ yếu; tránh
mọi biểu hiện tiêu cực, động cơ thiếu trong sáng khi đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán
bộ. Trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú ý lịch sử chính trị, song cũng phải
hết sức coi trọng vấn đề chính trị hiện nay.

Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, kịp thời làm
sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc mà cuộc sống đặt ra. Cùng với việc kiên định
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng cần nghiên cứu làm sáng tỏ thêm nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta, về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; về Đảng cầm quyền
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Đảng trong các doanh
nghiệp có vốn liên doanh với nước ngoài; xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng...

Học tập và noi theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ trên những nội dung căn bản.
Tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng vì độc lập dân tộc và CNXH. Đặt lợi
ích quốc gia, dân tộc, của sự nghiệp cách mạng lên trên hết, trước hết, “Dĩ công vi
thượng”, không sa vào chủ nghĩa cá nhân. Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, không tham nhũng, mưu lợi riêng, không phạm những tiêu cực khác. Trung
thực với Đảng, với tập thể, với đồng chí, đồng sự, thương yêu nhân dân, sống vì
mọi người, không làm điều gì khuất tất. Khiêm tốn, giản dị, trong sạch, ham học
hỏi và trọng danh dự.

C. KẾT LUẬN

Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 93 năm qua đã
chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam.
Thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng
trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy,

kỳ vọng của nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không
có một lực lượng chính trị nào khác, ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản
lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Sự hình thành, phát triển, hồn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân

tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945 , PGS.TS Đào Duy Quát - Nguyên Phó
Trưởng ban thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa TW
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
4.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam, TS. Nguyễn Thành Vinh

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sdd t.6, tr. 756,

/>trong-tinh-hinh-hien-nay-40

/>hinh-moi-may-van-de-dat-ra/3301.html


×