Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Liên hệ môn quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.19 KB, 32 trang )

BÀI 8

Để thực hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng đã xác định những điểm nổi bật về phương hướng đối ngoại:

Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hịa bình,
ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước
phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn nhận vai trị quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra
những nhiệm vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” khơng chỉ có ngoại giao mà cả quốc
phịng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và
Nhà nước. Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 (tháng 8-2013):
Trong thời bình, cơng tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan trọng, cùng với quốc phịng - an ninh đóng vai trị tiên
phong, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.

Hai là, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp
tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ
XIII còn xác định đây là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển
của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hịi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Ba là, Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên
các lĩnh vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi ích cao hơn. Hội
nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với việc “Tích cực triển khai các
cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội”.

Bốn là, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển mới. Về song phương, chúng ta
cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng


độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây
dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng,
có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể”. Đây là bước phát triển quan trọng
về lý luận và thực tiễn từ Đại hội XII và Chỉ thị 25-CT/TW của Ban Bí thư. Điều này phù hợp thế và lực mới của đất nước
cũng như những địi hỏi thực tiễn mới đối với cơng tác đối ngoại.

Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ thống chính trị vào việc bảo
đảm mơi trường hịa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo vệ chủ quyền,
biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp
quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh, hợp tác
và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại
cũng phải “Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”.

Sáu là, văn kiện khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài. Văn kiện nêu rõ “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngồi có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời
sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều
kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lịng tự hào, tự tơn dân tộc. Làm tốt cơng tác thơng
tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc,

1

có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngồi đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Đây sẽ là phương hướng để xây dựng những chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội nhập
với xã hội sở tại, đồng thời tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bảy là, “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân”. Tính “tồn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và đa phương, trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, thông tin đối ngoại, công tác về người Việt Nam ở nước ngồi, bảo hộ cơng dân…, qua đó phát

huy hiệu quả sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước, ngoại giao sẽ
không chỉ triển khai các nhiệm vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mơ, mà cịn phục vụ trực tiếp các địa phương, doanh nghiệp, người
dân, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để mở rộng địa bàn, thị trường, tranh thủ nguồn
ngoại lực cho phát triển của đất nước. Đây sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm tới. Tính “hiện đại” của
ngoại giao được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, tổ chức
bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, qua đó phục vụ tốt mục tiêu
phát triển của đất nước.

Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, công tác cán bộ là “then chốt
của then chốt”. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi
mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của
tình hình”. Qua đó nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo
đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ ngày một cao hơn trong tình hình mới.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là kim chỉ nam cho việc triển khai công tác đối ngoại, thể hiện
mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy, phù hợp thực tiễn, cũng như với thế và lực mới của đất nước. Chỉ với
bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ, đồng lịng
nhất trí của tồn hệ thống chính trị và toàn dân, chúng ta mới thực hiện được thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập
quốc tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của đất nước trong những năm tới.

BÀI 3
Đề xuất một số giải pháp tăng cường quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.

- Tiếp tục thực hiện nhất quán và xuyên suốt quan điểm của Đảng, Nhà nước và QĐND Việt Nam là luôn coi trọng
quan hệ với Trung Quốc, luôn làm hết sức

mình để củng cố, tăng cường mối quan hệ truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược

toàn diện với Trung Quốc.K iên trì nỗ lực thực hiện tốt phương châm “láng giềng


hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí

tpốhtá, tđtốriiểtnácctủốat”q, uluaônnhnệắVmiệvtữtnogànphdưiệơnng hướng

Việt - - Trung, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung không ngừng

- Về chính trị, phhấi tntưriớểcn lcêấnppchoa trước.

giữa hai Đảng, hai nước tiếp tục duy trì truyền thống tốt đẹp tiếp xúc mật thiết bằng các hình thức

linh hoạt, kịp thời trao đổi ý

kiến về tình hình quốc tế, khu vực và những vấn đề quan trọng trong quan hệ song phương, không ngừng đi sâu

trao đổi chiến lược, củng cố tin cậy chính trị, tăng triển của quan hệ Việt - Trung;
cường sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với sự phát
khuyến khích việc giao lưu giữa các ngành, các cấp, các địa phương; phối hợp trao đổi lý luận và thực tiễn về xây

dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới.

nước cần có những cuộc tham vấn bàn bạc cụ thể, ủng hộ

lẫn nha-uVtrềênđốnihnữgnogạid,ihễani đàn khu vực và quốc tế, tiếp tục phối hợp chặt chẽ ở các diễn đàn đa phương, nhất là

2

các hoạt động tại Liên hợp quốc, ASEAN, tiểu vùng Mekong, nhóm cơng tác phát triển vùng biên giới và các
hoạt động hợp tác trong hổ hợp tác, liên kết song phương, khu vực, quốc tế.

khuôn k

- Về lĩnh vực thương mại, hai nước cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động hợp tác thương mại, tăng kim

ngạch xuất nhập khẩu, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau trên cơ sở quan hệ đặc biệt sẵn có. Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục
trao đổi kinh nghiệm đối với các lĩnh vực cùng quan tâm về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trung
Quốc trỗi dậy về kinh tế, cũng là một cơ hội khá lớn cho phát triển thương mại và đầu tư hai chiều giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Khi quan hệ kinh tế phát triển, sẽ gia tăng đan xen lợi ích và củng cố lịng tin lẫn nhau. Với vị trí là một nước
láng giềng, cửa ngõ quan trọng, các nước, các tập đoàn lớn của thế giới sẽ quan tâm đầu tư vào Việt Nam để hướng sản
phẩm vào Trung Quốc
3. Từ sự điều chỉnh chiến lược của Nhật Bản, địi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm
tăng cường mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong thời gian tới:

* Tình hình quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong những năm gần đây
Việt Nam và Nhật Bản là hai dân tộc có mối quan hệ từ lâu đời với nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hóa, truyền thống,
giá trị nhân văn. Thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 9 năm 1973, trải qua 48 năm, Việt Nam và Nhật Bản đã trở thành
đối tác ngày càng quan trọng của nhau trên nhiều lĩnh vực. Từ khi hai nước nâng cấp quan hệ lên “Đối tác chiến lược sâu
rộng vì hịa bình và phồn vinh ở châu Á” (tháng 3 năm 2014), quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã có bước phát triển mạnh
mẽ, tồn diện và thực chất.

Một là, trên lĩnh vực chính trị - an ninh: Lãnh đạo hai nước đã tiến hành thường xuyên các chuyến thăm và làm việc cấp
cao nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và thúc đẩy quan hệ Nhật - Việt phát triển ngày càng sâu rộng hơn. Điều đáng
chú ý là trong quan hệ giữa hai nước, Nhật Bản thường không gắn vấn đề hợp tác kinh tế với cái mà phương Tây gọi là
“vấn đề dân chủ, nhân quyền” ở Việt Nam. Hai nước có lợi ích tương đồng trong việc duy trì hồ bình, ổn định ở khu vực
và coi an ninh quốc gia là bộ phận khăng khít của an ninh khu vực và thế giới. Vì vậy, hai nước đã có nhiều biện pháp tăng
cường hợp tác trong các lĩnh vực chính trị - an ninh cả trong quan hệ song phương lẫn trên các diễn đàn đa phương.

Hai là, trên lĩnh vực kinh tế: Năm 2022, tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam dự báo có lãi trong hoạt động
kinh doanh là 59,5%, tăng 5% so với năm 2021. Đặc biệt, các dự án quy mô lớn mà các Tập đoàn kinh tế đa quốc gia hàng
đầu của Nhật Bản như: Canon, Panasonic, Toyota, Honda, Yamaha, Suzuki, Mitsubishi, Sumitomo…đầu tư vào Việt Nam
đã kéo theo rất nhiều nhà đầu tư vệ tinh vào Việt Nam. Năm 2022, kinh tế Việt Nam tiếp tục khởi sắc với tốc độ tăng
trưởng đạt 8,02%, cao nhất trong 10 năm qua. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với cả nước năm 2022 đạt 732,5 tỷ USD,

cao nhất từ trước đến nay….Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2022 ước đạt gần 22,4 tỷ USD,
tăng 13,5% so với năm 2021. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất trong 5 năm qua. Với kết quả
thu hút FDI tích cực, Việt Nam lần đầu tiên được Liên hợp quốc đưa vào danh sách 20 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế
giới. Theo dự báo về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2023 của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) sẽ đạt 6,2%, còn Ngân
hàng Thế giới (WB) dự báo đạt 6,7%.Đạt được những thành tựu nêu trên, bên cạnh sự nỗ lực lớn, quyết tâm cao của Việt
Nam, cịn có sự hợp tác chặt chẽ, phối hợp hiệu quả, hỗ trợ kịp thời của cộng đồng quốc tế, trong đó có Chính phủ, nhân
dân và các doanh nghiệp Nhật Bản.Hai nước vẫn còn rất nhiều dư địa, tiềm năng hợp tác, bổ sung lẫn nhau. Thời gian tới,
hai nước Việt Nam - Nhật Bản cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác đầu tư, nhất là trong các lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn; mở

3

rộng quan hệ hợp tác thương mại, trong đó trọng tâm là khai thác các tiềm năng, lợi thế, cơ hội của các thỏa thuận Hiệp
định đã ký kết song phương và đa phương.

Ba là, trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, giáo dục - đào tạo: Quan hệ Nhật - Việt cũng có những bước tiến khả quan, diễn ra
dưới nhiều hình thức khá phong phú, đa dạng như trao đổi các đoàn nghệ thuật; tổ chức các ngày văn hoá, tháng văn hoá
của Việt Nam, của Nhật Bản ở từng nước; dịch, xuất bản các tác phẩm văn hoá; cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam học
tập ở Nhật hay cho các cán bộ, giảng viên Việt Nam sang Nhật dự các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý, quản trị - kinh
doanh, ... .

Sự hợp tác, giúp đỡ của Nhật Bản trong lĩnh vực y tế, trong việc phát triển khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác cũng
rất đáng ghi nhận.

Bốn là, hợp tác phịng, chống Covid-19: Chính phủ và Quốc hội Việt Nam hỗ trợ hẩu trang y tế và khẩu trang vải cho Nhật
Bản. Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế thông qua hợp tác song phương cũng như qua các tổ chức quốc
tế, đồng thời cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ theo nhu cầu của Việt Nam; đưa công dân Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm
việc tại Nhật Bản vào đối tượng được cấp khoản tiền hỗ trợ 100.000 Yên/người (khoảng 950 USD).

Một số địa phương của Việt Nam chủ động hỗ trợ Nhật Bản đối phó với dịch bệnh. Việt Nam cũng đã hỗ trợ, tạo điều kiện
cho gần 600 chuyên gia, lãnh đạo doanh nghiệp Nhật Bản quay trở lại Việt Nam làm việc; đón hơn 5.100 công dân Việt

Nam bị mắc kẹt tại Nhật Bản về Việt Nam.

Nhìn chung, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản có thể nói đã đạt đến tầm cao chưa từng có trong lịch sử quan hệ song phương,
thậm chí vượt qua quan hệ giữa Nhật Bản với Thái Lan, Philippines và các đối tác truyền thống khác tại Đông Nam Á.
Nhật Bản và Việt Nam thực sự bước vào “thời kỳ trăng mật”.

* Giải pháp tăng cường quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong giai đoạn hiện nay
Việt Nam khẳng định Tuyên bố “Quan hệ đối tác chiến lược vì hịa bình và phồn vinh ở Châu Á” đã được ký kết với Nhật
Bản là kim chỉ nam đánh dấu bước phát triển về chất trong mối quan hệ truyền thống giữa hai nước.

Thứ nhất, hợp tác chính trị: Trong những năm tới, lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục duy trì các cuộc tiếp
xúc với lãnh đạo Nhật Bản nhằm tạo sự gần gũi, tin cậy và hiểu biết lẫn nhau để giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh
trong quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà Nước. Đồng thời, hai bên thống nhất tiếp tục khuyến khích các cơ quan Quốc hội mỗi
nước tiến hành hoạt động giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác lập pháp; tăng cường phối hợp, ủng hộ lẫn nhau trên
các diễn đàn liên nghị viện quốc tế. Về lâu dài, mục tiêu cơ bản nhất của nước ta trong quan hệ với Nhật Bản là đưa quan
hệ “Đối tác chiến lược vì hịa bình và phồn vinh ở châu Á” phát triển đi vào chiều sâu, thực chất, bền vững và hiệu quả. Với
mong muốn tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa quan hệ chính trị - ngoại giao trên tinh thần chủ động, linh hoạt trong mọi tình
huống, Chính phủ hai nước Việt Nam và Nhật Bản cần chú trọng:

Một là, tăng cường hơn nữa các cuộc thăm viếng và tiếp xúc cấp cao. Thiết lập cơ chế giao lưu cấp cao hàng năm dưới
nhiều hình thức: đối thoại chính trị, giao lưu an ninh - quốc phịng và các đồn nghị sĩ. Tăng cường quan hệ với hoàng gia
Nhật Bản, tiếp tục củng cố mối quan hệ cá nhân tin cậy giữa lãnh đạo cấp cao hai nước.

Hai là, duy trì và khơng ngừng mở rộng các kênh tiếp xúc giữa hai Chính phủ, các ngành, các cấp, địa phương và khối
doanh nghiệp hai nước. Ngồi các cơ chế đối thoại đã có (đối thoại chính trị cấp Thứ trưởng, ngoại giao - quốc phòng cấp
Vụ, lãnh sự cấp Vụ v.v.), cần nâng cấp đối thoại chính trị lên cấp Bộ trưởng, Ngoại giao; đối thoại quốc phòng lên cấp Thứ
trưởng. Triển khai hoạt động có hiệu quả Ủy ban hợp tác Việt - Nhật trên tất cả các lĩnh vực.

Ba là, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng chính trị lớn ở Nhật Bản. Từng bước
thiết lập quan hệ giao lưu định kỳ với các đảng lớn cầm quyền tại Nhật như Đảng Dân chủ tự do (LDP), Đảng Dân chủ

Nhật Bản (DPJ), duy trì quan hệ truyền thống với Đảng Cộng sản Nhật Bản trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tôn trọng lẫn
nhau.

Bốn là, tăng cường giao lưu giữa Quốc hội hai nước.

4

Năm là, triển khai mạnh mẽ hoạt động “ngoại giao nhân dân”, tăng cường các mối quan hệ tiếp xúc, hợp tác giữa các địa
phương, đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau. Ủng hộ, khuyến khích hoạt động kết
nghĩa giữa các địa phương hai nước.

Sáu là, trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên hiệp quốc và Luật pháp quốc tế, Việt
Nam ủng hộ Nhật Bản tăng cường vai trị chính trị và an ninh trong khu vực, ủng hộ việc Nhật Bản trở thành Ủy viên
thường trực của Hội đồng Bảo An Liên hiệp quốc.

Bảy là, hai nước cần tăng cường hợp tác, ủng hộ các mục đích, kế hoạch của nhau trên các diễn đàn quốc tế và khu vực
cùng tham gia như Liên hiệp quốc, WTO, APEC, ASEAN+3, EAS, ASEM, ... .

Ngồi ra, Việt Nam nên tỏ thái độ tích cực với những sáng kiến, đề xuất của Nhật Bản trong các diễn đàn ASEAN, APEC,
ASEM và Liên hiệp quốc với mục tiêu chung góp phần tạo dựng một khu vực Đông Á vững mạnh.

Thứ hai, hợp tác Kinh tế - Thương mại: Kinh tế được cho là lĩnh vực nổi bật nhất cả về tầm quan trọng và thực tiễn sinh
động trong mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản hiện nay. Là đối tác kinh tế hết sức quan trọng của Việt Nam trong khu vực
cũng như trên thế giới, Nhật Bản hiện đang đứng vị trí thứ ba trong số các nhà đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Đồng thời
Việt Nam cũng là một trong những nước nhận được nhiều viện trợ ODA nhất từ Nhật Bản. Trước xu thế phát triển của nền
kinh tế tri thức trên thế giới và sự tăng trưởng kinh tế khu vực, việc thu hút và sử dụng FDI cũng như nguồn viện trợ ODA
của Nhật Bản cần được chú ý nâng cao tính hiệu quả hơn nữa. Lấy mục tiêu phục vụ cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế Việt Nam theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh khơng chỉ trong phạm vi liên
kết kinh tế Đông Á mà tiến tới cả châu Á và toàn cầu, nguồn ODA, FDI của Nhật Bản là hướng cung cấp vô cùng quý báu
đối với nước ta.


Trước hết, Việt Nam cần có các cơ chế, chính sách, các biện pháp nhất quán (phù hợp với cam kết quốc tế của ta trong
khuôn khổ WTO, IMF) nhằm xây dựng nước ta thành một môi trường đầu tư sản xuất thuận lợi, một trung tâm đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyển giao công nghệ của Nhật Bản trong khu vực Đông Nam Á.

(1) Về ODA, tiếp tục tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA của Nhật Bản, xây dựng các biện pháp

kiểm sốt, phịng chống tham nhũng, thất thốt nguồn vốn ưu đãi. Đồng thời, cần triển khai chính sách đồng bộ, cải thiện

môi trường đầu tư ở Việt Nam, tập trung vận động các tập đoàn lớn của Nhật Bản xây dựng cơ sở hạ tầng tại nước ta.

(2) Về FDI, cần thực hiện tốt “Sáng kiến chung Nhật - Việt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh với mục

tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh của Việt Nam” theo đó Nhật Bản cam kết đóng góp chun gia và tài chính cho dự án

này để cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam; xác định rõ hướng thu hút đầu tư nước ngoài từ Nhật Bản, xây dựng nước

ta thành một trong những trung tâm sản xuất hàng điện tử, công nghệ thơng tin, cơ khí chế tạo trong khu vực; khẩn trương

xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ và đào tạo đội ngũ thợ lành nghề.

(3) Về thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, làm tốt cơng tác nghiên cứu thị

trường và tiếp thị, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, tăng mặt hàng chế biến tinh xảo, giảm ngun liệu thơ và hàng sơ

chế.

Ngồi ra, Hai nước cần có những chiến lược cụ thể nhằm triển khai tích cực Hiệp định đối tác kinh tế Việt - Nhật và tăng
cường hoạt động có hiệu quả của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt - Nhật nhằm thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Việt Nam cần tích cực vận động Nhật Bản sớm cơng nhận nước ta có nền kinh tế thị trường đầy đủ, tạo điều kiện cho việc

khuyến khích và thu hút nguồn vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Nhiệm vụ trước mắt của Việt Nam là tập trung
nguồn ODA và FDI từ Nhật Bản vào các cơng trình trọng điểm về cơ sở hạ tầng và công nghệ cao.

Thứ ba, hợp tác An ninh - Quốc phòng: Nhật Bản rất coi trọng vai trò của Việt nam trong chiến lược Châu Á - Thái Bình
Dương nên chủ trương đẩy mạnh quan hệ quốc phòng với nước ta:

(1) Quốc phòng: Chú trọng hợp tác trao đổi thông tin về chống khủng bố, chống cướp biển, buôn lậu đường

biển và đường không; tăng cường giao lưu văn hóa, thể thao giữa quân đội hai nước; mở rộng hợp tác về đào tạo quân sự,

nhất là về công nghệ thông tin, hải quân, quân y; học tập kinh nghiệm về đào tạo của nước bạn trong phịng chống thiên tai,

tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn phù hợp với nhu cầu và khả năng của Việt Nam.

5

(2) An ninh: Xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài và có hiệu quả với Nhật trên các lĩnh vực an ninh, nội vụ và

tình báo; gia tăng hợp tác giao lưu nghiệp vụ, chia xẻ thông tin về tội phạm, khủng bố; mở rộng hợp tác trong lĩnh vực đào

tạo cán bộ cảnh sát, cán bộ khoa học kỹ thuật, giám định viên khoa học hình sự, cán bộ phịng cháy chữa cháy, ... .

Thứ tư, hợp tác văn hóa - giáo dục: Tăng cường giao lưu văn hóa Việt - Nhật; thường xuyên tổ chức các Lễ hội Văn hóa
Việt Nam tại Nhật Bản và hỗ trợ Nhật Bản tổ chức Lễ hội văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam; khuyến khích và tạo thuận lợi để
Nhật Bản mở rộng các hoạt động quảng bá văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam. Liên quan đến việc tổ chức xúc tiến các hoạt
động giao lưu, hợp tác, truyền bá văn hóa giữa hai nước, cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của Hội Hữu nghị Việt Nam -
Nhật Bản. Thông qua tổ chức phi chính phủ này, nhân dân hai nước có thêm một cầu nối để ngày càng hiểu hơn về truyền
thống văn hóa dân tộc của nhau. Phấn đấu tăng số lượng học sinh cao đẳng, lưu học sinh, nghiên cứu sinh nhận học bổng
của Chính phủ và các tổ chức Nhật Bản.


Thứ năm, hợp tác trên các lĩnh vực khác:

(1) Khoa học - Công nghệ: Xác định được các hướng ưu tiên hợp tác trong thời gian tới trên cơ sở và thế

mạnh của hai nước, bao gồm: Công nghệ thông tin và viễn thông (ICT), công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ

vật liệu mới, điện tử và tự động hóa, dầu khí (thăm dị, khai thác và chế biến dầu khí), năng lượng (cơng nghệ tiết kiệm và

sử dụng năng lượng hiệu quả), công nghiệp phụ trợ, cơng nghệ vũ trụ; khuyến khích và tranh thủ chuyển giao công nghệ và

quản lý khoa học - cơng nghệ góp phần đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.

(2) Du lịch - Dịch vụ: Xây dựng chiến lược phát triển du lịch với Nhật Bản nhằm đi đến sớm ký kết Hiệp

định hợp tác du lịch giữa hai nước. Việt Nam đang khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản thành lập các công ty liên doanh

du lịch giữa hai nước, phối hợp với ngành thơng tin - văn hóa và nhiều cơ quan hữu quan khác của Việt Nam, với trung tâm

ASEAN - Nhật Bản tại Tokyo, để tăng cường nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại thị trường Nhật Bản.

Trước mắt, Việt Nam cần khẩn trương xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực của ngành du lịch đáp ứng yêu

cầu của du khách nước ngồi nói chung và du khách Nhật nói riêng.

(3) Về Lao động: Nhật Bản là một thị trường lao động nhiều tiềm năng nhưng địi hỏi lao động phải có kỹ

thuật cao. Lao động Việt Nam được đưa vào Nhật Bản thường dưới hình thức tu nghiệp sinh (TNS). Chính phủ Việt Nam,

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định Nhật Bản là địa bàn trọng điểm trong việc phái cử TNS và xuất khẩu lao


động. Cần chú trọng giáo dục định hướng, tăng cường công tác quản lý TNS trong quá trình đào tạo để loại bỏ những người

không đạt yêu cầu về học tập, sinh hoạt, tác phong và lối sống. Bên cạnh đó, Việt Nam cần phối hợp với các cơ quan chức

năng của Nhật Bản để phát hiện và xử lý các TNS bỏ trốn, các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng TNS bỏ trốn và các tổ chức

lôi kéo lừa gạt TNS.

Thứ sáu, thu hút đầu tư trước đại dịch Covid-19: Để níu chân và thu hút thêm nhiều nhà đầu tư Nhật Bản, bên cạnh việc
tiếp tục nâng cao hiệu quả chính sách, hồn thiện mơi trường đầu tư, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương của Việt
Nam cũng cần có sự linh hoạt hơn nữa trong cơng tác phịng, chống dịch bệnh. Trong đó khơng chỉ cần đẩy mạnh tốc độ và
hiệu quả tiêm vaccine cho người lao động, sớm giải quyết các khó khăn về logistic và chuỗi cung ứng, giảm thiểu tối đa
những tác hại bất lợi từ dịch Covid-19, Chính phủ cũng nên xem xét giảm thời gian giãn cách, đồng thời tạo thuận lợi để
các chuyên gia, nhà đầu tư Nhật Bản đến Việt Nam làm việc, khảo sát môi trường đầu tư và triển khai dự án.

- Tóm lại, phân tích sự điều chỉnh chiến lược của Nhật bản từ năm 2021 đến nay và đưa ra các giải pháp tăng

cường mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản nhằm góp phần đưa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản phát triển đi vào chiều sâu

thực chất, tương xứng với tầm vóc cần có của mối quan đối tác chiến lược giữa hai nước. Đồng thời, hoạch định đường

lối, đề ra các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ thương mại và đầu tư cho nhau, cải thiện môi trường kinh doanh hấp

dẫn... để thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện.

- ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ TRONG GIAI ĐOẠN

HIỆN NAY.

- Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến nay, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung


Quốc… tiếp tục điều chỉnh chiến lược nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế. Điều đó đã và đang tác động lớn, cả tích cực và

tiêu cực, tới kinh tế các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

6

- Tác động tích cực đến Việt Nam: mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các nước lớn và các trung tâm hàng đầu

thế giới. Đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam đã có

độ mở khá cao, kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt quá 150% GDP, lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam ngày càng gia

tăng; Việt Nam cũng đã xây dựng 15 khu kinh tế ven biển, 28 khu kinh tế cửa khẩu, với một số chính sách ưu đãi nhằm thu

hút các nguồn lực từ bên ngoài. Giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời từng bước giải

quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên biển với các nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận

lợi để quản lý biên giới, bảo vệ chủ quyền, mở rộng hợp tác quốc tế, góp phần củng cố hịa bình, ổn định trong khu vực.

Những lợi thế trên đã tạo cho Việt Nam có sức hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế. Các dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng

đều đặn trong những năm vừa qua. Những mặt hàng xuất khẩu nông, lâm, thủy hải sản của Việt Nam là những mặt hàng

đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của các quốc gia. Việt Nam đã ký 10 Hiệp định thương mại tự do (FTA), sẽ ngày càng hội

nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Đây cũng là cơ hội tốt để Việt Nam có thể thu hút các nguồn lực của thế giới vào

Việt Nam.


- Tác động tiêu cực: cịn thiếu tính chủ động, chưa theo kịp diễn biến của tình hình, chưa lường hết những tác động

bất lợi, thiếu sự phối hợp điều hành thống nhất, đồng bộ; chưa lường hết những tác động bất lợi từ những điều chỉnh chiến

lược của các nước lớn. Cầu thế giới giảm đã tác động đến giá cả hàng hóa, đặc biệt là giá tài nguyên khoáng sản. Việt Nam

là nước xuất khẩu một số loại khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, nên đã và sẽ bị tác động tiêu cực; giá một số mặt hàng xuất

khẩu của Việt Nam như cao su, cà phê... diễn biến bất lợi cho những người sản xuất ở Việt Nam; các quốc gia đang và sẽ

điều chỉnh chiến lược, nếu Việt Nam không điều chỉnh thích ứng, cũng sẽ bị tác động tiêu cực.

- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, do vậy Việt Nam phải đối diện với cạnh tranh

toàn cầu. Việt Nam nếu không đổi mới, nâng cấp thể chế, kết cấu hạ tầng và trọng dụng nhân tài, thì sẽ tụt hậu và thua thiệt

trong cuộc cạnh tranh này. Trong những năm tới, Việt Nam phải tận dụng tốt nhất các thời cơ cho sự phát triển của đất

nước, đồng thời phải khắc phục có hiệu quả nhất các tác động tiêu cực của tình hình thế giới và đề ra các giải pháp tăng

cường mối quan hệ với các nước lớn để tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, trong đó đề ra giải pháp tăng

cường quan hệ Việt Nam – Mỹ như sau:

- Thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng, tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại đảng, ngoại

giao nhà nước và đối ngoại nhân dân giữa Việt Nam và Mỹ.


- Trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác

với Mỹ, nhất là các khuôn khổ với đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, đảm bảo mơi trường hịa bình, ổn định của đất

nước, thúc đẩy quan hệ trên tất cả các lĩnh vực, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt

Nam.

- Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó, Việt Nam cần

tăng cường cơng tác phổ biến các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình

triển khai.

- Đối với lãnh đạo cấp cao hai nước, cần tăng cường vai trò giám sát đối với việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác.

Tiếp tục quan tâm, hỗ trợ ngân sách để triển khai thực hiện các chương trình, dự án giữa hai nước Việt Nam và Mỹ.

- Cần tập trung tích cực hơn nữa để phát huy các thế mạnh cho hợp tác phát triển, khai thác các tiềm năng là nguồn

nhân lực, vốn đầu tư, công nghệ trong một số ngành và lĩnh vực như nông nghiệp, thủy điện, công nghiệp chế biến... Cùng

với việc hợp tác phát triển kinh tế, cần chú trọng hợp tác phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa để từng

bước nâng cao quan hệ của hai nước.

- Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập

quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả; là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc


tế; trong đó, coi trọng quan hệ với Mỹ và mong muốn tiếp tục phát triển quan hệ đối tác toàn diện ngày càng thực chất, hiệu

quả, ổn định lâu dài, vì hịa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

7

- Trong bối cảnh tình hình đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, hai bên chủ động hợp tác sản xuất

vaccine cũng như việc Mỹ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong cơng tác phịng chống dịch bệnh, nhất là vaccine bằng nhiều hình

thức linh hoạt, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine.

- Tiếp tục tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Hiệp định khung về Thương mại và đầu tư (TIFA), đồng thời thiết

lập khuôn khổ hợp tác kinh tế - thương mại mới để thúc đẩy hơn nữa hợp tác thương mại song phương hài hịa, bền vững,

cùng có lợi.

- Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ kinh doanh thuận lợi tại Việt Nam, thúc đẩy việc Mỹ hỗ

trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có tiềm lực, thế mạnh của Việt Nam đầu tư vào những lĩnh vực Mỹ có nhu cầu để

góp phần tạo cân bằng trong đầu tư, thương mại song phương.

- Các cơ quan chức năng các bên cần thường xuyên rà soát, đẩy nhanh việc triển khai các Hiệp định, thỏa thuận hợp

tác giữa hai nước và đồng thời sớm xây dựng các thỏa thuận hợp tác mới, bảo đảm cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh và

khai thông các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp của mỗi nước phát triển tìm hiểu hệ thống


chính sách và pháp luật của hai nước; Trao đổi thơng tin giữa các bên trong rà sốt, xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện hệ

thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh... Đơn giản hóa thủ tục hải quan, thủ tục cấp phép cho hoạt động thương mại.

- Tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học - công nghệ cao, tập trung vào các ngành khoa học y tế và sức

khỏe, đặc biệt là công nghiệp dược, công nghệ sinh học trong nông nghiệp, công nghệ sau thu hoạch, đổi mới sáng tạo và

hợp tác khơng gian vì mục đích dân sự, hợp tác phát triển kinh tế không gian, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, phục vụ

cho hịa bình, hợp tác và phát triển.

- Tăng cường sự phối hợp ở mọi cấp độ giữa hai nước để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đề ra. Đồng thời,

tăng cường phối hợp với các tổ chức quốc tế, các tổ chức tài chính, các nhà tài trợ (như ADB, WB,...) để huy động nguồn

lực tài chính cho các dự án đầu tư cũng như các dự án hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực tăng cường kết nối.

- Trên cơ sở Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị về hội

nhập, quan hệ quốc tế, đối với bản thân tơi cần có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của công tác đối ngoại, quan hệ

quốc tế. Bản thân luôn giữ vững ổn định về tư tưởng chính trị, thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chun mơn và bản

lĩnh chính trị, kiên định với đường lối của Đảng. Thường xuyên nâng cao hiểu biết, nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng

cường đồn kết trong nhân dân, truyên truyền, làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ gắn bó giữa các dân tộc, tơn giáo, xây


dựng khối đại đồn kết tồn dân vững mạnh góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế một cách toàn diện, phù hợp

với xu hướng phát triển chung của đất nước và thế giới hiện nay../.

Một số giải pháp tăng cường quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn hiện nay:

- Trước hết nói về mối quan hệ giữa Việt Nam - Nga trong thời gian qua:

- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Liên Xô được hình thành từ rất sớm.

Người kiến tạo và đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ đó chính là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

- Ngày 14-1-1950, trong bối cảnh cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm

lược đang diễn ra ác liệt, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã ra Tuyên bố về việc sẵn sàng kiến lập

quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới. Đến lúc này, Liên Xô cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác đã

công khai thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Đây là thắng lợi chính trị to lớn, có ý nghĩa vơ

cùng quan trọng, tạo đà cho những thắng lợi trên mặt trận quân sự của Việt Nam.

- Tháng 7-1955, Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Hồ Chí Minh đã thực hiện chuyến

thăm chính thức đầu tiên tới Liên Xô và trong dịp này văn bản hợp tác đầu tiên giữa hai nước là “Hiệp nghị

thương mại giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Chính phủ Liên bang Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Xô

viết” đã được ký kết (ngày 18-7-1955). Một năm sau, Hiệp nghị giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xơ


về vấn đề học tập của những công dân Việt Nam tại Liên Xô cũng được ký kết (ngày 27-8-1956). Về phía Liên

Xơ, tháng 21965, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A. N. Cô-xư-ghin thăm chính thức Việt Nam, “góp phần

quan trọng vào việc củng cố hơn nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác anh em giữa Liên Xô và Việt Nam”.

8

- Sau khi Liên Xô giải thể (tháng 12-1991), trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, quan hệ

Việt Nam - Nga (quốc gia kế thừa Liên Xô) rơi vào trạng thái ngưng trệ, suy giảm mạnh trên nhiều lĩnh vực. Song

tình hình đã thay đổi vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, trước hết nhờ những điều chỉnh trong chính sách đối

ngoại của Nga và những thành cơng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của Việt Nam. Hơn nữa, trong bối cảnh

nước Nga rơi vào tình thế gần như bị cô lập trên trường quốc tế, Việt Nam vẫn là một đối tác thủy chung với Nga.

Việt Nam cho rằng, bất luận những thay đổi trong không gian “hậu Xơ viết”, việc duy trì quan hệ với Nga và các

nước khác từng là thành viên của Liên Xô là cần thiết, là đáp ứng lợi ích nhiều mặt của Việt Nam.

- Để khôi phục mối quan hệ hợp tác truyền thống này, việc đầu tiên là tạo dựng một khuôn khổ, một nền

tảng pháp lý mới cho quan hệ Việt Nam - Nga. “Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga”, đã được hai nước ký kết ngày 166-1994. Đây là văn bản

pháp lý thay thế Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam ký năm 1978, xác định các nguyên tắc


mới cho quan hệ Việt Nam - Nga, đó là: Tơn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập và tồn vẹn lãnh thổ; không can

thiệp công việc nội bộ của nhau; bình đẳng và cùng có lợi. Kể từ thời điểm lịch sử này, quan hệ Việt Nam - Nga

bắt đầu có những tiến triển tích cực, ngày càng được nâng lên tầm cao mới về chất.

- Đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga ngày càng đi vào chiều sâu: Sự kiện được coi

là dấu mốc đầu tiên của sự phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam - Nga là chuyến thăm chính thức Việt Nam của

Tổng thống Nga V. Putin (tháng 3-2001), với việc hai nước ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt

Nam - Nga. Nga là nước đầu tiên mà Việt Nam ký tuyên bố xác lập quan hệ đối tác chiến lược.

- Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, có thể nói quan hệ Việt Nam - Nga trên lĩnh vực này đặc biệt ấn

tượng. Chỉ trong ba năm 2017 - 2019, hai nước đã tiến hành 7 chuyến thăm lẫn nhau ở cấp cao nhất, trong khuôn

khổ các chuyến thăm này, hai nước đã thành lập Ủy ban liên nghị viện giữa Quốc hội Việt Nam và Đu-ma Quốc

gia Nga).

- Trong chuyến thăm Nga vào tháng 5-2019 của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đã diễn ra Lễ khai mạc

Năm Chéo giữa hai nước Việt Nam và Nga nhân kỷ niệm 25 năm ký kết “Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản

của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga” (16-6-1994 - 16-62019) và 70

năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Liên bang Nga. Năm Chéo Việt Nam - Nga là một sự kiện lớn, nổi


bật với hơn 200 hoạt động diễn ra trong hai năm 2019 - 2020 tại hai nước.

- Trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, nhờ “lực đẩy” của hợp tác chính trị - ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt

Nam - Nga ngày càng có những thay đổi tích cực, nhất là những năm gần đây đã ghi nhận những bước tiến về

chất.

- Về thương mại, nếu như năm 2000, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Nga chỉ đạt hơn 363

triệu USD, năm 2010 tăng lên gần 2 tỷ USD, thì trong 5 năm gần đây tăng nhanh.

- Về đầu tư, điểm mới đáng chú ý là đầu tư của Việt Nam vào Nga trong những năm gần đây tăng nhanh.

Nếu tính đến tháng 10-2019, Nga có 123 dự án đầu tư trực tiếp ở Việt Nam (trừ dầu khí) với tổng mức đầu tư trên

1 tỷ USD, thì tổng số vốn đầu tư của Việt Nam vào Nga lên tới gần 3 tỷ USD với 22 dự án, nổi bật là đầu tư khai

thác các mỏ dầu khí của Nga, hoạt động của Trung tâm đa chức năng Hà Nội - Mát-xcơ-va, đặc biệt là Tập đoàn

TH True Milk đang thực hiện thành cơng Dự án chăn ni bị sữa và chế biến sữa khổng lồ sử dụng công nghệ cao

tại khu vực Mát-xcơ-va, Ka-lu-ga và một số khu vực khác của Nga với tổng số vốn đầu tư hơn 2 tỷ USD. Ngồi ra

có hơn 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ với 100% vốn của người Việt Nam đang hoạt động sản xuất, kinh doanh khá

hiệu quả tại Nga.

- Lĩnh vực an ninh - quốc phòng là lĩnh vực hợp tác có bề dày truyền thống giữa hai nước, được đánh giá


là ổn định, vững chắc, ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và đạt hiệu quả cao. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục

coi Nga là đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực này. Nga cũng cam kết tiếp tục mở rộng việc đào

tạo quân nhân và các cán bộ quân sự cấp cao cho Việt Nam tại các trường quân sự Nga.

- Quan hệ Việt Nam - Nga trên các lĩnh vực khoa học - cơng nghệ, văn hóa - giáo dục, cũng ngày càng đạt

kết quả cao hơn. Hợp tác song phương trong lĩnh vực khoa học - công nghệ phát triển khá năng động, trở thành

9

một trong những trụ cột của quan hệ Việt Nam - Nga. Hai nước cũng đang xúc tiến việc thành lập tại Việt Nam

Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân với số vốn đầu tư 350 triệu USD. Đây là một dự án lớn, một biểu

tượng mới trong hợp tác đi vào chiều sâu của quan hệ Việt Nam - Nga.

- Hợp tác trong lĩnh vực du lịch cũng mang lại những kết quả rất tích cực khi lượng khách Nga sang Việt

Nam tăng trung bình hằng năm hơn 30%. Nga tiếp tục là một trong mười thị trường tăng trưởng hàng đầu về du

lịch của Việt Nam. Năm 2018, Việt Nam đón 606.637 lượt khách Nga, tăng 5,7% so với năm 2017. Tính đến

tháng 11-2019, Việt Nam đã đón 585.600 lượt khách Nga (tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2018). Ở chiều ngược

lại, có hàng chục nghìn người Việt Nam đã sang Nga du lịch trong hai năm trở lại đây.

- Đặc biệt trong thời gian gần đây Chính phủ Nga đã hỗ trợ chuyên gia, thiết bị y tế và tặng cho Việt Nam


lô vaccine phục vụ hiệu quả cơng tác phịng, chống dịch COVID-19 ở Việt Nam và Việt Nam cũng đã tặng Nga

vật tư y tế, cử chỉ này minh chứng tốt đẹp cho mối quan hệ hai nước.

- Bên cạnh những thành tựu như đã trình bày ở trên, trong quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong thời

gian qua vẫn còn một số hạn chế:

- Quan hệ kinh tế giữa hai nước chưa xứng với tiềm năng, chưa khai thác hết thế mạnh, việc hợp tác giữa hai nước

đôi lúc chưa mang lại hiệu quả cao. Quy mô và kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước còn thấp; mặc dù kim

ngạch xuất nhập khẩu của hai nước có tăng lên, tuy nhiên tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam và Liên bang Nga còn

thấp với nhu cầu thị trường. Đầu tư của Nga sang

- Việt Nam còn chưa nhiều, hợp tác về du lịch, về văn hố cịn nhiều hạn chế… Ngun nhân:

- Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

- Trước hết là do nhận thức. Mặc dù là đối tác chiến lược, song cả hai bên chưa thực sự coi nhau là ưu tiên

trong chiến lược đối ngoại của mình, vẫn chỉ dành cho nhau ưu tiên ở mức độ.

- Hai nước chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có một chiến lược phát triển quan hệ cho một giai đoạn dài,

chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể phát triển quan hệ.

- Các rào cản thương mại về thuế quan, kiểm định chất lượng hàng hóa cịn khá phức tạp…Mặt khác hàng


hoá của ta chất lượng chưa cao, chưa có thương hiệu, chưa phong phú và bị cạnh tranh của hàng Trung Quốc và

các nước khác…

- Về cơ chế hợp tác đã có bước chuyển nhất định sang nguyên tắc kinh tế thị trường, song chưa hoàn

chỉnh, còn nhiều bất cập, chưa phát huy tốt tác dụng.

- Để tăng cường quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện một số giải pháp

sau:

- Tiếp tục duy trì và phát huy những truyền thống tốt đẹp về mối quan hệ giữa hai nước, Việt Nam - Liên bang Nga,

phải có tầm nhìn, chiến lược, kế hoạch cụ thể trong vấn đề quan hệ hợp tác trong thời gian tới.

- Tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trong đó có ưu tiên nước

Liên bang Nga và triển khai Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Trung ương, chiến lược tổng thể về hội nhập quốc

tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

- Nhận thức rõ và cụ thể hóa vào thực tiễn trong cơng tác quan hệ ngoại giao, nguyên tắc cơ bản là lấy lợi

ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu. Đổi mới tư duy cả về nội dung, phương thức, chiến lược, chiến thuật triển khai

trong hoạt động quan hệ ngoại giao của hai nước.

- Tiếp tục nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và Nhà nước quản lý, thống nhất công


tác đối ngoại, phối hợp chặt chẽ giữa ba trụ cột gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoài nhân dân.

- Tiếp tục đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ. Trong đó, Liên bang

Nga là đối tác truyền thống, đối tác chiến lược tồn diện và ln là ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Việt

Nam.

- Tăng cường quan hệ hợp tác chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế - thương mại, đầu tư, lĩnh

vực khoa học - cơng nghệ, du lịch, văn hóa… trên cơ sở luật pháp Quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích

tối cao của quốc gia, dân tộc. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phong phú, chất lượng, uy tín, có thương hiệu, đảm bảo

việc xuất, nhập khẩu của hai nước tăng tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam và Liên bang Nga.

10

- Hai nước đẩy mạnh các biện pháp cụ thể để thúc đẩy thực hiện Hiệp định thương mại tự do giữa Liên

minh kinh tế Á - Âu và Việt Nam. Đây là hiệp định có ý nghĩa lớn với Việt Nam, Nga và các nước liên quan. Việt

Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nga làm ăn thành công tại Việt Nam, nhất là tại các dự án thăm

dò khí đốt, sản xuất động cơ, đầu tư xây dựng các nhà máy điện… Hai bên nỗ lực tháo gỡ những vướng mắc để

sớm triển khai các dự án còn chậm, ưu tên một số dự án mà các tập đoàn, doanh nghiệp Nga mong muốn đầu tư

vào Việt Nam.


- Hai nước sẽ rà soát các giải pháp cụ thể bằng cách thúc đẩy các bộ, ngành có liên quan, để tháo gỡ khó

khăn đặt ra trong q trình hợp tác, trên tinh thần hợp tác hữu nghị, dựa trên luật pháp quốc tế, đề những chủ

trương, biện pháp lớn của hai Chính phủ đặt ra được hiện thực trong thời gian tới, xứng tầm với đối tác chiến lược

toàn diện giữa Việt Nam và Nga.

- Để thúc đẩy phát triển mối quan hệ giữa hai nước cần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và mang tính thực

tế hơn thơng qua việc chia sẻ những lo ngại, giới hạn và mối quan hệ giữa hai nước, nhất là mối quan hệ liên quan

đến bên thứ ba như ASEAN, Hoa Kỳ, Trung Quốc.

- Củng cố và tăng cường năng lực tham gia công tác quan hệ đối ngoại như bản lĩnh chính trị vững vàng,

năng lực chun mơn tồn diện, am hiểu pháp luật… đảm bảo tốt cho quan hệ với các nước trong thời gian tới.

- Tóm lại: Những điều chỉnh chiến lược của nước Nga từ năm 2012 đến nay đã đưa đất nước Nga bước

sang một kỷ nguyên mới. Đặc biệt cùng với sự nỗ lực của cả hai nước trong thời gian qua đã gìn giữ, vun đắp cho

mối quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga ngày càng phát triển. Hai nước tự hào về quan hệ hợp tác hữu nghị, tin

tưởng rằng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga tiếp tục phát triển, vượt qua mọi thách thức và

khó khăn, xứng đáng với truyền thống hữu nghị gắn bó lâu đời giữa hai đất nước, hai dân tộc, phù hợp với nguyện

vọng của nhân dân hai nước, góp phần vào hịa bình, hợp tác, phồn vinh và thịnh vượng ở khu vực và trên thế


giới./.

LIÊN HỢP QUỐC
Trải qua hơn 75 năm hình thành và phát triển với vai trò là tổ chức lớn mạnh nhất thế giới. Liên hợp quốc đã đóng góp rất

tích cực cho việc duy trì được hịa bình, an ninh thế giới và các hoạt động khác mà Hiến chương Liên hợp quốc quy định và

cũng đạt được một số thành tựu như sau.

Thứ nhất, với mục tiêu gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới, Liên hợp quốc đã những đóng góp nhất định trong việc đảm
bảo an ninh quốc tế, giải quyết các tranh chấp quốc tế, làm giảm căng thẳng các xung đột khu vực và thế giới; góp phần
khơng nhỏ nhằm giải trừ qn bị và hạn chế sản xuất, phổ biến vũ khí hạt nhân... Ngay sau khi Liên hợp quốc thành lập, thế
giới bước vào thời kỳ Chiến tranh lạnh kéo dài suốt mấy thập kỷ, với sự đối đầu giữa hai siêu cường Xô - Mỹ, song với nỗ
lực chung của các nước thành viên, nguy cơ của cuộc đại chiến thế giới mới với thảm họa hạt nhân hủy diệt trong thế kỷ
XX bị đẩy lùi. Liên hợp quốc đóng góp quan trọng vào việc làm tan rã hồn tồn hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa
thực dân, góp phần đưa độc lập dân tộc trở thành giá trị phổ biến mang tính thời đại.

Thứ hai, sau Chiến tranh lạnh, Liên hợp quốc tiếp tục đóng góp vào việc kiến tạo hịa bình thế giới, tổ chức thành cơng
nhiều cuộc đàm phán hịa bình các cuộc nội chiến và xung đột ở Namibia, Congo, Angola, El Salvado, Mozambique,
Campuchia, Đơng Timor, góp phần xóa bỏ chế độ Apacthai ở Nam Phi... Lực lượng gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc
thường xun được cử đến bảo vệ hịa bình và duy trì an ninh tại nhiều khu vực điểm nóng xảy ra chiến tranh xung đột.

Thứ ba, Liên hợp quốc cịn có nhiều nỗ lực nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội giữa các
nước thành viên; thực hiện cứu trợ nhân đạo cho các nước thành viên khi gặp khó khăn.

Thứ tư, trong lĩnh vực phát triển những năm 1960 và thập niên phát triển: Liên hợp quốc kêu gọi các nước hành động giảm
bớt khoảng cách giữa các nước phát triển và chậm phát triển thông qua các nước phát triển đầu tư có điều kiện ít và khơng
có điều kiện vào các nước chậm phát triển để đầu tư phát triển. Đồng thời kêu gọi các nước lớn viện trợ, cứu trợ cho các
nước nghèo nhất là cuộc sống của người dân. Trong đại dịch covid-19 liên hợp quốc cũng kêu gọi các nước giàu tời trợ,


11

viện trợ cho các nước nghèo về vật tư y tế, thuốc chữa bệnh, vacxin, lương thực thực phẩm…trong thảm họa thiên tai…kêu
gọi các nước chuyển giao, hỗ trợ khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. Trong những năm 2000 Liên hợp quốc đưa
ra ra tư duy mới về phát triển trong đó an ninh con người là một khía cạnh tiến bộ quan trọng nhất. bảo đảm sự ấm no hạnh
phúc của con người là trên hết là quan trọng nhất.

Từ những thành tựu trên Liên hợp quốc đã đóng góp rất tích cực nhất là các ý tưởng cho một thế giới thật sự hịa bình, thịnh
vượng và phát triển những ý tưởng đó là:

Một là, nhân quyền cho tất cả mọi người, tất cả mọi con người đều có quyền về nhân thân, quyền được mưu cầu hạnh phúc
giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới không phân biệt và được liên hợp quốc bảo vệ bằng các quy định trong Hiến
chương.

Hai là, Bình đẳng về giới. Trong thời chiến tranh cũng như từng chế độ, quốc gia, dân tộc việc phân biệt giữa giới tính cũng
cịn tồn tại gay rắt nhất là các nước chậm phát triển. trong xu thế phát triển hiện nay thì khoảng cách giữ nam và nữ gần
bình đẳng nhau có những người phụ nữ rất thành cơng trong các lĩnh vực như kinh tế có những nhà tỷ phú là nữ. Lĩnh vực
chính trị, có những phụ nữ là lãnh đạo của một đất nước phát triển, hùng mạnh, kể cả bộ trưởng bộ quốc phịng là nữ…từ
đó khẳng định việc bình đẳng giới ngày được khẳng định trong việc quan hệ giữa các nước và các nước đã đặt vấn đề bình
đẳng lên hàng đầu bằng việc đưa vào hiến pháp hoặc các đạo luật quy định về bình đẳng.

Ba là, các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc đặt ra vì một thế giới hịa bình, các quốc gia dân tộc cùng nhau phát triển
thơng qua các mối quan hệ, thông qua quy định chung của liên hợp quốc mà các nước thành viên đã thống nhất. Liên hợp
quốc cũng đặt ra 17 mục tiêu phát triển bền vững cho thế giới giai đoạn 20152030. Đến năm 2030 dựa trên những sáng kiến
hiện có để xây dựng và phát triển các phép đo của sự tiến bộ về phát triển bền vững nhằm bổ súng các phép đo tông sản
phẩm trong nước (GDP) và hỗ trợ xây dựng năng lực thống kê trong các nước đang phát triển.

Bốn là, quan hệ kinh tế công bằng hơn. Trong quan hệ kinh tế tính cạnh tranh giữa các quốc gia là rất gay rắt và quyết liệt,
Liên hợp quốc cũng đưa ra các quy định để các nước thành viên nhất là các nước chậm phát triển và phát triển công bằng

hơn với mục tiêu là giảm khoảng cách giữa các nước phát triển và chậm phát triển.

Năm là, các chiến lược phát triển của Liên hợp quốc hướng đến một thế giới ổn định, trình độ dân trí cao, ứng dụng khoa
học kỹ thuật vào đời sống một thế giới khơng có vũ khí hạt nhân, thâm nhập vào vũ trụ.

Sáu là, phát triển xã hội, sự phát triển xã hội của các nước trên thê giới ln ln ổn định khơng có tình trạng bạo lực, xung
đột, chiến tranh, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, các vấn đề an sinh xã hội, tình trạng đói nghèo, mức sống của người
dân cũng được quan tâm triển khai thực hiện.

Bảy là, bền vững về môi trường, trong việc phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế vấn đề môi trường
luôn luôn được các nước quan tâm đặt ra. Cho nên việc phát triển phải luôn luôn đi đôi với bảo vệ môi trường. Thế giới
ngày nay đang chịu tác động rất lớn của mơi trường, tình trạng hạn hán, lũ lụt, bão, động đất, sống thần thường xuyên xảy
ra, việc sả thải ra ngồi mơi trường là một trong những vấn đề nan giải mà các nước trên thế giới rất quan tâm. Liên hợp
quốc cũng rất tích cực trong việc kêu gọi các nước phải bảo vệ môi trường vì một thế giới khơng bị ảnh hưởng của thiên tai.
Và được Đại hội đồng Liên hợp quốc quyết định chọn ngày 05 tháng 6 năm 1972 là ngày môi trường và kể từ đó ngày 05
tháng 6 hàng năm các nước trên thế giới chọn các chủ đề để bảo vệ mơi trường.

Tám là, hịa bình và an ninh con người, hịa bình của tất cả các nước trên thế giới là khát vọng của toàn nhân loại cho nên
việc duy trì hịa bình trên tồn cầu là nhiệm vụ đặt ra rất quan trọng đối với Liên hợp quốc. Trong báo cáo phát triển con
người của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc năm 1994 cũng đề cặp khá toàn diện đến an ninh con người. Theo đó
an ninh con người được thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản: an toàn trước những đe dọa triền miên như đói khát, bệnh tật, áp
bức…; Con người phải được bảo vệ trước những biến đổi bất thường và có hại đối với cuộc sống hàng ngày, bất kể con

12

người đang sống trong mơi trường nào. Nhờ có chương trình như vậy mà mỗi cá nhân nói riêng, cộng đồng dân cư nói
chung có cuộc sống yên ổn và có cơ hội để phát triển. An ninh con người cũng được Đảng cộng sản Việt Nam quan tâm và
đặt ra trong Văn kiện Đại Hội XIII của Đảng.

Chín là, Phát triển con người, con người luôn là trung tâm trong phát triển bảo đảm quyền con người với các chỉ số phát

triển đó cũng là mục tiêu mà Liên hợp quốc cũng đặt ra trước những biến đổi của thế giới. Tất cả nhằm đảm bảo cho con
người ổn định về đời sống vật chất và tinh thần và có cơ hội tiếp cận và phát triển khơng phân biệt nước phát triển hay
chậm phát triển.

Trải qua hơn 75 năm phát triển, Liên hợp quốc đã đóng góp rất tích cực trong việc lập lại trật tự hịa bình, phát triển trên
toàn thế giới với những thành tựu nêu trên. Song, Liên hợp quốc cũng còn gặp nhiều hạn chế, khó khăn như sau:

Thứ nhất, hạn chế lớn nhất đối với Liên hợp quốc là việc củng cố và tăng cường vai trị, uy tín của tổ chức trong đời sống
quốc tế. Do một số nước lớn, một mặt lẩn tránh thực hiện nghĩa vụ chung đối với Liên hợp quốc, mặt khác lại ra sức lợi
dụng tổ chức này làm bình phong để tính tốn cho lợi ích riêng. Bên cạnh đó, một số nước thành viên tăng cường hành
động can thiệp vào công việc nội bộ của các thành viên khác, không chỉ gây ra mối lo ngại sâu sắc của cộng đồng quốc tế,
mà còn là sự vi phạm ngun tắc hịa bình và an ninh tập thể, được coi là nền tảng cơ bản cho sự ra đời và lý do tồn tại của
Liên hợp quốc. Việc thực hiện nghĩ vụ tài chính đối với liên hợp quốc một số nước chưa đảm bảo, các nước đóng góp nhiều
thì tỏ ra lạm quyền trong các vấn đề quyết định, lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước nhập đầu tư khai
thác tiềm năng kinh tế hoặc xâm chiếm. Như vấn đề biển đông giữa Trung quốc ( muốn độc chiếm biển đơng với đường
lưỡi bị chín đoạn) và các nước trong khu vực đang tranh chấp căng thẳng, mặc dù có cơng ước quốc tế về Luật biển năm
1982 nhưng vẫn chưa giải quyết ổn thỏa gây lo ngại cho các nước và nhiều vấn đề khác.

Thứ hai, nhiệm vụ gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế của Liên hợp quốc gặp nhiều thách thức mới. Nhiều điểm nóng an
ninh trên thế giới vẫn chưa tìm ra những giải pháp hữu hiệu, vấn đề chạy đua vũ trang và phổ biến vũ khí giết người hàng
loạt, chủ nghĩa khủng bố, xung đột dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ và giành giật nguồn tài nguyên thiên
nhiên, chủ nghĩa ly khai... vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đe dọa nghiêm trọng hịa bình và an ninh thế giới. Tình hình đó đặt ra
những thách thức lớn đối với vai trò của Liên hợp quốc.

Thứ ba, quyền phủ quyết của nhóm P5 (thường trực Hội đồng Bảo an) bị lạm dụng. So sánh lực lượng giữa các nước lớn và
khu vực hiện nay có nhiều thay đổi. Chính vì vậy, vấn đề cải tổ và mở rộng Hội đồng Bảo an được đặt ra tư năm 1993 đến
nay. Nhật Bản,Ấn Độ, Brazil, Đức đề nghị mở rộng thành viên hoặc đề xuất đổi mới quy chế đối với các thành viên thường
trực mới và xem xét việc hạn chế quyền phủ quyết của nhóm P5...

Thứ tư. thế giới đang đứng trước hàng loạt những vấn đề tồn cầu cấp bách như đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí

hậu, sự chênh lệch khoảng cách giàu - nghèo, tội phạm xuyên quốc gia... Song, Liên hợp quốc với tư cách là tổ chức đa
phương toàn cầu lớn nhất giải quyết những thách thức đó chưa tốt.

Thứ năm, vấn đề cải tổ Liên hợp quốc cả về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động. Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động của Liên hợp quốc phản ánh tương quan lực lượng những thập niên đầu sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, nay khơng
cịn phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn quốc tế... Cục diện thế giới đã chuyển từ hình thái hai cực sang hình
thái vận động theo hướng đa cực hóa, với sự nổi lên của các cường quốc mới, các trung tâm quyền lực mới và sự gia tăng vị
thế các nước đang phát triển. Liên hợp quốc hiện nay gồm 193 thành viên, nhưng cơ cấu vận hành của Liên hợp quốc nói
chung và Hội đồng Bảo an nói riêng lại chưa thay đổi trong suốt hơn 75 năm qua. Ngoài ra, Liên hợp quốc bị cho rằng thiếu
tính hiệu quả trong hoạt động, lãng phí vì cơ cấu cồng kềnh và quan liêu q mức. Những hạn chế về thể chế và cơ cấu bộ
máy Liên hợp quốc đang cản trở tổ chức này trong quá trình thực hiện chức năng, mục tiêu của mình.
Từ những thành tựu và hạn chế nêu trên, qua q trình nghiên cứu mơn học quan hệ quốc tế bản thân xin đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Liên hợp quốc như sau:

13

Một là, thay đổi nhận thức về các vấn đề mà các quốc gia đang quan ngại. Liên hợp quốc phải tăng cường củng cố vai trị
và uy tính của tổ chức trong đời sống quốc tế. Bằng việc các nước thành viên phải tham gia tích cực với trách nhiệm vì một
cộng đồng quốc tế hịa bình, đảm bảo ngun tắc hịa bình nhất là khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau vì mục
đích trục lợi cho tổ nước mình. Phải có nhận thức mới, tư duy mới cho xu hướng phát triển của thế giới hiện nay.

Hai là, xây dựng các chương trình hành động. Liên hợp quốc cần xây dựng các chương trình hành động thật cụ thể cho các
vấn đề mà thế giới quan tâm, trong giả quyết các vấn đề nóng về an ninh với sự đồng tâm tham gia của các nước thành viên
và cộng đồng quốc tế nhằm mục tiêu phát triển một thế giói hịa bình và phát triển con người bền vững.

Ba là, kêu gọi sự ủng hộ của các quốc gia. Liên hợp quốc phải là trung tâm trong việc kêu gọi sự ủng hộ của các quốc gia,
các tổ chức khác trên tồn cầu vì sự lớn mạnh của tổ chức này. Nhất là trong các vấn đề mà thế giới đang đứng trước những
thách thức cần có những biện pháp hữu hiệu nhất như vấn đề môi trường, vấn đề chiến tranh, xung đột sắc tộc, tơn giáo, đói
nghèo, dịch bệnh….


Bốn là, gắn kết chặt chẽ các chương trình hành động của tổ chức mình với các thể chế có trách nhiệm trong thực hiện ý
tưởng. Mục tiêu chính là gìn giữ hịa bình, bình đẳng giữa các quố gia dân tộc trên toàn thế giới vì sự phát triển của nhân
loại. trong các chương trình hành động của mình Liên hiệp quốc phải đảm bảo sự ủng hộ và phối hợp chặc chẽ với các quốc
gia và các tổ chức quốc tế khác, khi có sự phối hợp chặc chẽ thì việc triển khai các chương trình mới mang lại hiệu qua cao.

Năm là, xem xét cải tổ hệ thống tổ chức nhất là Hội đồng bảo an vì sự phát triển của các nước lớn đã có sự thay đổi, việc
quyết định các vấn đề phải mang tính cơng bằng giữa các thành viên tránh bị lạm dụng của 5 nước thường trực hoặc có thể
xem xét nhiệm kỳ của các nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an như các nước ủy viên không thường trực thông qua
bầu cử để tạo tính cơng bằng giữa các nước phát triển, hạn chế việc bất đồng trong các nước thành viên.( vì 75 năm phát
triển vẫn giữ nguyên 5 nước ủy viên thường trực hội đồng bảo an Liên hợp quốc).

Sáu là, tin gọn bộ máy tổ chức vì hiện nay cịn cồng kềnh, việc trả lương nhiều gây áp lực lớn cho các nước thành viên khi
thực hiện nghĩa vụ tài chính cho Liên hợp quốc. Cần có một tổ chức trực thuộc để kiểm soát quyền lực, các quy định của
liên hợp quốc để khơng xảy ra tình trạng quan liêu, tham nhũng từ đó có thể dẫn đến việc bất đồng trong các nước thành
viên.

Bảy là, cục diện thế giới hiện nay đã chuyển từ hình thái hai cực sang hình thái vận động theo hướng đa cực hóa, với sự nổi
lên của các cường quốc mới, các trung tâm quyền lực mới và sự gia tăng vị thế các nước đang phát triển Liên hợp quốc cần
điều chỉnh, bổ sung Hiến chương cho phù hợp với cục diện thế giới hiện nay.

Tám là, các nước thành viên cần phải có trách nhiệm tích cực và tn thủ nghiêm các quy định của Liên hợp quốc trong giải
quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng. nếu các nước không thực hiện nghiêm phải có biện pháp cứng rắn dù đó là nước
mạnh hay không mạnh, phát triển hay chậm phát triển.

Cục diện thế giới đang có nhiều thách thức diễn biến phức tạp, là mối lo ngại trên toàn cầu như số cuộc xung đột và bất
bình đẳng ngày càng gia tăng, những cuộc khủng hoảng nhân đạo toàn cầu lớn chưa từng có và nạn nghèo đói dai dẳng.
trước những thách thức nêu trên, người đứng đầu Liên hợp quốc kêu gọi các quốc gia khẩn trương thực hiện 5 giải pháp
quan trọng gồm: Huy động sức mạnh của thanh niên; kiểm sốt lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính dựa trên nền tảng về
biến đổi khí hậu; tăng cường huy động nguồn tài chính từ cả trong và ngoải nước cho chương trình nghị sự năm 2030 đặc
biệt là những nước dễ bị tổn thương; phân phối những lợi ích cơng nghệ tiên tiến cho mọi người; củng cố hơn nữa các thể

chế.

Đối với Việt Nam khi trở thành thành viên chính thức của Liên hợp quốc vào ngày 20 tháng 9 năm 1977, Việt Nam đã tham
gia rất tích cức, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước thành viên để xây dựng và phát triển đất nước ngày càng vững
mạnh, bằng việc khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là đối tác tin cậy của các nước trong đó có những
nước phát triển mạnh. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định “…chủ

14

động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia- dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia…”

Tóm lại, trước xu thế phát triển của thế giới hiện nay các vấn đề toàn cầu diễn biết phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mà đòi hỏi
các quốc gia dân tộc phải nổ lực hợp tác, tích cực, trách nhiệm trong việc đóng góp và tham gia nhiều hoạt động để gìn giữ
hịa bình trên tồn cầu và bảo vệ vững chắc đơc lập chủ quyền. thơng qua đó, tổ chức Liên hợp quốc là tổ chức lớn nhất trên
tồn cầu có chức năng nhiệm vụ để lặp lại trật tự hịa bình, bảo đảm sự phát triên của thế giới và con người trên toàn cầu. để
thực hiện tốt chức năng nghiệm vụ của mình, Liên hợp quốc phải giữ vững mục tiêu, nguyên tắc hoạt động mà trong Hiến
chương đã quy định. Đồng thời, phải có sự tham gia rất tích cực, thể hiện đầy trách nhiệm của các thành viên, phối hợp
chặc chẽ các tổ chức quốc tế khác, giải quyết các bất đồng trên cơ sở các quy định chung, bình đẳng trên cơ sở tôn trong
luật pháp quốc tế giữa các nước. Là cán bộ, đảng viên để thực hiện tốt nhiệm vụ hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay
trước hết phải tích cực học tập nâng cao trình đơ về mọi mặt nhất là bản lĩnh chính trị phải vững vàng trước những luận
điệu xuyên tạc, trái chiều, nghiên cứu quán triệt một cach nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về hội nhập quốc tế.
Tích cực tuyên truyền vận động nhân dân thấu hiểu các chủ trương của đảng về hội nhập quốc tế nhất là giả quyết các vấn
đề về bảo vệ chủ quyền quốc gia và các lĩnh vực khác để cùng hưởng ứng thực hiện, tránh bị các thế lực thù địch lợi dụng
để chống phá xuyên tạc. Đồng thời, khẳng định Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm và tích cực trong các tổ chức
quốc tế nhất là Liên hợp quốc vì một nước Việt Nam thịnh vượng và phát triển mỗi người dân Việt Nam nêu cao tinh thần
trách nhiệm, tích cực hưởng ứng các hoạt động hội nhập mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.

VIỆT NAM – LÀO


* Đề xuất các giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Lào trong thời gian tới:

- Nhóm giải pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác, liên kết Việt Nam – Lào:

+ Một là, Việt Nam – Lào cần bổ sung, sửa đổi các chính sách, luật để khuyến khích và tạo mọi thuận lợi cho quá trình hợp
tác hai nước. Bên cạnh việc quan tâm đến hiệu quả cụ thể, hai nước cần chú trọng hơn đến những vấn đề chiến lược lâu dài,
trước mắt cần quan tâm đến hiệu quả tổng hợp. Về chính trị hai nước cần tiếp tục duy trì định kỳ các cuộc tiếp xúc cấp cao;
khuyến khích việc giao lưu giữa các ngành, các cấp, các địa phương của hai nước; phối hợp trao đổi lý luận và thực tiễn về
xây dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới. Về đối ngoại hai nước cần có những tham vấn bàn bạc cụ thể, ủng hộ lẫn
nhau trên những diễn đàn khu vực và quốc tế, tiếp tục phối hợp chặt chẽ ở các diễn đàn đa phương, nhất là các hoạt động tại
Liên hợp quốc, ASEAN.

+ Hai là, về lĩnh vực thương mại, hai nước cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động hợp tác thương mại, tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau trên cơ sở quan hệ đặc biệt sẵn có. Việt Nam, Lào tiếp tục trao đổi
kinh nghiệm đối với các lĩnh vực càng quan tâm về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế
cửa khẩu, phấn đấu tăng nhanh kim ngạch thương mại hai chiều. Về lĩnh vực đầu tư, tài chính, ngân hàng, Việt Nam, Lào
phối hợp xây dựng kế hoạch hợp tác đầu tư trong những năm tới, tìm các giải pháp để đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư
bằng nhiều hình thức thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thành lập các tổ hợp, liên doanh để triển khai
các dự án tại hai nước.

+ Ba là, về giáo dục, đào tạo: Việt Nam, Lào cần ưu tiên giúp nhau đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị, cán bộ quản lý các
cấp, cán bộ đang làm việc tại các chương trình, dự án hợp tác giữa hai nước. Hai nước tiếp tục hợp tác đầu tư cơ sở vật chất
phục vụ học tập và sinh hoạt cho cán bộ học sinh mỗi nước; thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai nước với nhau.

- Nhóm giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Lào trong khuôn khổ hợp tác, liên kết khu vực và quốc tế:

Hai bên nhấn mạnh cần tăng cường quan hệ chính trị đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả cao hơn nữa; hợp tác chặt chẽ trong các
vấn đề chiến lược liên quan đến an ninh và phát triển của mỗi nước; duy trì các chuyến thăm gặp gỡ giữa Lãnh đạo cấp cao

15


hai Đảng, hai nước dưới nhiều hình thức; chủ động tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm về cơng tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội, mở rộng hội nhập quốc tế; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về
truyền thống quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hai nước;
nhất trí nỗ lực thúc đẩy tạo bước đột phá, nâng cao hiệu quả hợp tác về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật trên cơ sở phát
huy tối đa tiềm năng và thế mạnh của mỗi nước; tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh; phối hợp chặt chẽ trong
phòng, chống dịch Covid-19.

Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tăng cường trao đổi thông tin kịp thời, tham vấn, phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau hiệu quả
trong các vấn đề quốc tế và khu vực, các hoạt động tại diễn đàn đa phương; phát huy vai trò trung tâm của ASEAN và các
cơ chế do ASEAN dẫn dắt, Liên hợp quốc, các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công, Tổ chức Thương mại thế giới, Diễn đàn
hợp tác Á - Âu, góp phần giữ vững hịa bình, hợp tác, phát triển; Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp chặt
chẽ với nhau và với các nước, các tổ chức quốc tế có liên quan để quản lý, phát triển, sử dụng bền vững và hiệu quả nguồn
nước sông Mê Kông; nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hịa bình, an ninh, ổn định, đảm bảo an ninh, an toàn, tự
do hàng hải và hàng không tại Biển Đông; giải quyết các tranh chấp ở Biển Đơng bằng các biện pháp hịa bình trên cơ sở
luật pháp quốc tế, trong đó có Cơng ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, cùng các bên liên quan thúc đẩy việc thực
hiện đầy đủ và hiệu quả DOC và xây dựng COC hiệu quả và thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế.

+ Một là, thống nhất trong quyết tâm chung và hành động mạnh mẽ nhằm hoàn thành đúng hạn và hiệu quả các kế hoạch
hợp tác trên cả ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội trong lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Tiếp tục
đẩy mạnh kết nối ASEAN và thúc đẩy phát triển đồng đều, bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, đồng thời tăng cường
ý thức và hành động vì một cộng đồng chia sẽ, đùm bọc lẫn nhau giữa chính phủ và người dân các nước trong khu vực.
Việt Nam, Lào cần đẩy mạnh hợp tác và hỗ trợ trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế.

+ Hai là, Việt Nam, Lào giữ vững các nguyên tắc cơ bản, đoàn kết, thống nhất song song với chủ động, sáng tạo trong giải
quyết các vấn đề đặt ra trên chặn đường phát triển mới, nhất là các thách thức đối với hịa bình, ổn định, an ninh và phát
triển ở khu vực.

+ Ba là, Việt Nam, Lào không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các đối tác bên ngoài, chủ động tạo điều kiện
và khuyến khích các đối tác tham gia hợp tác xây dựng và đóng góp tích cực hơn nữa vào các mục tiêu chung là hịa bình,

ổn định và phát triển ở khu vực cũng như hỗ trợ thiết thực cho ASEAN xây dựng cộng đồng, tăng cường liên kết và kết nối,
ứng phó với các thách thức đang đặt ra. Việt Nam, Lào cùng với ASEAN cần chú trọng củng cố đồn kết, duy trì lập trường
và tiếng nói chung trên các vấn đề khu vực và quốc tế mà ASEAN và các đối tác cùng quan tâm và có lợi ích.

- Việt Nam và Lào cùng hướng tới tương lai:

Mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam - Lào là kết tinh và là sự hội tụ phẩm chất
cách mạng trong sáng, trách nhiệm cao cả và tình cảm sắt son, nồng thắm mà cả hai dân tộc Việt Nam - Lào đã dành cho
nhau, gắn bó bền chặt với nhau, chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên các
chặng đường cách mạng đầy gian khổ và thắng lợi vẻ vang của hai dân tộc Việt Nam, Lào đều thể hiện rõ vai trò quan
trọng, giá trị cách mạng, nhân văn và hiệu quả to lớn của quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào. Nhìn về tương lai, chúng ta càng thấy rõ sự cần thiết phải bảo vệ, phát triển mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn
kết đặc biệt này. Đồng thời, cần cảnh giác, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu thù địch, phá hoại mối quan hệ
hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, cần nỗ lực hơn nữa để xây dựng đường biên giới hịa
bình, hữu nghị và phát triển, tạo dựng cơ chế ngăn ngừa và giải quyết các thách thức an ninh xuyên biên giới, để gia tăng sự
gắn bó về mọi mặt và gìn giữ tình cảm tốt đẹp giữa nhân dân hai biên giới. Hai nước cũng cần tìm các lĩnh vực song trùng
lợi ích để tạo nền tảng hợp tác cho quan hệ song phương; tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử gắn bó giữa hai dân tộc.
Trong quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, hai bên thống nhất tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

16

+ Một là, tiếp tục tăng cường đưa quan hệ chính trị đi vào chiều sâu, hợp tác chặt chẽ trong các vấn đề chiến lược liên quan
đến an ninh và phát triển của mỗi nước; nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương của
hai nước; duy trì các chuyến thăm, gặp gỡ giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước bằng nhiều hình thức linh hoạt
nhằm tạo sự gắn bó, tin cậy; trao đổi kịp thời, thống nhất những chủ trương, chính sách, biện pháp tăng cường quan hệ hợp
tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước; duy trì cơ chế cử đặc phái viên khi cần thiết để trao đổi thống nhất và giải quyết những
vấn đề phát sinh.

+ Hai là, củng cố và tăng cường nhận thức chung của hai Đảng, hai Nhà nước về tầm quan trọng chiến lược của mối quan
hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở

mỗi nước. Duy trì quan hệ bền chặt trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, tạo sự tin cậy chính trị sâu
sắc giữa lãnh đạo và nhân dân hai nước.

+ Ba là, tăng cường trao đổi thông tin kịp thời, nhất là những vấn đề mới có tác động trực tiếp đến hai nước; duy trì và
nâng cao hiệu quả của các cuộc hội thảo lý luận - thực tiễn giữa hai Đảng, các tọa đàm, các hình thức trao đổi thông tin,
kinh nghiệm giữa các ban, bộ, ngành, Mặt trận, đoàn thể, tổ chức nhân dân và giữa các địa phương, nhất là các địa phương
có chung đường biên giới, trong đó có việc đi sâu chia sẻ kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị, quản lý kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

+ Bốn là, thường xuyên chăm lo giữ gìn, vun đắp tình cảm đồn kết đặc biệt Việt Nam - Lào trong các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ hai nước, bằng các hình thức như: tăng cường các hình thức giao lưu hữu nghị thiết thực giữa nhân dân hai
nước, nhất là mở rộng giao lưu thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên, quân đội, công an; Phối hợp chặt chẽ trong công
tác nghiên cứu, giáo dục và tuyên truyền về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào; Tiếp tục tổ chức nghiên cứu,
học tập và phổ biến sâu rộng bộ sách “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào” trong các trường học; Phối hợp tổ chức tốt
các hoạt động giáo dục truyền thống về quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, nhất là vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn.

+ Năm là, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - kỹ thuật, coi đây là nền tảng
và là chất keo gắn kết mối quan hệ bền vững giữa hai nước. Hai bên cần tích cực triển khai có hiệu quả thỏa thuận chiến
lược hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2021 - 2030; Hiệp định hợp tác giai đoạn 2021 - 2025 và Kế hoạch hợp tác hằng
năm giữa hai Chính phủ; tiếp tục đổi mới triệt để và nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác giữa hai nước, nhất là về kinh tế
để phù hợp với thơng lệ quốc tế, song phải có ưu tiên, ưu đãi tương xứng với tính chất mối quan hệ đặc biệt; tăng cường
tính kết nối về giao thơng, năng lượng, viễn thông, du lịch; tăng cường trao đổi kinh nghiệm quản lý vĩ mơ giữa hai nước;
có các chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp hai nước đầu tư vào các lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng và thế
mạnh, nhất là lĩnh vực nơng nghiệp công nghệ cao; triển khai đồng bộ các giải pháp để gia tăng kim ngạch thương mại hai
chiều; tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác song phương; quản
lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào để phát triển kinh tế - xã hội bền vững; khai thác
tiềm năng, thế mạnh của mỗi nước bổ trợ cho nhau cùng phát triển. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
học sinh tại mỗi nước; tập trung tổ chức các lớp nghiên cứu, trao đổi chuyên đề và các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp của Lào.


+ Sáu là, tăng cường hơn nữa trụ cột hợp tác về quốc phòng, an ninh, bảo đảm chỗ dựa vững chắc cho nhau nhằm đối phó
với các thách thức an ninh ngày càng đa dạng, phức tạp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội ở mỗi
nước; xây dựng đường biên giới Việt Nam - Lào hịa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững; hợp tác chặt
chẽ trong phòng, chống “diễn biến hịa bình”, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả các loại tội phạm xuyên quốc gia, nhất là
tội phạm buôn lậu và vận chuyển trái phép chất gây nghiện.

17

+ Bảy là, tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ giữa hai Đảng, hai Nhà nước tại các diễn đàn quốc tế, khu vực và
các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong; tiếp tục triển khai hiệu quả cơ chế tham vấn thường niên cấp Trưởng Ban Đối ngoại
Trung ương, Bộ trưởng Ngoại giao và các cơ chế hợp tác giữa các cơ quan đối ngoại.

+ Tám là, mở rộng hợp tác, tăng cường trao đổi kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau giữa Quốc hội, Mặt trận, các ban, bộ,
ngành, đoàn thể và các địa phương của hai nước.

+ Chín là, tiếp tục triển khai, tổ chức các sự kiện quan trọng của hai Đảng, hai Nhà nước (Ngày thành lập Đảng, Quốc
khánh, Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, Ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chủ tịch Kaysone Phomvihane...).

3.1. Phương hướng thúc đấy quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia trong thời gian tới
a. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao, an ninh - quốc phòng

Việt Nam, Lào, Campuchia là ba quốc gia độc lập, có vị trí trên trường quốc tế, có quan hệ ngoại giao rộng mở theo hướng
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, vì vậy mối quan hệ giữa ba nước phải được tôn trọng theo những quy
định, thông lệ quốc tế. Trong khi giữ gìn và phát triển quan hệ Việt Nam, Lào, Campuchia không được hạ thấp, coi nhẹ các
mối quan hệ quốc tế khác của ba nước. Quan hệ Việt Nam, Lào, Campuchia cần duy trì và phát triển cao hơn nữa, song
phải bảo đảm đúng nguyên tắc quan hệ giữa các quốc gia, vừa giữ đúng những quy định, thơng lệ quốc tế, vừa có ưu tiên,
chiếu cố hồn cảnh của ba nước, nhưng không tùy tiện, đặc biệt phải bảo đảm nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền tồn
vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, tự nguyện, cùng có lợi. Phương hướng nhiệm vụ hợp tác trong lĩnh vực chính trị - ngoại
giao bao gồm: Duy trì bền vững mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết Việt - Lào - Campuchia; Phát triển sâu sắc và toàn diện

quan hệ chính trị tốt đẹp sẵn có ở cấp lãnh đạo của ba nước, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc hơn tình hữu nghị đồn kết
xuống các cấp địa phương, cơ sở, nhất là thế hệ trẻ, đồng thời tăng cường giao lưu nhân dân và thanh niên giữa ba nước nói
riêng và các nước ASEAN nói chung; Mở rộng quan hệ đối ngoại, coi trọng quan hệ bạn bè truyền thống...

Tiếp tục trao đổi ý kiến về những vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm; tăng cường sự hợp tác trong khuôn khổ
ASEAN, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển thịnh vượng; khẳng định tiếp tục
hợp tác và phối họp chặt chẽ trên các diễn đàn quốc tế và khu vực.

Tăng cường phối hợp, trao đổi kinh nghiệm và thông tin về an ninh quốc phòng, nhằm chống lại âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch, chia rẽ quan hệ ba nước. Chú trọng hơn nữa công tác chuyên gia, tham mưu về cơng tác đảng, cơng tác
chính trị trong qn đội. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tổ chức, quản lý, xây dựng lực lượng bộ đội địa
phương, dân quân du kích và quân dự bị động viên với các nước bạn. Việt Nam cùng với Lào và Campuchia xây dựng
vững chắc hơn nữa thế trận chiến tranh nhân dân, tồn dân, tồn diện, cần bố trí phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng biên
phòng ba nước, đặc biệt là kinh nghiệm truy bắt tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm ma túy; trợ giúp phía bạn triệt tận gốc
các ổ phỉ, các nhóm chống đối vũ trang và không để chúng lan rộng. Đẩy mạnh hợp tác mọi mặt giữa các tỉnh có chung
biên giới, cùng nhau xây dựng đường biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia thành đường biên giới hữu nghị, hợp tác, phát
triển toàn diện, bền vững lâu dài.

b. Trên lĩnh vực kinh tế

Lãnh đạo Việt Nam, Lào và Campuchia tiếp tục khẳng định cùng nhau hợp tác, phát triển kinh tế, đặc biệt coi trọng và
không ngừng tăng cường quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào - Campuchia, coi đó là quy luật phát triển, nhân tố bảo đảm thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Ba nước đã xác định phương hướng và biện pháp cụ thể tiếp
tục đổi mới phương thức hợp tác kinh tế, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, dành cho nhau những ưu tiên, ưu
đãi, tạo thuận lợi thúc đẩy hợp tác toàn diện trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; nhất trí khuyến khích mở rộng quan hệ giữa
các địa phương ở khu vực biên giới ba nước, nhằm xây dựng biên giới chung thành khu vực phát triển vững chắc... Đẩy
mạnh hiệu quả hợp tác kinh tế song phương tương xứng với quan hệ chính trị, phát triển hợp tác giữa các vùng, miền ba

18


nước và hồn thiện hơn nữa các chính sách ưu tiên, ưu đãi mà ba nước dành cho nhau, phù hợp với luật pháp của mỗi nước
và thông lệ quốc tế. Cần chủ động thúc đẩy hợp tác ở cả ba cấp: chính phủ với chính phủ, địa phương với địa phương và
doanh nghiệp với doanh nghiệp nhằm tạo sự gắn kết chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau giữa ba nền kinh tế. Đẩy mạnh quan hệ
kinh tế trong khuôn khổ hợp tác, liên kết song phương, khu vực, quốc tế.

c. Trên các lĩnh vực khác
Theo thỏa thuận của các cuộc gặp gỡ cấp cao, ba nước Việt Nam – Lào - Campuchia tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong các
lĩnh vực văn hóa, thơng tin, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, y tế, thể thao, du lịch... Phía Việt Nam sẵn sàng
đáp ứng các yêu cầu của Lào, Campuchia về giáo dục - đào tạo; tiếp tục giảng dạy tiếng Việt Nam, tiếng Lào và tiếng
Campuchia tại một số cơ sở đào tạo của ba nước. Đổi mới và nâng cao chất lượng hợp tác giáo dục, thúc đẩy liên kết hợp
tác giữa các trường đại học, các cơ sở đào tạo của ba nước.

TAM GIÁC PHÁT TRIỂN VLC

3.2. Các giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia

a. Nhóm giải pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác, liên kết việt Nam - Lào - Campuchia
Ba nước cần bổ sung, sửa đổi các chính sách, luật để khuyến khích và tạo mọi thuận lợi cho q trình hợp tác ba nước. Bên
cạnh việc quan tâm đến hiệu quả cụ thể, ba nước cần chú trọng hơn đến những vấn đề chiến lược lâu dài, trước mắt cần
quan tâm đến hiệu quả tổng hợp (lấy đại cục làm trọng), về chính trị, ba nước tiếp tục duy trì định kỳ các cuộc tiếp xúc cấp
cao; khuyến khích việc giao lưu giữa các ngành, các cấp, các địa phương của ba nước; phối hợp trao đổi lý luận và thực tiễn
về xây dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới. Về đối ngoại, ba nước cần có những cuộc tham vấn bàn bạc cụ thể, ủng
hộ lẫn nhau trên những diễn đàn khu vực và quốc tế, tiếp tục phối hợp chặt chẽ ở các diễn đàn đa phương, nhất là các hoạt
động tại Liên hợp quốc, ASEAN, tiểu vùng Mekong, nhóm cơng tác phát triển ba vùng biên giới và các hoạt động hợp tác
trong khuôn khổ hợp tác, liên kết song phương, khu vực, quốc tế.

Cả ba nước cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động hợp tác thương mại, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, dành ưu
tiên, ưu đãi cho nhau trên cơ sở quan hệ đặc biệt sẵn có. Tiếp tục trao đổi kinh nghiệm đối với các lĩnh vực cùng quan tâm
về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế cửa khẩu, phấn đấu tăng nhanh kim ngạch thương
mại hai chiều. Khuyến khích việc lập các cặp chợ biên giới, các khu kinh tế, thương mại tại các cửa khẩu lớn và tích cực

triển khai thực hiện các thỏa thuận về tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện và hàng hóa qua lại.

Đối với đầu tư, tài chính, ngân hàng, cần phối hợp xây dựng kế hoạch hợp tác đầu tư trong những năm tới, tìm các biện
pháp để đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư bằng nhiều hình thức thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
thành lập các tổ họp, liên doanh để triển khai các dự án tại ba nước. Khuyến khích các tập đồn kinh tế lớn của mỗi nước
đầu tư vào những lĩnh vực đem lại lợi ích cho cả ba nước, thúc đẩy hợp tác trong việc trồng cây công nghiệp, khai khoáng,
năng lượng và các lĩnh vực quan trọng khác của nền kinh tế quốc dân; tiếp tục nối mạng cơ sở hạ tầng giao thơng, bưu
chính viễn thơng... giữa ba nước. Tiếp tục đẩy mạnh chương trình hợp tác đầu tư kinh doanh trong sản xuất nông, lâm, thủy
sản, chế biến các sản phẩm nơng, lâm nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào lĩnh vực này, đặc biệt là
trong lĩnh vực trồng, chế biến cao su và các sản phẩm từ cây công nghiệp khác, phối hợp với nhau trong cơng tác bảo vệ
rừng, có các biện pháp ngăn chặn việc phá rừng, bảo vệ môi trường sinh thái gắn với định canh định cư; bên cạnh đó, ba
nước cần thống nhất về việc hợp tác và phát triển toàn diện vùng biên giới, phối hợp với nhau quản lý biên giới, ngăn chặn
việc gian lận thương mại, trốn lậu thuế, buôn bán trái phép, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng và phát triển chợ biên giới,
khu kinh tế cửa khẩu, tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dọc các tuyến đường với biên giới của ba nước.

Về giáo dục, đào tạo, cần ưu tiên giúp nhau đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị, cán bộ quản lý các cấp, cán bộ đang làm
việc tại các chương trình, dự án hợp tác giữa ba nước. Ba nước tiếp tục hợp tác đầu tư cơ sở vật chất phục vụ học tập và
sinh hoạt cho cán bộ học sinh mỗi nước; thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa ba nước với nhau.

19

b. Giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Lào - Canipuchia trong khuôn

khổ hợp tác, liên kết khu vực và quốc tế
Thống nhất trong quyết tâm chung và hành động mạnh mẽ nhằm hoàn thành đúng hạn và hiệu quả các kế hoạch hợp tác
trên cả ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội trong lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Tiếp tục đẩy
mạnh kết nối ASEAN và thúc đẩy phát triển đồng đều, bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, đồng thời tăng cường ý
thức và hành động vì một cộng đồng chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau giữa chính phủ và người dân các nước trong khu vực. Việt
Nam - Lào - Campuchia cần đẩy mạnh hợp tác và hỗ trợ trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế.


Ba nước giữ vững các nguyên tắc cơ bản, đoàn kết, thống nhất song song với chủ động, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề
đặt ra trên chặng đường phát triển mới, nhất là các thách thức đối với hịa bình, ổn định, an ninh và phát triển ở khu vực.
Các tiến trình đối thoại về xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử và ngăn ngừa xung đột cần được tiếp tục thúc đẩy.
Các cam kết đã được quy định trong các văn kiện như TAC, SEANWFZ, DOC... cần thực hiện nghiêm túc; các khác biệt
tranh chấp cần được giải quyết hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và tinh thần đồn kết ASEAN.

Khơng ngùng mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các đối tác bên ngoài, chủ động tạo điều kiện và khuyến khích các đối
tác tham gia hợp tác xây dựng và đóng góp tích cực hơn nữa vào các mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và phát triển ở
khu vực cũng như hỗ trợ thiết thực cho ASEAN xây dựng cộng đồng, tăng cường liên kết và kết nối, ứng phó với các thách
thức đang đặt ra. Để giữ vững được vai trò trung tâm và vị thế của cộng đồng ở khu vực, Việt Nam - Lào - Campuchia cùng
với ASEAN cần chú trọng củng cố đồn kết, duy trì lập trường và tiếng nói chung trên các vấn đề khu vực và quốc tế mà
ASEAN và các đối tác cùng quan tâm và có lợi ích.

3.3. Các nhiệm vụ trọng tâm Việt Nam cần tập trung trong quan hệ Việt
Nam - Lào – Campuchia và hội nhập kinh tế quốc tế
Các bộ, ngành và địa phương cần chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch tồn diện và cụ thể thực hiện chủ trương hội
nhập quốc tế, trong đó xác định vai trò trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình hội nhập trong quan điểm, nhận
thức và hành động.
Gắn kết hội nhập kinh tế quốc tế với cải cách trong nước, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo
mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu chính trị - ngoại giao và mục tiếu chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chú trọng thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng mức độ cam kết và tự do hóa thương mại ngày càng cao
hơn, đồng thời có các điều chỉnh thương mại trên cơ sở cam kết với các tổ chức quốc tế và khu vực để có hiệu quả cao nhất
trong việc thực hiện các cam kết thương mại.

Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập, tạo mơi trường kinh
doanh bình đẳng, minh bạch, ngày càng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, góp phần hồn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.

Tăng cường nguồn nhân lực, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, đánh giá và dự báo các vấn đề mới liên quan đến hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc triển khai thực hiện ở mức độ cao hơn các cam kết, các FTA để chủ động điều chỉnh
chính sách và biện pháp phù hợp...

BÀI 2: CỤC DIỆN TG

20


×