Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Môn tìm hiểu cộng đồng châu á 16 đề tài xu hướng về tình yêu và hôn nhân của giới trẻ nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.64 KB, 15 trang )

lOMoARcPSD|39472803

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
--------------------------------------------------------------

BÀI TẬP NHĨM GIỮA KÌ
MƠN: TÌM HIỂU CỘNG ĐỒNG CHÂU Á-16
ĐỀ TÀI: XU HƯỚNG VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN CỦA

GIỚI TRẺ NHẬT BẢN

Thông tin thành viên

ST Họ và tên Mã số sinh Khoa Chức vụ
T viên Thành viên
Khoa NN & VH Nhóm trưởng
1 Ngơ Thị Thanh Thủy 22041430 Nhật Bản Thành viên

2 Vũ Nhật Linh 22041400 Khoa NN & VH
Nhật Bản
3 Nguyễn Diệu Linh 22041354
Khoa NN & VH
Nhật Bản

lOMoARcPSD|39472803

XU HƯỚNG VỀ TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN CỦA GIỚI TRẺ

—–—–––Tập trung thảo luận từ năm 2010—–—–––


Natsuki Nagata *. Naoya Osugi**

1. Mở đầu: Làm thế nào để hiểu về những thay đổi trong quan điểm về hôn nhân trong
những năm 2010.

Theo khảo sát “Thái độ của người Nhật” của Viện nghiên cứu văn hóa phát thanh
truyền hình NHK, một trong những điều cần lưu ý khi xem xét những thay đổi trong xã
hội Nhật Bản từ 1993 đến 2018 là sự thay đổi trong quan điểm về việc kết hơn và sinh
con. Tính đến năm 1993, 44,6% số người được hỏi trả lời rằng “Con người kết hôn là
điều đương nhiên” và “Điều này cũng gần giống với quan điểm của tôi”. Trái lại, 50,5%
số người khác lại chọn câu trả lời là “ Kết hôn là điều không cần thiết”.

Năm 2018, con số trước chiếm 26,9% và con số sau chiếm 67,5% cho thấy rằng thái
độ đối với hơn nhân vốn mang tính đối lập nhau vào những năm 1990 đang thay đổi
theo hướng phóng khống hơn. Xu hướng này cũng tương tự với vấn đề sinh con. Năm
1993, 53,4% số người cho rằng việc “sau khi kết hơn thì sinh con là điều đương nhiên
và 40,2% người cho rằng “dù có kết hơn thì cũng khơng nhất thiết phải sinh con”. Năm
2018, con số trước chiếm 32,8% và con số sau chiếm 60,4% cho thấy xã hội đang dần
thừa nhận sự đa dạng trong các lối sống về việc hôn nhân, mang thai và sinh con. (Viện
nghiên cứu văn hóa phát thanh truyền hình NHK 2019)

Takahashi-người phân tích cuộc khảo sát này đã nêu ra tác động của sự thay đổi thế
hệ là nền tảng đằng sau những thay đổi trên. Mặc dù có một số ảnh hưởng của thời đại
khi nói đến việc có con, nhưng có những khác biệt đáng chú ý giữa các thế hệ khi nói
đến việc hơn nhân. Nhóm người lớn tuổi nghĩ rằng “Con người kết hơn là điều đương
nhiên” thì ngày một ít đi và thế hệ trẻ cho rằng “Việc kết hôn là điều không cần thiết”
đang ngày một tăng lên. (Takahashi 2015a; 2015b)

Dựa trên lập luận của Takahashi, những người trẻ ở độ tuổi 20 và 30 là những người
tham gia vào các cuộc thảo luận về tình u và hơn nhân, đã trải qua tuổi thiếu niên

trong xã hội Nhật Bản- nơi đang diễn ra sự thay đổi thế hệ trong nhận thức về hôn nhân
và sinh con. Có thể nói rằng họ là thế hệ đầu tiên lựa chọn lối sống mới với những giá
trị khác biệt so với những giá trị trước đây. Khi xem xét tình u và hơn nhân trong xã
hội hiện đại, điều quan trọng là phải chú ý đến những hồn cảnh và nền văn hóa mà giới
trẻ đang tiếp xúc. Hay nói cách khác, có thể rất hữu ích nếu được bối cảnh của giới trẻ.
Từ góc độ này, bài viết này đã đề cập đến các vấn đề nghiên cứu trước đây về tình u
và hơn nhân trong giới trẻ, chủ yếu từ năm 2010 trở đi.

*Nagata Natsuki Đại học sư phạm Hyogo

lOMoARcPSD|39472803

**Oosugi Naoya Tuyển dụng công nghệ (Báo cáo thường niên nghiên cứu gia
đình) số 4, 2019

2. Gia đình khơng thay đổi, xã hội thay đổi.

Kể từ trước năm 2010, đã có rất nhiều phân tích tập trung vào những thay đổi trong
hôn nhân gồm nhóm sinh và nhóm kết hơn kể từ trước năm 2010 (Sawaguchi và
Shimazaki 2004, Fujimi 2009; Và trong những năm gần đây thì có Sasaki 2012, Tanaka
2015, Toda 2015, Mugiyama 2017, Uchikoshi 2018,...) là một lập luận cần lưu ý khi
xem xét xu hướng người chưa kết hôn và kết hôn muộn kể từ năm 2010, xu hướng kết
hôn lần đầu từ năm 1965 đến năm 2009 được dựa trên Điều tra dân số quốc gia và
Thống kê quan trọng và cơ bản. Chúng ta hãy xem bài báo của Iwasawa- người đã tiến
hành phân tích bằng cách sử dụng “Khảo sát cơ bản về xu hướng sinh sản.”

Iwasawa chỉ ra rằng điều bị mất đi trong q trình của những người chưa kết hơn là
cuộc hôn nhân được hỗ trợ bởi “Mai mối theo phong cách thời kỳ tăng trưởng kinh tế
cao.” Cuộc hơn nhân này nhằm mục đích hình thành một gia đình có thể gọi là điển
hình của Nhật Bản thời hậu chiến, với những đặc điểm như mối quan hệ tại nơi làm

việc, khả năng thăng tiến của người vợ, phân cơng lao động theo giới tính và hình thành
các hộ gia đình trực hệ. Iwasawa phân tích rằng khó khăn này là ngun nhân trực tiếp
khiến người dân không kết hôn hoặc kết hôn muộn. Đúng là những cuộc hôn nhân
khơng điển hình như do bạn bè giới thiệu, có thai trước hôn nhân, những cuộc hôn nhân
mà vợ chồng cùng tuổi hoặc chồng trẻ hơn đang có xu hướng gia tăng nhưng những
cuộc hôn nhân này lại không được chủ động lựa chọn, đây được coi là kết quả của sự
suy giảm số lượng hôn nhân do mai mối trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế, điều này đã
trở nên tương đối dễ thấy. (Iwasawa 2013)

Theo Tsutsui, người đã sử dụng “Khảo sát quốc gia về phân tầng xã hội và dịch
chuyển xã hội (Khảo sát SSM)” để mô tả những thay đổi trong hành vi hôn nhân của
phụ nữ từ những năm 1960 đến năm 2010, trong những năm 1980 đã có sự gia tăng số
lượng học sinh tốt nghiệp trung học chưa kết hôn do trốn tránh hôn nhân. Với việc tiếp
tục làm như vậy, người ta cho rằng nguyên nhân dẫn đến xu hướng phụ nữ chưa kết hơn
có thể được giải thích là do phụ nữ đã tốt nghiệp đại học tiếp tục chưa kết hôn. Từ
những năm 1990 trở đi, chủ yếu là do tỷ lệ phụ nữ tốt nghiệp đại học giảm dẫn đến hôn
nhân giai cấp. Nền tảng của hôn nhân giai cấp là phụ nữ ngày càng có trình độ học vấn
cao hơn. Những người vợ chấp nhận hôn nhân đi xuống là những người đã tốt nghiệp
trung học phổ thông hoặc cao đẳng, nhưng con số này đã giảm khi số lượng phụ nữ có
trình độ học vấn cao hơn tăng lên. Ngày càng có nhiều phụ nữ có trình độ đại học luôn
trốn tránh hôn nhân, và kết quả là xu hướng hôn nhân trở thành một ảnh hưởng mạnh
mẽ. Xét trên thực tế, kể từ những năm 1960, số lượng nam giới có cơng việc ổn định
không tăng, sự không phù hợp này trong hôn nhân ngày càng gia tăng và đây có thể là
lý do khiến mọi người ngày càng không kết hôn và kết hôn muộn hơn. (Tsutsui 2018)

lOMoARcPSD|39472803

Theo cách này, trong khi xã hội đang chuyển sang tự do hơn khi nói đến ý nghĩa của
hơn nhân và sinh con, khơng còn những định kiến như chung sống và sinh con, phân
cơng lao động theo giới tính. Thực trạng xã hội Nhật Bản hiện nay là các gia đình “đa

dạng” khơng được tích cực lựa chọn. Quan điểm này dựa trên phân tích của Inaba,
người đã sử dụng “Khảo sát gia đình quốc gia (NFRJ 98,03,08) để phân tích những thay
đổi trong xu hướng gia đình. Trong đó, hơn một nửa số hộ gia đình có trẻ mầm non là
những bà nội trợ toàn thời gian, cho thấy rằng mặc dù có sự gia tăng nhẹ về bình đẳng
nhưng đặc điểm tiền đề của sự phân công lao động theo giới về cơ bản vẫn được duy trì
ở những gia đình kết hôn lần đầu từ những năm 1990. (Inaba 2011). Khi xem xét tình
u và hơn nhân sau năm 2010, điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù gia đình điển hình
dựa trên sự phân cơng lao động theo giới gồm vợ chồng và con chưa lập gia đình có ý
định tiếp tục kết hơn lần đầu, nhưng rất khó để hình thành một gia đình như vậy. Có thể
nói, cần lấy điều này làm tiền đề và quan tâm đến những gia đình với những lối sống
khơng điển hình, kể cả những người tiếp tục kết hơn lần đầu.

Như Matsuda đã chỉ ra, chúng ta cũng cần lưu ý rằng ngay cả trong một gia đình điển
hình dựa trên vai trị giới, thực tế là tình hình dao động giữa phân cơng lao động và lao
động chung (Matsuda 2013). Như Korekawa và Shintani- những người đã đã phân tích
“Khảo sát cơ bản lần thứ 15 về xu hướng sinh sản” do Viện nghiên cứu an sinh xã hội
và dân số quốc gia thực hiện đã chỉ ra rằng việc đình chỉ việc làm ln được ủng hộ như
một lối sống lý tưởng cho phụ nữ trẻ, số bà nội trợ toàn thời gian đang giảm dần qua
từng năm, cả về cuộc sống mà đàn ông mong đợi ở phụ nữ và cuộc sống của chính phụ
nữ. (Korekawa và Shintani 2017). Xét đến khó khăn khi nghỉ thai sản và chăm sóc trẻ
em cũng như khơng đủ hỗ trợ nuôi con, trong khi xã hội ngày càng khoan dung hơn với
hơn nhân và sinh con thì trong hành vi thực tế, giới ngày càng trở nên khoan dung hơn,
tập trung vào việc trở thành một bà nội trợ toàn thời gian,....ý tưởng là tạo ra một gia
đình dựa trên sự phân cơng lao động. Khi phụ nữ trẻ lựa chọn hướng đi cho cuộc đời
mình, một trong những thách thức là làm thế nào để giải quyết được sự mâu thuẫn này.

3. Ý nghĩa và giá trị của tình yêu đối với giới trẻ

1) Phân tích mối quan hệ giữa tình u và hơn nhân


Với tình huống này, tơi muốn xem xét, nghiên cứu dựa trên các cuộc khảo sát phỏng
vấn liên quan đến ý nghĩa của tình u và hơn nhân.

Fuchu, người thực hiện một cuộc khảo sát về tình u và hơn nhân ở phụ nữ chưa kết
hôn, lập luận rằng khi kết hơn, ngồi việc tính đến tình hình kinh tế và tình cảm lãng
mạn của đối phương, thái độ và nhận thức của người đàn ông đối với con cái hiện đang
bị nghi ngờ. Fuchu chỉ ra rằng những người đàn ơng có cùng giá trị về con cái được coi
là hấp dẫn và xứng đáng để kết hôn (Fuchu 2016). Ngoài ra, Omori, người thực hiện các
cuộc phỏng vấn với đàn ông và phụ nữ chưa kết hôn, nhận thấy rằng phụ nữ nói riêng
có xu hướng nói rằng tình u dẫn đến hơn nhân là ý nghĩa thực sự của "tình u" và
nói rằng họ đang cố gắng thể hiện tình yêu lãng mạn rằng càng đi lâu, người ta dường
như càng tránh xa “tình yêu” (Omori 2014). Mặc dù đây không phải là một nghiên cứu
học thuật, nhưng Momoyama Shoji, người đã thực hiện 1.000 cuộc tư vấn tình yêu

lOMoARcPSD|39472803

trong hơn 16 năm với tư cách là “đơn vị sưu tầm truyện tình yêu” đã phân biệt giữa
“đàn ông không tốt” được mong muốn làm đối tượng yêu đương nhưng không phù hợp
để kết hôn và “đàn ông tốt” không đạt yêu cầu làm đối tượng yêu đương nhưng phù hợp
để kết hôn và cách tốt nhất là cân nhắc những lựa chọn nên thực hiện để đạt được một
cuộc hôn nhân hạnh phúc. (Momoyama Shoji 2017). Điều đầu tiên mà những bài tiểu
luận này trình bày là tiền đề đối với giới trẻ ngày nay, người mà nghĩ rằng người mà
đang hẹn hị khơng nhất thiết phải là người họ sẽ kết hôn. Họ cũng tin rằng để đạt được
“tình u đích thực”, người ta phải cẩn thận xem xét mối quan hệ với người kia trong
bối cảnh hơn nhân có phù hợp hay khơng.

2) Phân tích những thay đổi trong vị thế của tình yêu.

Sau khi phân tích các tạp chí từ những năm 1970 đến những năm 2000, Tanimoto và
Watanabe đã thực hiện một cuộc khảo sát định lượng nhắm vào giới trẻ và chỉ ra rằng

quan niệm “tình yêu nhất thiết phải dẫn đến hôn nhân” đã được thay thế bằng một quan
niệm có thể gọi là “hệ tư tưởng hơn nhân lãng mạn”. Sự thay đổi này đã mở ra cánh cửa
cho những người trẻ trải nghiệm tình yêu, giờ đây họ có thể tận hưởng tình u ngay cả
khi nó khơng dẫn đến hơn nhân. Tuy nhiên, tình u và hơn nhân khơng hồn tồn tách
biệt và độc lập, một quan điểm mới cho rằng tình u khơng nhất thiết phải đi kèm với
hôn nhân mà hôn nhân phải đi kèm với tình cảm lãng mạn theo xu hướng “Tư tưởng
hơn nhân lãng mạn.” (Tanimoto và Watanabe 2019). Mặc dù phân tích của Tanimoto và
Watanabe về “sự thay đổi của thời đại” dựa trên sự phân tích của tạp chí nhưng nhóm
nghiên cứu thanh niên sử dụng nó từ năm 1990 như một dữ liệu có thể dùng để kiểm tra
những thay đổi trong ý nghĩa của tình u từ góc độ định lượng, một cuộc khảo sát
thanh thiếu niên đang được tiến hành liên tục. Theo Kimura, người đã phân tích điều
này, vào năm 1992 hành vi tình u có thể được hiểu là “thót tim” gắn liền với những
việc như lái xe, đi hát karaoke và tiêu dùng hàng hiệu, nhưng nó đã thay đổi sau năm
2002 và vào năm 2012, nó đã thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn và gắn liền với
“cuộc sống đời thường” như cảm giác bình n và an tồn. ( Kimura 2016).

Sự nổi lên của “hệ tư tưởng hôn nhân lãng mạn: mà Tanimoto và Watanabe đề cập
đến và tình yêu “hàng ngày” mà Kimura đề cập đến là những phát hiện cần lưu ý khi
xem xét mối liên hệ giữa tình u và hơn nhân. Fuchu cho rằng một người đàn ơng
chăm sóc và ni dạy con cái là một đối tượng có thể kết hơn và hấp dẫn, cịn Omori
cho rằng việc u một đối tượng khơng phù hợp với hơn nhân cịn bị xếp vào loại điều
gì đó thậm chí cịn tồi tệ hơn là kết quả của “tình yêu” theo đúng nghĩa của từ này gợi ý
rằng tiền đề của hôn nhân phải là kết quả của tình u và có thể được định vị như một
biểu hiện của “hệ tư tưởng hôn nhân lãng mạn.” Thay vì những năm 1990, người ta
nhấn mạnh vào sự tùy hứng, cảm xúc nhất thời thì ngày nay người ta nhấn mạnh vào
“cuộc sống thường ngày”, đó là lý do tại sao rất dễ để nhận biết liệu một người có thực
sự phù hợp với hơn nhân hay khơng.

Về ý kiến cho rằng tình u và hôn nhân là khác nhau, Mogi và những người khác
cho rằng con đường dẫn đến hơn nhân có sự khác biệt về mặt phân tích đó là “chuyển

sang hẹn hị” và “chuyển từ hẹn hị sang hơn nhân:. Chúng tôi đang tiến hành các cuộc
thảo luận định lượng. Theo Mogi và cộng sự, những phát hiện sau đây có được bằng

lOMoARcPSD|39472803

cách tập trung vào sự khác biệt trong việc lựa chọn đối phương. Thứ nhất, ý chí kết hơn
mạnh mẽ khơng chỉ thúc đẩy q trình chuyển sang hơn nhân mà cịn có tác dụng ngăn
chặn sự tan vỡ của một mối quan hệ. Ngoài ra sự kết hợp giữa trình độ học vấn cũng tạo
nên sự khác biệt trong việc một người được chọn làm đối tượng hẹn hò hay với tư cách
là một người bạn đời. Có sự khác biệt trong việc lựa chọn bạn đời giữa phụ nữ và đàn
ông, mặc dù loại công việc và trình độ học vấn khơng thúc đẩy q trình chuyển đổi
sang hẹn hị, nhưng chúng có tác động thúc đẩy rõ ràng đối với quá trình chuyển đổi từ
hẹn hị sang kết hơn (Mogi 2014; Mogi và Ishida 2019). Bằng cách xem xét quan điểm
của Mogi và cộng sự về “chuyển sang hẹn hò” và “chuyển từ hẹn hị sang hơn nhân”,
chúng ta có thể kết hợp ý tưởng của Tanimoto và Watanabe rằng “tình yêu nhất thiết
phải dẫn đến hôn nhân” và “ `chủ nghĩa lãng mạn.'' Nghiên cứu và phân tích chi tiết hơn
sẽ được tiến hành về `` Tư tưởng hôn nhân '', sự thay đổi xã hội của Kimura về tình yêu
trở thành `` hàng ngày '', và sự khác biệt mang tính diễn ngơn giữa tình u dẫn đến tình
u và tình u khơng dẫn đến tình u, như được thảo luận bởi Fuchu và Omori. Tơi tự
hỏi liệu điều đó có khả thi hay không. Trong một xã hội ngày càng trở nên khoan dung
hơn với hôn nhân và sinh con, chúng tôi đang xem xét những lựa chọn mà giới trẻ đưa
ra về tình u và hơn nhân trước những mâu thuẫn xung quanh, bao gồm cả ý tưởng trở
thành một bà nội trợ tồn thời gian và mong muốn có một gia đình hạnh phúc, một gia
đình dựa trên vai trị giới tính. Bạn sẽ có thể tiến gần hơn đến thực tế những gì bạn đang
làm.

4. Sự chênh lệch giữa săn lùng hôn nhân và giới trẻ

1) Giữa “muốn kết hôn” và “không muốn kết hôn”


Từ những năm 1980 đến nay, quan niệm “Dự định sẽ kết hơn vào một ngày nào đó”
đã được duy trì lâu dài và được biết đến một cách rộng rãi trong giới trẻ. Theo “khảo sát
cơ bản lần thứ 15 về xu hướng sinh sản” của Viện Nghiên cứu An sinh Xã hội và Dân
số Quốc gia, cuộc khảo sát vào năm 2015 cho thấy có 85.7% nam giới và 89.3% nữ giới
có suy nghĩ “Dự định sẽ kết hơn vào một ngày nào đó”. Ngồi ra, theo cùng một cuộc
khảo sát đó, trong 40-50% người trả lời rằng “có dự định cả đời khơng kết hơn”, có khả
năng sẽ thay đổi thành “Dự định sẽ kết hôn vào một ngày nào đó” nếu như “đối phương
xuất hiện” hoặc “ cải thiện được phương diện về kinh tế” (Kamano - Beppu 2017). Khi
ước tính mong muốn kết hơn theo nhóm, nhận thấy rằng nhóm càng trẻ thì mong muốn
kết hơn càng thấp (Mizuochi - Tsutsui - Asai 2010). Nếu dựa trên điều đó, ngồi việc
“muốn kết hơn” và “khơng muốn kết hơn”, dù cho có mong muốn kết hơn đi chăng nữa
thì giới trẻ cũng gặp khó khăn trong việc biến mong muốn thành hành động ngay cả khi
có cơ hội. Tình trạng này từ xưa đã được gọi là “trì hỗn hơn nhân” (Ehara 1988), cho
tới bây giờ đã là đối tượng của nhiều cuộc điều tra và phân tích.

2) Sự chênh lệch về kết quả trong việc săn lùng hôn nhân

Tơi xin xem qua “Báo cáo khảo sát hình thành hơn nhân và gia đình năm 2010” của
Văn phịng Nội các được thực hiện từ năm 2010, để xem xét tồn diện ngun nhân
khiến giới trẻ khơng/ khơng thể kết hôn. Cuộc khảo sát này cho thấy, khoảng 60% trong
số người chưa kết hơn “hiện tại chưa có đối tượng kết hôn”, nam giới sẽ dễ dàng kết

lOMoARcPSD|39472803

hơn hơn khi có cơng việc ổn định, mức thu nhập hàng năm 3 triệu yên là bước ngoặt đối
với việc kết hơn, nữ giới có những lo lắng về “bản thân không hấp dẫn”, “không biết địa
điểm gặp gỡ bạn đời ở đâu”. Đối với trường hợp của nam giới, họ lo ngại về sự ổn định
kinh tế, đối với trường hợp của nữ giới thì một số mối lo ngại được nhắc đến là về nghĩa
vụ trong quan hệ với bố mẹ và về cuộc sống hôn nhân. Mặc dù cần lưu ý rằng đây là
một cuộc khảo sát trực tuyến, nhưng đây là một cuộc khảo sát mang tính gợi ý cao

nhằm giải quyết các vấn đề về chưa kết hôn hoặc kết hôn muộn đã được xem xét trước
đây. Yamada, người đã tóm tắt các kết quả khảo sát, nhận thấy rằng “sự chênh lệch về
kinh tế”, “sự chênh lệch về cuộc gặp gỡ tự nhiên” và “sự chênh lệch về những cuộc gặp
gỡ mang tính tích cực” đang phát sinh trong giới trẻ, đây là lý do cho việc muốn nhưng
không thể kết hơn, và cũng chỉ ra rằng có sự chênh lệch trong giới tính ngày càng gia
tăng. (Yamada 2010).

Bản phác thảo này của Yamada, đã được xác nhận trong các cuộc khảo sát khác.
Miwa đã phân tích “Khảo sát toàn quốc về phong cách làm việc và lối sống” do Viện
Khoa học Xã hội thuộc Tokyo thực hiện và nhận thấy có 5 lí do khiến giới trẻ còn độc
thân được đưa ra là “còn quá sớm”, “chờ đợi đúng thời điểm”, “khơng có dự định kết
hơn”, “lý do tài chính” và “khơng gặp gỡ ai”. Trong những lí do trên thì lí do được đưa
ra nhiều nhất là “không gặp gỡ ai” nhưng, sau khi điều chỉnh các đặc điểm cá nhân thì
khơng nhận thấy rằng việc săn lùng hơn nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến việc kết hơn
(Miwa 2010). Murakami, người cũng phân tích việc săn lùng hôn nhân, nhận thấy rằng
khoảng một nửa số thanh niên tham gia vào các hoạt động mai mối, đặc biệt nhiều
người trong số đó là thơng qua bạn bè, người quen của cả nam và nữ. Săn lùng hơn nhân
gắn liền với việc dễ dàng tìm được bạn đời, nhưng những người chủ động một cách tích
cực thường là nhân viên chính thức hoặc đã có kinh nghiệm hẹn hò. Hơn nữa, ở nam
giới, những người làm việc tồn thời gian có xu hướng có động lực hơn để tìm bạn đời
(Murakami 2010). Yamada chỉ ra rằng những người đàn ơng may mắn có điều kiện kinh
tế và việc làm có nhiều khả năng đạt được kết quả trong việc tìm kiếm hơn nhân hơn,
trong khi những người khơng có điều kiện đó ít có khả năng đạt được kết quả hơn, trong
trường hợp của nữ giới việc làm khơng ổn định chính là động lực thúc đẩy hơn nhân
(ngồi những điều trên, Suzuki 2012; Inaba - Iwasawa - Sugino - Yoshida 2015;
Kobayashi - Nochi 2016; Korumushi 2018, v.v) Điều này có thể hiểu là “sự chênh lệch”
trong việc săn lùng hôn nhân.

5. Giao tiếp và mai mối thông qua việc sử dụng Internet


1) Lãnh cảm tình dục hố và Internet

Việc “thiếu gặp gỡ” có thể giải thích là do từ chối giao lưu nơi làm việc và lao động
tạm thời tăng lên, nhưng ngoài ra cịn một góc nhìn khác là phải chăng ngun nhân
dẫn đến khó khăn trong hơn nhân là do bản thân người trẻ mất đi nhiệt huyết với tình
dục và tình u. Hayashi đã phân tích “Khảo sát về hành vi tình dục của thanh thiếu
niên” do Hiệp hội Giáo dục Tình dục Nhật Bản thực hiện liên tục từ những năm 1970 và
nhận thấy rằng tỉ lệ hẹn hò, hơn và quan hệ tình dục vốn đã gia tăng cho đến những năm
1990, đã trì trệ và giảm dần kể từ những năm 1990, đồng thời tỷ lệ người chưa có kinh
nghiệm với tình dục ngày càng tăng lên. Hơn nữa, khi xem xét kết quả theo thế hệ, có

lOMoARcPSD|39472803

vẻ như thế hệ trẻ bắt đầu hơn và quan hệ tình dục sớm hơn, đồng thời tốc độ trải nghiệm
đang chậm lại. (Hayashi 2018). Nhiều nghiên cứu khác nhau đã được thực hiện bằng
cách sử dụng cùng một cuộc khảo sát về lý do dẫn đến sự thay đổi này, nhưng ở đây tôi
muốn xem xét bài luận của Tsuchida, trong đó tập trung vào những thay đổi về nguồn
thông tin về các mối quan hệ bạn bè và tình dục. Tsuchida nói rằng ngày nay Internet là
cách chính để thu thập thơng tin về tình dục và ngày càng có ít cơ hội chia sẻ thơng tin
bằng cách hỏi bạn bè về trải nghiệm tình dục của họ. Cho đến những năm 1990, cả
những người có quan hệ tình dục và khơng quan hệ tình dục đều có các kênh gặp mặt
trực tiếp để trao đổi kinh nghiệm và thông tin với nhau. Tuy nhiên, khi tình dục trở nên
“riêng tư hố”, đã nảy sinh sự chia rẽ giữa những người nói về tình dục và những người
khơng nói, và điều này dẫn đến sự chia rẽ giữa những người quan hệ tình dục và những
người khơng quan hệ tình dục. (Tsuchida 2018).

Điều thú vị ở đây là 1) Nguồn thông tin đã chuyển từ bạn bè sang Internet 2) việc
trao đổi thơng tin giữa những người có trải nghiệm tương tự nhau ảnh hưởng đến hành
vi, được thảo luận liên quan đến hành vi tình dục. Nếu theo như Matsui, thơng tin từ
Internet có đặc điểm là suy ra lựa chọn tiếp theo dựa trên các sở thích trước đó và do đó

được định vị là một kiến trúc “củng cố thế giới của một người” (Matsui 2018). Khi tính
đến điều này, việc chuyển sang Internet như một nguồn thông tin về tình dục khơng
phải là làm sâu sắc thêm sự thân mật thông qua tương tác với người khác, điển hình là
người khác giới, mà là làm sâu sắc thêm sở thích và niềm vui của chính mình. Theo
Habuchi, người phân tích việc sử dụng phương tiện truyền thơng và tình yêu của các
sinh viên đại học, lý do khiến họ ngại u là vì họ thích đi ăn một mình, đọc báo và sử
dụng các bảng tin lớn cũng như các trang đăng video hơn là SNS, thích game, truyện
tranh và anime (Habuchi 2016). Yamada cũng trích dẫn tương tự tình yêu ảo, nhắm vào
nội dung làm nền tảng cho những người không hứng thụ với theo đuổi yêu đương ngoài
đời và lập luận rằng những người trẻ tuổi đang bắt đầu áp dụng chiến lược phân bổ sự
thân mật cho các đối tượng không phải là đối tác lãng mạn (Yamada 2017).

Tuy nhiên, sự phổ biến của Internet và SNS dường như cũng có tiềm năng mở rộng
khả năng hình thành các mối quan hệ giữa con người với nhau. Theo Omori, người
được phỏng vấn về sự hình thành các mối quan hệ lãng mạn trong giới trẻ và giao tiếp
bằng điện thoại di động và e-mail, đây là những “công cụ không thể thiếu” để giới trẻ
hình thành các mối quan hệ lãng mạn và nội dung, biểu tượng cảm xúc cũng rất quan
trọng. Người ta cũng chỉ ra rằng cảm giác khoảng cách giữa người với người cũng được
đo bằng tốc độ phản hồi (Omori 2014).

Việc mai mối sử dụng SNS đã diễn ra tích cực ở Hoa Kỳ và trong năm 2010, hơn
20% người khác giới đã gặp bạn đời của họ bằng phương thức trực tuyến. Tỷ lệ của cơ
hội gặp gỡ đồng giới là cao nhất và đang tăng nhanh lên gần 70%. Về trường hợp gặp
gỡ các mối quan hệ khác giới, sự giới thiệu phổ biến nhất là do bạn bè giới thiệu, chỉ
chiếm dưới 30%. Tiếp theo là các địa điểm giải trí, nơi làm việc và cựu sinh viên đại
học. Tuy nhiên, sự giới thiệu từ bạn bè, nơi làm việc, cựu sinh viên đại học, v.v. đang
giảm dần và hiện đang được thay thế bởi SNS (Rosenfeld và Thomas 2012). Một nghiên
cứu năm 2017 cho thấy 1/3 số cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ là kết quả của việc kết đôi trực
tuyến, giữa những người hoàn toàn xa lạ và số lượng các cuộc hôn nhân giữa các chủng


lOMoARcPSD|39472803

tộc xảy ra ở Hoa Kỳ trong hai thập kỷ qua đã tăng lên. điều đó cho thấy điều này có thể
giải thích cho sự gia tăng nhanh chóng (Ortega và Hergovich 2017). Nếu những thay
đổi về nguồn thơng tin đang tác động đến vấn đề tình dục và sự lãng mạn của giới trẻ thì
sự lan truyền của SNS có thể sẽ tạo ra một xu hướng lãng mạn và tình dục khác biệt hơn
bao giờ hết. Để kết thúc bài viết này, tôi xin phân tích và thảo luận ngắn gọn về tình
trạng sử dụng và sự phù hợp của các ứng dụng mai mối.

2) Trạng thái sử dụng ứng dụng mai mối và thực tế của việc matching.

Trong phần này, chúng tôi sẽ đề xuất tính hiệu quả của việc phân tích bằng cách sử
dụng cái gọi là dữ liệu lớn của các dịch vụ web (bao gồm cả ứng dụng điện thoại thông
minh) làm phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội. Hiện nay, khảo sát mẫu sử dụng
phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên là phương pháp nghiên cứu chủ đạo trong các ngành
khoa học xã hội. Có thể phân tích dữ liệu lớn từ các dịch vụ web, đặc biệt là nhật ký
hành vi của người dùng dịch vụ vì (1) cơng ty đã có dữ liệu, giúp giảm chi phí nghiên
cứu; và (2) những thay đổi trong từng cá nhân có thể được theo dõi và nó đã đi vào hoạt
động. Dịch vụ có ưu điểm lớn là thu thập được dữ liệu cần thiết nên thời gian cần thiết
để lấy dữ liệu là trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, có một thành kiến lớn cho rằng kết
quả chỉ giới hạn ở những người sử dụng dịch vụ nên không thể ước tính được tổng thể.
Nếu muốn thực hiện một cuộc khảo sát tiềm năng, điểm bất lợi là không chỉ cần liên kết
dữ liệu mà còn phải cộng tác chặt chẽ hơn với công ty.

Trong phần này, chúng tôi đã xem xét liệu dữ liệu lớn của “Zexy Enmusubi'' do
Recruit Marketing Partners Co., Ltd. cung cấp có hiệu quả cho việc nghiên cứu phân
tích hoạt động hơn nhân từ một góc nhìn khác so với trước đây hay không. “Zexy
Enmusubi,” một trang web mai mối do “Zexy” ra mắt vào tháng 4 năm 2015, có số
lượng thành viên tích lũy là 300.000 (tính đến tháng 5 năm 2017) và có những người
dùng có mong muốn kết hơn mạnh mẽ (ý định kết hơn cao trong vịng 2-3 năm) Hành

động của người dùng trong dịch vụ này về cơ bản là năm hành động sau.

1. Tìm ai đó, 2. Khi tìm thấy người mình thích, hãy cho họ thấy rằng mình quan
tâm (nhấp vào "Thích") 3. Khi cũng được đối phương nhấn Thích! cả hai sẽ có thể trao
đổi tin nhắn (kết đơi), 4. Trao đổi bằng chức năng trị chuyện trong dịch vụ (tin nhắn) và
5. Sau khi tìm được đối tác, bạn sẽ có thể rời khỏi dịch vụ (khảo sát). Tập trung vào
những hành vi này, chúng tôi đã xác minh xem liệu a) Hệ thống mai mối Zexy có thể
được gọi là dữ liệu lớn hay khơng, b) Sự thiên vị trong dữ liệu mai mối Zexy và c) liệu
nghiên cứu dữ liệu lớn này có thể giúp làm rõ hành vi săn lùng hôn nhân hay không.

a. Hệ thống mai mối Zexy có thể được gọi là dữ liệu lớn không?

Chúng tôi đã điều tra về số lượng đăng ký thành viên của Zexy Enmusubi từ ngày
1/5/2017 đến ngày 30/4/2018, số lượng Thích! và số lượng Kết đơi. Kết quả được thể
hiện ở Bảng 1. Hơn nữa, những thành viên được xác định là sử dụng dịch vụ một cách
gian lận sẽ bị loại khỏi tính tốn.

lOMoARcPSD|39472803

Bảng 1: Tóm tắt trạng thái sử dụng mai mối Zexy theo giới tính

Giới tính Số lượng đăng ký thành viên Số lượng Thích! Số lượng Kết đôi
Nam 95,499 7,490,299 459,417
Nữ 140,002 1,929,060 634,023

Điều quan trọng cần lưu ý là khơng thể tính số người tham gia bảng câu hỏi tại thời
điểm này đối với những thành viên đã tiếp tục sử dụng dịch vụ tính đến ngày 30/4/2018
nên số lượng sẽ tăng lên trong thời gian tới. Theo Bộ Nội vụ và Truyền thơng, dữ liệu
lớn khơng chỉ nhấn mạnh khía cạnh định lượng mà cịn cả khía cạnh định tính với nhiều
loại dữ liệu cảm biến như lịch sử mua hàng, lịch sử nhập cảnh, địa điểm, lịch sử đi xe,

nhiệt độ, v.v. (Bộ Nội vụ và Truyền thông 2012). Dữ liệu được sử dụng lần này có thể
được coi là một lượng dữ liệu hành vi có thể so sánh được với bất kỳ dữ liệu nào khác.

b. Sự thiên vị trong dữ liệu Zexy Enmusubi

Vì dữ liệu lớn này được giới hạn cho người dùng Zexy Enmusubi nên phải tính đến
việc nó có tính sai lệch cao. Chúng tơi muốn tính đến số lượng người đăng ký theo tỉnh
như một sự thiên vị dường như đặc biệt mạnh mẽ vào thời điểm này. 25% thành viên
sống ở Tokyo và so với tỷ lệ dân số thực tế, số lượng thành viên có xu hướng thiên về
các khu vực đô thị. Điều này là do văn hóa sử dụng dịch vụ web để tìm kiếm đối tác cịn
mới ở Nhật Bản và tỷ lệ sử dụng internet qua điện thoại thông minh ở khu vực phía
Nam Kanto rất cao (Bộ Nội vụ và Truyền thông 2018) được coi là một sự thiên vị. Do
đó, mặc dù dữ liệu hiện tại phản ánh mạnh mẽ tình hình ở Tokyo nhưng có thể suy ra
rằng tình hình sẽ giảm bớt theo thời gian khi các dịch vụ được mở rộng.

c. Liệu nghiên cứu dữ liệu lớn này có làm sáng tỏ hành vi săn lùng hôn nhân?

Sự phù hợp là một điều đặc biệt quan trọng đối với người dùng dịch vụ của web này.
Nếu bạn so sánh với Nanpa, nó sẽ tương đương với việc bạn đã tiếp cận thành cơng đối
phương và có được thông tin liên hệ tạm thời. Zexy Enmusubi sẽ tiến hành một bảng
câu hỏi khi người dùng hủy tư cách thành viên của họ. Trong khảo sát được thực hiện từ
ngày 1 tháng 5 năm 2017 đến ngày 30 tháng 4 năm 2018, trung bình số lần trả lời trùng
khớp “Tôi bỏ cuộc sau khi gặp đối phương” của người dùng nam là 23,38 lần, và của
người dùng nữ là 17,23 lần. Mặt khác, số lần trả lời trùng khớp "Tơi bỏ cuộc vì khơng
tìm được ai" của người dùng nam là 11,29 lần, và của người dùng nữ là 7,85 lần. Số câu
trả lời “Tôi bỏ cuộc sau khi gặp đối phương” nhiều hơn hẳn số câu trả lời "Tơi bỏ cuộc
vì khơng tìm được ai" cho thấy số lần trả lời trùng khớp có mối quan hệ mật thiết với

lOMoARcPSD|39472803


đối tượng kết đôi. Bằng cách phân tích số lượng câu trả lời trùng khớp, chúng ta có thể
suy ra xu hướng thiên vị do hành vi săn lùng hơn nhân. Hình 1 bên dưới là hiển thị trực
quan dựa trên “tuổi”. Chúng tôi sử dụng tuổi của phụ nữ làm mẫu số và có thể thấy tỷ lệ
nữ giới ở mỗi độ tuổi phù hợp với nam giới ở độ tuổi nào.

Hình 1: Mối quan hệ giữa độ tuổi và sự phù hợp
Từ Hình 1, có thể thấy sự khác biệt về tuổi tác giữa nam và nữ được ghép đôi là nam
giới được ghép đôi với phụ nữ trẻ hơn ở nhiều độ tuổi khác nhau cho đến khi họ khoảng
30 tuổi, tuy nhiên, khi độ tuổi của nam giới tăng lên, phạm vi độ tuổi phù hợp sẽ thu hẹp
lại. Theo Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi, khoảng cách tuổi tác giữa các cặp vợ chồng lần
đầu tiên kết hôn đang giảm dần qua từng năm, với mức chênh lệch tuổi trung bình giảm
từ 2,5 tuổi năm 1975 xuống còn 1,7 tuổi vào năm 2015 (Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi
2017). Tuy nhiên, phân tích này cho thấy sự chênh lệch tuổi tác trong việc kết hơn thu
hẹp khi nam giới già đi, vì vậy ngoài các vấn đề như thay đổi chuẩn mực giới tính và
trình độ học vấn cao hơn của nữ giới thì ảnh hưởng của việc tăng tuổi kết hơn cũng nên
được xem xét. Bằng cách phân tích dữ liệu bằng dữ liệu lớn, chúng ta có thể phân tích
hành vi chi tiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, sự thiên vị của người sử dụng dịch vụ web
là một yếu tố không thể bỏ qua. Thách thức trong tương lai là xem xét giảm thiểu sự
biến dạng dữ liệu bằng cách kết hợp sự thiên vị này với các phương pháp nghiên cứu và
dữ liệu khác.

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

Tài liệu tham khảo

1. Yumiko Ehara (1988). Sự chuyển đổi ý nghĩa của hôn nhân – mất tính chuẩn mực
và định hướng phán đốn sở thích. Hiệp hội Tâm lý Gia đình Nhật Bản biên tập,
Báo cáo Thường niên Tâm lý Gia đình 6 – Tâm lý Gia đình Hơn nhân, Kaneko

Shobo, 167-181.

2. Akiko Fuchu (2016). Điều kiện của hôn nhân tình yêu: Phỏng vấn phụ nữ chưa
lập gia đình sống ở khu vực thủ đô Tokyo. Báo cáo thường niên về nghiên cứu
gia đình, tập 41, 41-57.

3. Junko Fujimi (2009). “Hình dáng của vợ chồng/hôn nhân” Junko Fujimi và Riko
Nishino (eds.). “Các gia đình Nhật Bản hiện đại: Diện mạo của họ nhìn từ
NFRJ”, Yuhikaku, 55-71

4. Kazuyo Habuchi (2016). Chuyện tình thời hiện đại và việc sử dụng phương tiện
truyền thông của sinh viên đại học: Mị lực “ Khơng ở đây thì ở đâu” Hidenori
Tomita (ed.). “Xã hội hậu di động: Hướng tới thời đại ngoại tuyến thứ hai,”
Sekai Shisosha, 141-158.

5. Yusuke Hayashi (2018). “Xu hướng hành vi tình dục và nhận thức về tình dục ở
giới trẻ” Yusuke Hayashi (ed.). “Hành vi tình dục ở giới trẻ đã thay đổi như thế
nào? 40 năm qua như đã thấy trong một cuộc khảo sát quốc gia” Minerva
Shobo, 10-35

6. Miho Iwasawa (2013). Thất hôn, gia tăng hôn nhân - Phân tích xu hướng người
chưa kết hôn và cơ cấu hôn nhân lần đầu từ những năm 1970 sử dụng bảng kết
hôn lần đầu theo kiểu kết hôn lần đầu. Nghiên cứu các vấn đề dân số, 69-2
(2013.6), 1-34

7. Akihide Inaba (2011). Thực trạng và những thay đổi trong gia đình Nhật Bản
nhìn từ NFRJ98/03/08. Nghiên cứu Xã hội học Gia đình, 23(1), 43-52

8. Akihide Inaba, Miho Iwasawa, Isamu Sugino, Takashi Yoshida (2015). Quan
điểm của giới trẻ về việc hình thành hơn nhân và gia đình - Tóm tắt và quan điểm

của khảo sát nhận thức về hôn nhân và hình thành gia đình. Tổng Giám đốc Văn
phòng Nội các về hoạch định chính sách, “Báo cáo khảo sát nhận thức về hơn
nhân và gia đình năm 2014”. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại
/>
9. Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi (2017). Tóm tắt Báo cáo đặc biệt về thống kê
quan trọng năm 2016 “Thống kê về hôn nhân”. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm
2019 tại /> gaikyo.pdf

10. Saori Kamano và Shikai Beppu (2017). Sự lựa chọn của hôn nhân. “Khảo sát cơ
bản năm 2015 về các vấn đề an sinh xã hội và dân số (Khảo sát quốc gia về hôn
nhân và sinh con); hôn nhân và sinh con ở Nhật Bản hiện đại - Khảo sát cơ bản
về xu hướng sinh con lần thứ 15 (Khảo sát người độc thân) và báo cáo khảo sát
hôn nhân”, 31-33.

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

11.Yu Korekawa và Yuriko Shintani, (2017). Hình ảnh hơn nhân hy vọng. "Khảo sát
cơ bản năm 2015 về các vấn đề an sinh xã hội và dân số (Khảo sát quốc gia về
hôn nhân và sinh con); hôn nhân và sinh con ở Nhật Bản hiện đại - Khảo sát cơ
bản về xu hướng sinh con lần thứ 15 (Khảo sát người độc thân)”, 27-30

12.Eriko Kimura (2016). "Từ tình yêu nhấn mạnh 'đam mê' đến 'mối quan hệ' - So
sánh các cuộc khảo sát năm 1992, 2002 và 2012" Masayuki Fujimura, Tomohiko
Asano, Kazuyo Habuchi (eds.). “Hạnh phúc của tuổi trẻ hiện đại: Sống trong
một xã hội đầy lo lắng.” Kouseisha Koukaku,137-168

13.Jun Kobayashi và Chieko Nochi (2016). Các yếu tố quyết định hôn nhân trong
việc săn tìm hơn nhân là gì? Từ góc độ nghiên cứu hơn nhân, phân tích định

lượng sử dụng Trung tâm hỗ trợ hôn nhân Ehime làm trường hợp nghiên cứu.
“Lý thuyết và Phương pháp”, 31(1), 70-83

14.Masaaki Mizuochi, Junya Tsutsui, Yukiko Asai (2010). “Mong muốn kết hơn có
yếu đi không?” Hiroki Sato, Akiko Nagai, và Satoshi Miwa (eds.). “Bức tường
hôn nhân: Cấu trúc của việc không kết hôn và kết hôn muộn”, Keiso Shobo, 97-
109

15.Shigeki Matsuda (2013). Lý thuyết tỷ lệ sinh giảm: Tại sao đất nước này không
trở thành nơi dễ dàng kết hôn và sinh con?. Keiso Shobo Matsuda

16.Hiroshi I (2018). “Chúng tôi không thể ngừng sử dụng LINE” Wataru Arita và
Hiroshi Matsui (eds.). “Xã hội học giao tiếp khác nhau”, Nhà xuất bản Hokuju,
26-29

17.Ryota Mugiyama (2017). Nghề nghiệp và chuyển sang hôn nhân: Sự khác biệt về
giới tính trong tác động của loại việc làm, loại công việc, quy mô công ty và sự
thay đổi địa vị. “Nghiên cứu Xã hội học Gia đình”, 29 (2), 129-141

18.Akane Murakami (2010). Thực trạng hoạt động hẹn hị và kết hơn của giới trẻ:
Phân tích từ một cuộc khảo sát quốc gia. “Xã hội học về hiện tượng “Săn lùng
hôn nhân”: Việc lựa chọn vợ/chồng hiện nay ở Nhật Bản”, Toyo Keizai Inc., 43-
64.

19.Tetsu Miwa (2010). “Nhóm những người chưa kết hôn hiện đại” Hiroki Sato,
Akiko Nagai, Tetsu Miwa (eds.). “Bức tường hôn nhân: Cấu trúc của việc không
kết hôn và kết hôn muộn”, Keiso Shobo, 41-58.

20.Momoyama Shoji (2017). Tư vấn tình yêu để sinh tồn. East Press
21.Akira Mogi (2014). Xem xét lại q trình kết hơn của phụ nữ Nhật Bản: Tập


trung vào sự khác biệt trong cách các cặp đôi gặp nhau. Nghiên cứu Nhân khẩu
học, 50, 55-74
22.Akira Mogi và Hiroshi Ishida (2019). “Con đường dẫn đến hôn nhân: Từ gặp gỡ
đến hẹn hị và kết hơn” Hiroki Sato và Hiroshi Ishida (eds.). Gặp gỡ và kết hôn,
Keiso Shobo, 44-75
23.Viện nghiên cứu văn hóa phát thanh truyền hình NHK (2019). Tóm tắt kết quả
khảo sát “Thái độ của người Nhật” lần thứ 10 (2018). Truy cập ngày 3 tháng 7
năm 2019 tại />24.Misa Omori (2014). "Tình u" có ý nghĩa gì với người trẻ? Phân tích thơng qua
thảo luận nhóm tập trung. Báo cáo thường niên về nghiên cứu gia đình, 39, 109-
127.

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

25.Misa Omori (2014). Người trẻ thiết lập mối quan hệ lãng mạn bằng cách nào?
Tập trung vào giao tiếp di động. Nghiên cứu quan hệ gia đình, 33, 27-39

26.Ortega, Josué and Hergovich, Philipp (2017). The Strength of Absent Ties:Social
Integration via Online Dating. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại
/>
27.Rosenfeld, Michael J. and Thomas, Reuben J (2012). Searching for a Mate:
The Rise of the Internet as a Social Intermediary. American Sociological
Review, 77 (4), 523-547

28.Keiichi Sawaguchi và Naoko Shimazaki (2004). Những thay đổi trong quá trình
chuyển tiếp sang tuổi trưởng thành: Sự đồng bộ giữa trường học, nghề nghiệp và
gia đình. “Cấu trúc và sự chuyển đổi của các gia đình hiện đại: Phân tích kinh tế
lượng dựa trên Khảo sát Gia đình Quốc gia (NFRJ98)”, 99-120


29.Naoyuki Sasaki (2012). Hôn nhân trong thời đại không chắc chắn: Xem xét ảnh
hưởng của tiềm năng kiếm tiền thông qua khảo sát về cuộc sống của JGSS.
Nghiên cứu Xã hội học Gia đình, 24 (2), 64-152.

30.Fumiko Suzuki (2012). Phụ nữ trẻ lưỡng lự trước những lựa chọn trong cuộc
đời: Trong bối cảnh việc làm không ổn định, kết hôn muộn và không kết hôn.
Chuỗi bài thảo luận Dự án Nghiên cứu của Ban Khoa học Xã hội thuộc Viện
Khoa học Xã hội Đại học Tokyo, 63
Bộ Nội vụ và Truyền thông (2012). Sách trắng về Thông tin và Truyền thông
2012. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại
/>
31.Bộ Nội vụ và Truyền thông (2018). Sách trắng về Thông tin và Truyền thông
2018. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại
/>
32.Yuichi Takahashi (2015). Quan điểm về hôn nhân: “Tôi không cần kết hôn” đang
gia tăng trở lại. “Cấu trúc ý thức của người Nhật hiện đại”, Nhà xuất bản NHK,
20- 25.

33.Yuichi Takahashi (2015). Có con: “Khơng cần thiết phải có con” đang gia tăng
trở lại. “Cấu trúc ý thức của người Nhật hiện đại”, Nhà xuất bản NHK, 26-31.

34.Naho Tanimoto và Daisuke Watanabe (2019). "Tư tưởng tình yêu lãng mạn và Tư
tưởng hôn nhân lãng mạn - Chuyển đổi và ra đời," Jun Kobayashi và Kenji
Kawabata (eds.). "Chuyển đổi tình u và hơn nhân: Đọc thời kỳ Heisei bằng dữ
liệu", Shinyosha, 48-70

35.Junya Tsutsui (2018). “Lựa chọn hôn nhân của phụ nữ Nhật Bản từ những năm
1960” Hei Arakusa (eds.). “Báo cáo khảo sát SSM năm 2015 2 Dân số/Gia
đình”, 61-76


36.Yoko Tsuchida (2018). “Giới trẻ thụ động trong tình dục và tình yêu – Sự thật
đằng sau nó và ảnh hưởng của tình bạn”, Yusuke Hayashi (eds.). "Hành vi tình
dục của giới trẻ đã thay đổi như thế nào? 40 năm qua như được thấy trong một
cuộc khảo sát quốc gia", Minerva Shobo, 152-172

37.Junhito Toda (2015)0. So sánh hành vi kết hôn/sinh con và việc làm với nhóm
mới được thêm vào (Đặc điểm: Đường đời của phụ nữ). Nghiên cứu Kinh tế Hộ
gia đình, 108, 8-26.

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

38.Keiko Tanaka (2015). Mơ hình mong muốn của phụ nữ trẻ chưa lập gia đình về

công việc, hôn nhân và sinh con. Nghiên cứu Kinh tế Hộ gia đình, 108, 6-17

39.Fumiya Uchikoshi (2018). Liên kết giai cấp trong độ tuổi chưa kết hơn: Một phân

tích so sánh thuần tập về các mơ hình giáo dục hôn nhân. Lý thuyết và Phương

pháp, 33 (1), 15-31.

40.Masahiro Yamada (2010). Thực trạng q trình kết hơn của thanh niên và khả

năng hỗ trợ hình thành gia đình. Tổng Giám đốc Chính sách Văn phịng Nội các,

Báo cáo Khảo sát về Hình thành Hơn nhân và Gia đình năm 2010. Truy cập ngày


10 tháng 4 năm 2019 tại

/>
mokuji_ pdf.html

41.Masahiro Yamada (2017). Tương lai của hơn nhân ở Nhật Bản – khó hay khơng

cần thiết. “Gặp gỡ và kết hôn”, Nihon Keizai Hyoronsha, 25-44

42.Colmusi Olga (2018). Tác động ngắn hạn của việc “ săn tìm hơn nhân” đối với

hơn nhân - Phân tích so sánh giữa nam và nữ về quá trình chuyển đổi sang hơn

nhân. Nghiên cứu Quan hệ Gia đình, 37, 49-61

Ghi chú bổ sung
Trong bài báo này, Osugi phụ trách viết, phân tích dữ liệu và tạo sơ đồ, cịn Nagata phụ
trách phần còn lại. Bài viết này được hỗ trợ một phần bởi khoản tài trợ nghiên cứu từ
Recruit Technologies Co., Ltd.

Downloaded by linh tran ()


×