TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt tại các đô thị không
chỉ còn là vấn đề riêng lẻ của một quốc gia hay một khu vực mà nó đã trở thành vấn
đề toàn cầu. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới trong
thời gian qua đã có những tác động lớn đến môi trường, đã làm cho môi trường sống
của chúng ta bị thay đổi và ngày càng có chiều hướng đi xuống. Những năm gần đây
nhân loại đã phải quan tâm nhiều đến vấn đề ô nhiễm môi trường không khí đó là: sự
biến đổi của khí hậu – nóng lên toàn cầu, sự suy giảm tầng ôzôn và mưa axít
Đối với Việt Nam : "Tại các đô thị lớn ở Việt Nam, ô nhiễm không khí ảnh
hưởng tới hoạt động của người dân mọi lúc, mọi nơi, nhất là thủ đô Hà Nội. Đây
là một trong những thành phố ô nhiễm nhất châu Á, và thành phố ô nhiễm nhất
khu vực Đông Nam Á", ông Jacques Moussafir, công ty ARIA Technologies nước
Pháp cảnh báo.
"Nguồn ô nhiễm từ hoạt động giao thông chiếm tới 70% tỷ lệ nguồn gây ô
nhiễm ở Hà Nội. Các nguồn gây ô nhiễm khác là hoạt động từ làng nghề tái chế,
khu vực xây dựng", ông Nguyễn Văn Thùy, quyền giám đốc Trung tâm Quan
trắc môi trường nhận định.
Hà Nội là 1 trong trung tâm kinh tế quan trọng của đất nước. Và cũng là
nơi có tập trung đông đúc nhiều phương tiện giao thông. Mỗi năm Hà Nội có tốc
độ tăng bình quân các phương tiện giao thông từ 12% – 15%, các phương tiện này góp
phần lớn vào lượng phát thải độc hại như SO2, NOx. Việc tăng nhanh dân số và
các phương tiện giao thông khi cơ sở hạ tầng còn thấp làm cho ô nhiễm môi
trường càng trở nên trầm trọng, vì vậy ở thủ đô Hà Nội đang phải đối mặt với vấn
đề ô nhiễm môi trường không khí nặng nề. Ở các trục đường giao thông lớn đều bị ô
nhiễm với các cấp độ khác nhau. Việc ô nhiễm không khí vượt quá các tiêu chuẩn
cho phép gây ảnh hưởng không tốt với sức khỏe con người. Yêu cầu cấp bách
1
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
đặt ra là Việt Nam điển hình là Hà Nội phải có những giải pháp thiết thực và
nhanh chóng nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội do
phương tiện giao thông.
Nghiên cứu về vấn đề ô nhiễm môi trường không khí Hà Nội cũng vì lẽ
đó trở thành một vấn đề rất quen thuộc với nhiều bài báo và các tạp chí
chuyên ngành. Với đề tài “Ô nhiễm môi trường không khí Hà Nội bởi
phương tiện giao thông” trong bài tiểu luận này, em mong muốn đưa ra cái
nhìn tổng quát về tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ở thủ đô Hà Nội
phần lớn là từ hoạt động giao thông, để từ đó nhấn lên hồi chương cảnh báo
với các nhà chức trách và người dân trong ý thức bảo vệ môi trường để hướng
tới xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại - một môi trường xanh, sạch, đẹp.
2
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số vấn đề chung
- Không khí có vai trò quan trọng đối với sự sống của mọi sinh vật trên trái đất, là
lớp áo bảo vệ mọi sinh vật trên trái đất khỏi bị các tia bức xạ nguy hiểm và các thiên
thạch từ vụ trụ. Không khí với các thành phần như khí O
2
, CO
2
,NO
2
, cần cho hô hấp
của động vật cũng như quá trình quang hợp của thực vật, là nguồn gốc của sự sống.
- Ô nhiễm không khí là sự thay đổi lớn trong thành phần hoặc có sự xuất hiện các
khí lạ làm cho không khí không sạch, có sự tỏa mùi, làm giảm tầm nhìn xa gây biến
đổi khí hậu gây bệnh cho con người và sinh vật. Ô nhiễm không khí do các nguồn tự
nhiên ( Núi lửa, cháy rừng, bão bụi, và các quá trình phân huỷ, thối rữa xác động, thực
vật tự nhiên ) và nguồn nhân tạo ( Hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá
thạch và hoạt động của các phương tiện giao thông ) gây ra.
- Hà Nội đã và đang bị xếp vào tốp 10 thành phố ô nhiễm không khí nhất thế
giới. Để cải thiện vị trí cũng như hình ảnh của mình, thành phố đã nỗ lực giảm thiểu ô
nhiễm không khí như hỗ trợ giá cho phương tiện công cộng, tăng chuyến xe công
cộng đảm bảo phủ kín tuyến giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của
người dân… nhưng hiệu quả đạt được vẫn thấp. Đây cũng là thực trạng chung mà
nhiều thành phố lớn của nước ta đang gặp phải. Chính phủ cũng đã ban hành quy định
về kiểm định chất lượng khí thải của các phương tiện cá nhân nhằm giảm xe không
đạt chuẩn, xả thải nhiều gây ô nhiễm môi trường.
1.2. Các ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí
1.2.1. Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Ô nhiễm không khí có những ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ. Khi môi trường
không khí bị ô nhiễm, sức khoẻ con người bị suy giảm, quá trình lão hóa trong cơ thể
3
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
diễn ra nhanh; các chức năng của cơ quan hô hấp suy giảm, gây ra các bệnh hen
suyễn, viêm phế quản, tim mạch và làm giảm tuổi thọ của con người. Các nhóm
cộng đồng nhạy cảm nhất với ô nhiễm không khí là người cao tuổi, phụ nữ mang thai,
trẻ em dưới 14 tuổi, người đang mang bệnh, người lao động thường xuyên phải làm
việc ngoài trời Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, trẻ nhỏ sống
ở những khu vực có không khí bị ô nhiễm có chỉ số IQ thấp hơn, khả năng ghi nhớ
thông tin kém hơn và kém thông minh hơn nhiều so với trẻ em bình thường. Và nguy
cơ bị viêm nhiễm, tổn thương não bộ nghiêm trọng.
Và các mức độ ảnh hưởng của từng người tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ,
nồng độ, loại chất và thời gian tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Thực tế cho thấy,
nhiều bệnh đường hô hấp có nguyên nhân trực tiếp bởi môi trường không khí bị ô
nhiễm do bụi, SO
2
, NO
x
, CO, chì Các tác nhân này gây ra các bệnh: Viêm nhiễm
đường hô hấp, hen, lao, dị ứng, viêm phế quản mạn tính, ung thư.
1.2.2. Ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
Thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng đến sức khoẻ, bao gồm các khoản chi phí:
Khám, chữa bệnh, thiệt hại cho sản xuất và nền kinh tế. Dự án “Điều tra, thống kê,
đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khoẻ cộng đồng” do Cục Bảo vệ
môi trường (2007) tiến hành tại hai tỉnh Phú Thọ và Nam Định cho kết quả ước tính
thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí tác động đến sức khoẻ trên đầu người mỗi năm
trung bình là 295.000 đồng. Giả thiết, tổn thất về kinh tế do ô nhiễm không khí tác
động đến sức khoẻ đối với người dân Hà Nội tương tự như người dân ở Phú Thọ và
Nam Định thì Hà Nội với 6,5 triệu dân, mỗi ngày thiệt hại 5,3 tỷ đồng. Thực tế, môi
trường không khí ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng
bị ô nhiễm cao hơn so với các tỉnh Phú Thọ và Nam Định, nên thiệt hại về kinh tế do ô
nhiễm không khí thực tế còn cao hơn con số nêu trên.
4
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
1.2.3. Ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu
Ô nhiễm không khí cũng đang ảnh hưởng tới điều kiện sinh sống của con
người, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái. Ảnh hưởng tổng hợp nhất là đối với sự
biến đổi khí hậu. Vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra và trái đất đang nóng
lên là do các hoạt động của con người chứ không phải thuần tuý do biến đổi khí hậu tự
nhiên. Do các hoạt động của con người, đặc biệt là việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch
(than, dầu, gas) trong công nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp lượng phát thải
các loại khí nhà kính, đặc biệt là CO
2
không ngừng tăng nhanh và tích lũy trong thời
gian dài, gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính, làm biến đổi khí hậu toàn cầu.
1.2.4. Ảnh hưởng đối với động thực vật
Ô nhiễm không khí không những tác động tới con người mà còn gây ảnh hưởng
tai hại cho tất cả sinh vật. Đặc biệt là thực vật rất nhạy cảm đối với ô nhiễm không
khí. Như SO2, NO2, ozon, fluor, chì… gây hại trực tiếp cho thực vật khi đi vào khí
khổng, làm hư hại hệ thống giảm thoát nước và giảm khả năng kháng bệnh. Ngăn cản
sự quang hợp và tăng trưởng của thực vật; giảm sự hấp thu thức ăn, làm lá vàng và
rụng sớm. Đa số cây ăn quả rất nhạy đối với HF. Khi tiếp xúc với nồng độ HF lớn hơn
0,002 mg/m3 thì lá cây bị cháy đốm, rụng lá. Mưa acid còn tác động gián tiếp lên thực
vật và làm cây thiếu thức ăn như Ca và giết chết các vi sinh vật đất. Nó làm ion Al
được giải phóng vào nước làm hại rễ cây (lông hút) và làm giảm hấp thu thức ăn và
nước. Ðối với động vật, nhất là vật nuôi, thì fluor gây nhiều tai họa hơn cả. Chúng bị
nhiễm độc do hít trực tiếp và qua chuỗi thức ăn.
Không khí có vai trò rất quan trọng, là một một yếu tố không thể thiếu đối với
sự sinh tồn và phát triển của sinh vật trên trái đất trong đó có con người. Con người có
thể nhịn ăn, nhịn uống trong vài ngày nhưng không thể nhịn thở trong 5 phút. Cùng
với sự phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trong những năm
gần đây, vấn đề ô nhiễm không khí ngày càng trở nên trâm trọng hơn. Mà 70% ô
5
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
nhiễm không khí là do hoạt động của phương tiện giao thông, Hà Nội chính là một
trong những tâm điểm về phương tiện giao thông.
PHẦN 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Thực trạng môi trường không khí ở Hà Nội
Trong nhất thời gian gần đây (2010) tại trạm khí tượng Láng Hạ (Hà Nội) do
Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn Đồng bằng Bắc Bộ thực hiện cho thấy, trung bình
trong một mét khối không khí ở Hà Nội có: 80 µg bụi khí PM10, vượt tiêu chuẩn quy
định 50 µg/m
3
; bụi khí SO
2
cũng vượt tiêu chuẩn châu Âu 20 µg/m3; nồng độ bụi lơ
lửng cao hơn tiêu chuẩn cho phép 2,5lần. Theo GS.TS.Vũ Hoan – Chủ tịch Liên hiệp
các hội Khoa học Kỹ thuật Hà Nội đánh giá: “Hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường
không khí Hà Nội đang ở mức báo động đỏ. Nồng độ bụi lơ lửng ở các quận nội thành
đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép 5–6 lần thậm chí có nơi trên 10 lần. Lượng khí thải
độc hại như CO2, SO2, CO3, NO, CO… ngày càng gia tăng và tác động tiêu cực tới
con người, môi trường.” Và “Vào giờ cao điểm, nồng độ bụi tính trung bình của riêng
TP Hà Nội gấp 4 lần tiêu chuẩn cho phép, nồng độ khí CO cao hơn 2,5 lần, hơi xăng
cao hơn 12,1 – 2000 lần tiêu chuẩn cho phép. Người dân sống quanh các điểm nóng
giao thông có biểu hiện triệu chứng rõ tới sức khoẻ như kích thích các hệ cơ quan mắt,
mũi, họng, da và thần kinh thực vật.”–Trích báo cáo (23/09/2010) GS.TS.Vũ Hoan
2.2. Tác động của hoạt động phương tiện giao thông
2.2.1. Gây ô nhiễm tiếng ồn Đô thị
2.2.1.1. Thực trạng ô nhiễm tiếng ồn bởi phương tiện giao thông
“Thị trấn yên tĩnh” nay đã thành “câu chuyện ngày xưa”. Tiếng ồn của các
phương tiện giao thông vận tải hòa cùng các công trình xây dựng và các cơ sở sản
xuất trong thành phố đã trở thành làn sống âm thanh ầm ĩ suốt cả ngày, rất có hại đến
sức khỏe của người dân, ảnh hưởng đến các bệnh viện, trường học. Tệ hại nhất là ống
6
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
bô xe bị móc ruột, xe xích lô máy, xe chở quá tải…. Tại các giờ cao điểm người dân bị
quá tải bởi lượng tiếng ồn khó chịu, liên tục trong thời gian dài gây ra. Ô nhiễm tiếng
ồn cũng đang dần trở thành nguyên nhân đẩy tình trạng ô nhiễm môi trường không khí
trở nên trầm trọng.
Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Quy hoạch Môi trường
đô thị - nông thôn năm 1998, trên các trục đường giao thông đô thị của HN, mức ồn
tương đương trung bình của các dòng xe thường rất lớn, trung bình ban ngày có thể
dao động trong khoảng từ 71,3dB đến 79,2dB, ban đêm từ 67,3dB đến 73,0dB.Và kết
quả nghiên cứu của Sở KHCN&MT, tại các điểm khảo sát phổ biến ở HN (một số nút
giao thông và tuyến phố chính) mức ồn giao thông trung bình từ 77-82dB vào năm
2000. So với kết quả khảo sát trước đó 2- 3 năm trong cùng điều kiện về thời gian và
không gian thì trung bình mức ồn tăng 4-5dB. Như vậy mức ồn giao thông hiện nay ở
thành phố HN khá lớn, cao hơn trị số tiêu chuẩn cho phép đối với khu vực công cộng
và khu dân cư (50-70dB vào ban ngày). Mức ồn giao thông càng lớn, phản ánh mức
độ gia tăng ô nhiễm môi trường không khí càng cao, điều đó có nghĩa là chất lượng
cuộc sống ngày càng giảm sút.
“Tại điểm trung chuyển xe bus Long Biên, Cầu Giấy, đường Phạm Văn Đồng,
Phạm Hùng… và nhiều điểm khác độ ồn đã vượt tiêu chuẩn trên 1,18 lần. Và hầu hết
các điểm khác đều vượt tiêu chuẩn 1- 1,15 lần cho phép.” – Theo báo cáo
của GS.TS.Vũ Hoan tại hội thảo về “Hiện trạng môi trường và biện pháp bảo vệ môi
trường của thành phố Hà Nội”. Hà Nội phải chịu đựng âm thanh hỗn tạp của còi xe,
tiếng động cơ và các tạp âm khác làm cho môi trường không khí trở nên chật chội,
ngột ngạt.
2.2.1.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm tiếng ồn tới cuộc sống của người dân tại Hà Nội.
Theo thạc sĩ Lương Thuý Nga (Trường ĐH Bách khoa HN), tiếng ồn có tác
động xấu đối với sức khỏe con người và hạ thấp chất lượng cuộc sống của xã hội, như
7
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
làm che lấp tiếng nói trong trao đổi thông tin, làm phân tán tư tưởng và dẫn đến làm
giảm hiệu quả lao động, tiếng ồn quấy rối sự yên tĩnh và giấc ngủ của con người. Tác
động lâu dài của tiếng ồn đối với con người sẽ gây ra bệnh mất ngủ, suy nhược thần
kinh, cũng như làm trầm trọng thêm các bệnh về tim mạch và huyết áp cao.
Một công trình nghiên cứu khoa học tại Mỹ cho thấy: Năng suất lao động của
các viên chức trong tình trạng yên tĩnh cao hơn khi có tiếng ồn 9% và sai sót trong
việc ghi chép tài liệu ít hơn 29%, còn khi làm việc ở các văn phòng có mức ồn 100dB
con người sẽ phạm sai sót nhiều gấp 2 lần so với làm việc ở mức ồn 70dB. Ở nhiều
nước phương Tây, theo tính toán của các chuyên gia, do tác động của tiếng ồn, đã có
tới 1/4 dân số phải dùng thuốc ngủ thường xuyên, mỗi năm ở Áo có gần 7 triệu người
sử dụng thuốc ngủ và tiêu thụ hết 40 triệu viên, còn ở Anh năm 1990, bác sĩ phải kê
đến 20 triệu đơn thuốc an thần.
Tiếng ồn còn là nguyên nhân làm giảm thính lực của con người, làm tăng các
bệnh thần kinh và cao huyết áp đối với những người lớn tuổi. Tác dụng liên tục của
tiếng ồn có thể gây ra bệnh loét dạ dày. Khi có tác động của tiếng ồn có thể dẫn tới
giảm khả năng tập trung tư tưởng, giảm độ minh mẫn và giảm khả năng làm việc. Khi
tiếng ồn đạt tới 50dB về ban đêm, giấc ngủ bị đứt quãng, giấc ngủ sâu bị tổn thất 60%,
khi tiếng ồn ban ngày từ 70-80dB sẽ gây mệt mỏi, 90-110dB bắt đầu gây nguy hiểm
và 120-140dB có khả năng gây chấn thương. Theo những số liệu thống kê của ngành
y tế, số lượng người mắc bệnh tâm thần ở HN, một căn bệnh có liên quan đến tình
trạng ô nhiễm tiếng ồn giao thông đang tăng lên trong những năm gần đây và HN là
một trong những nơi có tỉ lệ người mắc bệnh tâm thần cao nhất nước.
2.2.2. Gây ô nhiễm bụi Đô Thị
2.2.2.1. Thực trạng ô nhiễm bụi đô thị do phương tiện giao thông
Hà Nội đang có những đại công trường lớn, các hoạt động xây dựng, cải tạo đô
thị, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Kéo theo đó là lượng phương tiện chuyển chở vật liệu
8
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
xây dựng, đất đá, cát, xi măng ngày càng gia tăng. Thời gian thi công mỗi dự án,
công trình thường kéo dài, hơn nữa ý thức của nhà đầu tư trong việc giữ gìn bảo vệ
môi trường chưa cao…nên nồng độ bụi ở các quận nội thành Hà Nội ngày một nhiều
hơn. Trung bình ở các nơi công cộng trong thành phố nồng độ bụi vượt quá tiêu chuẩn
cho phép từ 2 đến 4 lần ( theo tiêu chuẩn của các nước phát triển ở Châu Âu, Châu
Mỹ, nồng độ bụi ở các thành phố chỉ được phép vượt quá tiêu chuẩn từ 1 đến 2 lần).
Hứng chịu nhiều nhất là các khu vực đang xây dựng, cải tạo, sửa chữa như khu vực
Mai Động, Hà Đông, Phú Diễn vượt quá tiêu chuẩn cho phép đến 5 lần.
Nồng độ các chất ô nhiễm khác đều vượt chuẩn rất nhiều lần, cực độ có Pb,
SO
2
. Nồng độ khí SO
2
, CO, NO
2
ở một số khu vực chung cư, gần khu công nghiệp thì
vượt quá mức độ cho phép nhiều lần, ở một số nút giao thông lớn trong thành phố
nồng độ khí NO
2
vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Ô nhiễm bụi cao nhất là váo nững
ngày thời tiết hanh khô, gió mạng. Trong khu vực nội thành cũng như các khu công
nghiệp, TSP ( Total Suspenden Paticulate) là chất gây ô nhiễm không khí nghiệm
trọng nhất, với nồng độ cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam gấp 2- 3 lầ. Các quận nội thành
với dân sô khoảng hơn 1,5 triệu người, mỗi năm có hơn 626,8 người chết, và 1547,9
người bị bệnh liên quan tới đường hô hấp do nồng độ TSP trong không khí vượt quá
TCVN 159,4 mg/m
3
. Đây là chỉ điều tra trên lý thuyết, dĩ nhiên thực tế sẽ còn hơn thế
và ngày càng tăng mà không giảm.
Trên các tuyến phố như Khuất Duy Tiến, Phạm Hùng, Láng-Hòa Lạc, Nguyễn
Trãi, đường 32… các phương tiện vận chuyển chất thải, phế thải, vật liệu xây dựng
không hề được che chắn đúng quy định, các xe chở cát, sỏi phế liệu không được rửa
sạch nước khi rời khỏi bãi tập kết làm rơi rớt ra đường. Đây chính là nguồn bụi chủ
yếu gây tình trạng ô nhiễm không khí như hiện nay. Theo kết quả quan trắc 6 tháng
đầu năm 2009 hàm lượng bụi lơ lửng trong không khí tại một số điểm trên địa bàn Hà
Nội đáng giật mình. Có nơi hàm lượng bụi lơ lửng trong không khí vượt quá 11 lần
tiêu chuẩn cho phép(TCVN 5937 – 2005) như đường Nguyễn Trãi, Phạm Hùng,
9
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
Nguyễn Văn Linh. Và phần lớn các địa điểm khác vượt quá 5 lần tiêu chuẩn cho phép.
Bụi trở thành nỗi lo thường trực của người dân Hà Nội mỗi khi ra đường. Lượng bụi
ngày càng gia tăng trong không khí là nguyên nhân của các bệnh đường hô hấp và gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
2.2.2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm bụi đến đời sống người dân Hà Nội
Trên cơ sở số liệu đã điều tra của các bệnh viện tại các quận và nguốn số liệu
báo cáo thống kê y tế của các phường về tình hình sức khỏe, bệnh tật ta có bảng báo
cáo sơ lược về tình hình sức khỏe của người dân tại 9 quận nội thành 2010 như sau :
STT Quận Dân số
Tỷ lệ các loại bệnh ( người )
Xoang Phế
quản
Viêm
phổi
Lao Họng Mắt Ngoài
da
1 Hoàn Kiếm 173.000 373 417 648 37 798 50 132
2 Hai Bà
Trưng
378.000 2135 5671 900 98 2076 3146 1145
3 Đống Đa 352.000 1795 978 764 21 874 538 316
4 Cầu Giấy 147.000 2374 2565 1986 48 1253 2753 1500
5 Thanh Xuân 173.000 2154 3275 3576 50 4576 4036 2648
6 Hoàng Mai 187.332 3794 2188 894 88 3216 4018 3176
7 Long Biên 170.706 3856 4078 3426 102 3547 4135 3019
8 Tây Hồ 100.000 985 512 632 18 759 78 244
9 Ba Đình 225.282 350 315 417 14 516 66 124
Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy tình trạng sức khỏe của nhười dân ở các quận
nội thành của thành phố hiện nay là không tốt, tỉ lệ mắc các loại bệnh về đường hô
hấp, về mắt là cao so với khu vực khác. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng
10
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
này, tuy nhiên nguyên nhân nổi bật là do tình trạng môi trường không khí từ các
phương tiện giao thông ở đây đã bị giảm sút một cách nghiêm trọng, và nó ảnh hưởng
sâu sắc tới sức khỏe người dân.
Ô nhiễm môi trường do bụi gây ra có thể gây nên dị ứng, hen xuyễn, ảnh hưởng
trực tiếp đến hai cơ quan chính của là mắt và đường hô hấp. Các hạt CO
2
và NO
x
, các
chất hữu cơ đã ô nhiếm quang hóa ảnh hưởng đến mắt, tác động tới mắt, tác động đến
cơ quan hô hấp như mũi, hầu, thanh quản vì bới các hạt nhỏ hơn 10 micromet bị giữ
lại trong phổi gây các bệnh như viêm phổi, ung thư phổi Khi những hạt bụi nhỏ bay
vào mắt có thể gây ra các vấn đề trước tiên là ảnh hưởng đến khả năng quan sát ngay
lúc đó của mắt đặc biệt là khi đang di chuyển, sau đó lâu dài có thể gây ra các bệnh về
mắt như viêm kết mạc, viêm giác mạc, đau mắt đỏ, di ứng
Ô nhiễm có ảnh hưởng xấu trực tiếp đến sức khỏe của người dân trong vùng bị
ô nhiễm, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động sống của người dân và sự phát
triển một cách bình thường của nền kinh tế. Người dân sẽ bỏ các chi phí về thời gian
cũng như tiền bạc để phục hồi tình trạng sức khỏe, qua đó đã làm cho kinh tế giảm
xuống bởi sức khỏe không tốt, năng suất làm việc bị giảm sút, bất tiện trong giao tiếp
hàng ngày.
Qua đây có thể nói ô nhiễm bụi đã gây ra những tổn thất không nhỏ chó sức
khỏe và kinh tế của người dân trong vùng chịu ảnh hưởng của ô nhiễm bụi mà phần
lớn là do hoạt động phương tiện tham gia giao thông. Vì vậy chúng ta phỉa tìm cách
nào để lượng hóa một cách chính xác những thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm bụi gây ra
để từ đó có những chính sách và giải pháp đúng đắn đề khắc phục.
2.2.3. Gây ô nhiễm khí thải của phương tiện giao thông
2.2.3.1. Thực trạng ô nhiễm khí thải của phương tiện giao thông
Trong thời gian qua, số lượng các phương tiện giao thông ở Hà Nội tăng nhanh.
Năm 2001, thành phố có gần 1 triệu xe máy và hơn 100.000 ô tô. Cuối năm 2007, con
11
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
số này đã tăng gấp đôi, với khoảng 1,9 triệu xe máy và 200.000 ô tô. Tốc độ phát triển
của các phương tiện giao thông giai đoạn 2001-2007 là 12%/năm đối với xe ô tô,
15%/năm đối với xe máy. Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, ô nhiễm
không khí ở đô thị do giao thông gây ra chiếm tỷ lệ khoảng 70%. Lưu lượng xe lớn và
chất lượng nhiên liệu sử dụng chưa tốt hàm lượng benzen khoảng 5% so với 1% ở các
nước trong khu vực; hàm lượng lưu huỳnh trong diezen chiếm từ 0,5-1% so với 0,05%
ở các nước trong khu vực là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm khí
thải do phương tiện tham gia giao thông.
2.2.3.2. Thành phần khí thải của phương tiện giao thông
Trong khí thải của động cơ có chứa một số chất gây ô nhiễm môi trường và ảnh
hưởng xấu tới sức khoẻ của của con người, động vật, thực vật Trong đó nguy hại
nhất phải kể đến các chất như: hidro cacbon, oxit cacbon , oxit nitơ
- Oxit Cacbon ( CO và CO
2
): Khí CO và CO
2
là một khí vô cùng độc hại,
không màu, không vị. Trong động cơ khí CO sinh ra do quá trình đốt cháy nhiên liệu
trong điều kiện thiếu oxi (nhiên liệu cháy không hoàn toàn).
- Oxit Nitơ (NO
x
): Khí NO
x
có trong khí thải là do quá trình cháy ở nhiệt độ
cao. Trong không khí có 80% Nitơ và 20% Oxi được nung nóng đến nhiệt độ trên
1927
0
C thì chúng kết hợp với nhau tạo thành Oxit Nitơ ( NO
x
). Oxit Nitơ có màu
hoặc không màu, mùi khó chịu. Đối với động cơ có tỷ số nén cao, hỗn hợp nhiên liệu
loãng, nhiệt độ động cơ cao sẽ làm tăng nồng độ NO
x
.
- Các oxy hóa quang hóa (Ôzôn): Cũng góp phần vào thành phần khí thải của
động cơ, được sinh ra do đốt nóng các nhiên liệu trong động cơ phương tiện giao
thông.
- Khí Hidrocacbon: là nguồn gốc tạo thành dầu mỏ nói chung, sau giai đoạn
chế biến dầu mỏ tạo ra xăng, dầu điezen, dầu nhớt Đây là một khí độc làm ô nhiễm
12
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
môi trường. Khí này sinh ra do nhiên liệu đốt cháy không hoàn toàn hoặc do nhiên
liệu bay hơi từ trong hệ thống cung cấp nhiên liệu của xe.
- Kim loại Chì (Pb): Chì (Pb) là im loai nặng, sinh ra trong quá trình cháy của
các loại xăng dầu có chứa chì. Trong xăng dầu, để giảm khả năng cháy nổ, chì được
thểm vào dưới dạng tetraalkyl như Pb(C
2
H
5
)
4
, Pb(CH
3
)
4
cùng với 1,1 dibromoetan
hoặc 1,2 dicloetan Br
2
(Cl
2
)C
2
H
4
.
Cùng với các chất ô nhiễm khác trong quá trình đốt
chì được chuyển về dạng PbCl
2
hoặc PbBr
2
, đi vào khí quyển rồi sau đó nhờ quá trình
lắng đọng do tích tụ khô hoặc ướt trong bụi đường và chất rắn ở hai bên đường.Ở
thành phố nhiều phương tiện giao thông (ôtô, xe. máy), phần lớn chì và các hợp chất
đi vào cơ thể người theo con đường thực phẩm học hô hấp, ăn uống
- Khói dầu diesel (điêzen): Những chiếc xe nhả khói đen trên đường phố chính
là kết quả của dầu diesel. Đây là thành phần cơ bản của khí thải của động cơ giao
thông.
- Bụi than: Các hạt than đem trộn với nhiên liệu thải ra trên đường xả sẽ tạo
thành bồ hóng. Đây là chất chiếm tỷ lệ cao nhất trong các thành phần độc hại của khí
thải. Bụi than xuất hiện nhiều ở động cơ thải khói đen, do nhiên liệu không tơi hoặc
không đúng chủng loại nhiên liệu.
- Sulfur dioxide ( SO
2
): SO
2
là khí không màu, có mùi xốc khó chịu, được sinh
ra trong khí thải của các động cơ phương tiện giao thông khi hoạt động.
Như vậy phương tiện giao thông thải ra rất nhiều khí độc hại cho môi trường,
với Hà Nội với lượng phương tiện giao thông đông đúc thì việc ô nhiễm không khí đã
đến báo động đỏ.
2.2.3.3. Sự ảnh hưởng của khí thải phương tiện giao thông
- Carbon dioxide ( CO
2
): Đây là thành phần quen mặt nhất trong khí thải động
cơ xe. Đây là sản phẩm phụ của những phản ứng đốt cháy nguyên liệu động cơ. Khí
carbon dioxide là chất gây nên “hiệu ứng nhà kín”. Khí carbon dioxide sẽ gây độc tùy
13
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
theo mức độ hàm lượng của chúng. Mức độ có thể biến đổi từ nhức đầu, xây xẩm, run
rẩy, cảm giác bị kim chích, khó thở, đổ mồ hôi, tăng nhịp tim, tăng huyếp áp, bất tỉnh
hoặc không bao giờ tỉnh. Mức độ của khí carbon dioxide được tính như sau :
+ 250 - 350 ppm (parts per million - phần triệu) là ở không khí ngoài trời bình
thường.
+ 350 - 1.000 ppm ở trong những phòng có sự trao đổi khí tốt giữa bên trong và
bên ngoài.
+ 1.000 - 2.000 ppm sẽ gây ra sự uể oải, buồn ngủ, đờ đẫn, kém tập trung, tăng
nhịp tim và có thể bị nôn mửa.
+ Trên 5.000 ppm sẽ gây mất oxy và hậu quả là gây tổn hại não vĩnh viễn, bất
tỉnh rồi chết.
- Carbon monoxide ( CO ): là chất khí không màu, không thấy được, được tạo
ra khi nhiên liệu chứa cacbon cháy không hết – đe doạ nghiêm trọng đến sức khoẻ con
người. Khi hít phải khí CO ở mức 667 ppm thì CO sẽ làm chuyển đổi 50%
hemoglobin vận chuyển oxy thành carboxyhemoglobin. Do áp lực của Hêmôglobin
trong máu đối với ôxit cácbon lớn hơn 200 lần so với ôxy, nên CO cản trở vận chuyển
ôxy từ máu vào tới các mô. Vì thế, để vận chuyển cùng một lượng ôxy cần thiết phải
bơm máu nhiều hơn. Phân tử carboxyhemoglobin không có chức năng mang oxy vào
cho tế bào. Ngay sau khi tiếp xúc với CO thì cơ thể sẽ bị nhức đầu, nôn mửa, mệt mỏi
và cuối cùng sẽ tử vong. Đặc biệt nguy hại với thai nhi và người mắc bệnh tim. Rất
nhiều nghiên cứu trên con người và động vật chứng tỏ rằng những người yếu tim sẽ bị
tăng thêm căng thẳng khi lượng CO trong máu vượt quá mức. Đặc biệt các nghiên cứu
lâm sàng đã cho thấy khi tiếp xúc với CO ở mức cao thì những người hay bị đau thắt
ngực sẽ tăng thời gian đau. Những người khoẻ mạnh cũng bị ảnh hưởng, nhưng chỉ
khi tiếp xúc với CO cao sẽ dẫn đến khả năng suy giảm thị lực, năng lực làm việc, sự
khéo léo, khả năng học tập và hiệu suất công việc.
14
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
Nhìn chung, môi trường không khí ở tại một số khu dân cư Hà Nội không bị ô
nhiễm bởi CO. Các số liệu quan trắc từ năm 1996 - 2000 cho thấy trong hầu hết các
mẫu đo, nồng độ CO đều thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên, trên
các tuyến giao thông, đặc biệt vào giờ cao điểm (7h30’- 8h30’) sáng và (16h30’ -
18h30’) chiều nồng độ CO cao hơn 2,5 lần so với tiêu chuẩn cho phép, điển hình như
tại các tuyến đường như: Nguyễn Trãi, Khương Đình, Đường 32, Khâm Thiên,…. Tại
các ngã ba, ngã tư vào giờ cao điểm nồng độ CO cao hơn so với tiêu chuẩn cho phép
từ 2,5 - 3 lần.
- Ôxit nitơ (NO
x
): là một dạng hợp chất, ôxit nitơ được người ta quan tâm đến
nhiều do tác hại của nó tới môi trường, sức khoẻ con người và cộng đồng. Điôxit nitơ
(NO
2
) gắn liền với việc gia tăng ô nhiễm đường hô hấp, làm nghẽn thở ở người mắc
bệnh hen, và giảm chức năng của phổi. Đối với trẻ em, người ta đã chỉ ra rằng chỉ tiếp
xúc với NO
2
trong thời gian ngắn cũng dẫn đến một loạt các vấn đề đường hô hấp chủ
yếu là ho, chảy nước mũi và đau họng. Các dạng ôxit nitơ (NOx) cũng góp phần lắng
đọng axit, điều này làm hư hại cây cối ở vùng cao và làm tăng nồng độ axit ở các hồ
và sông suối, làm hư hại nghiêm trọng tới sinh vật dưới nước. Cuối cùng khí thải NO
x
có thể góp phần làm tăng lượng bụi hạt bằng cách chuyển thành axit nitric trong
không khí và tạo thành hạt nitrat. Đồng thời nó còn gây tác hại đối với cây trồng và
những đồ vật bằng kim loại mạ.
- Các ôxy hoá quang hoá (ôzôn): Tầng ôzôn mặt đất, thành phần chính của
sương mù, được hình thành từ các phản ứng hóa học phức tạp của các chất hữu cơ dễ
bay hơi và NO
x
dưới tác dụng của sức nóng và ánh sáng mặt trời. Tác hại làm đau
ngực, ho và thở ngắn, nó tác động rất xấu tới những người có hệ hô hấp đã tổn
thương. Khi hít vào, ôzôn có thể gây ra các vấn đề hô hấp cấp tính; làm trầm trọng
bệnh hen; nhất thời làm giảm chức năng phổi từ 15 đến trên 20% ở một số người khoẻ
mạnh; gây viêm các mô phổi; có thể làm suy yếu khả năng gây miễn dịch của cơ thể,
làm cho người dễ mắc phải các bệnh về hô hấp. Trẻ em và những người làm việc
15
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
ngoài trời có khả năng dễ bị tiếp xúc với tiếp xúc với tầng ôzôn xung quanh trong khi
hoạt động và làm việc vì thế dễ bị rủi ro hơn đến sức khoẻ. Ngoài ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người, ôzôn có tác động bất lợi đến môi trường bằng nhiều cách. Đó là làm
giảm năng suất thu hoạch cây trồng, hoa quả, rau cỏ, và rừng trồng; ảnh hưởng đến hệ
sinh thải thảm thực vật trong các công viên; làm hư hại thảm cỏ, vườn hoa nơi đô thị
và cây cối; giảm năng suất cây con và rừng; tăng khả năng côn trùng gây hại cho cây;
làm hư hỏng vật liệu; và suy giảm tầm nhìn.
- Khí Hidrocacbon (HC): Dạng hơi trong không khí. Ngoài việc góp phần làm
tăng tầng ôzôn, khí thải hyđro cacbon có chứa chất ô nhiễm độc hại trong không khí
có thể tác động đáng kể đến sức khoẻ cộng đồng.
- Kim loại Chì (Pb): Ta thấy hàng ngày trong tổng số 225µg Pb được đưa vào
cơ thể người thành thị, có 200µg Pb được bài tiết và 25µg Pb được giữ lại trong
xương, gan, thận. Khi chì được trữ lại trong cơ thể người tới một hàm lượng nhất định
nó sẽ bắt đầu gây tác hại tới hệ thần kinh trung ương, thận, cơ bắp, bộ phận sinh sản
và hệ thống máu. Ví dụ Pb gây ảnh hưởng tới quá trình tổng hợp hồng cầu dẫn tới
bệnh về máu. Trong quá trình tổng hợp hồng cầu, phần quan trọng là chuyển axit delta
aminolevunic thành porpho bilinogen, sự có mặt của Pb sẽ ngăn cản quá trình này. Và
kết quả là phá vỡ quá trình tổng hợp hồng cầu, do đó ảnh hưởng tới việc vận chuyển
oxy cho quá trình trao đổi chất, ngăn cản quá trình sản sinh năng lượng duy trì sự
sống.
Mặt khác, nhờ tính chất tương tự của chì với canxi mà chì có thể tích tụ được
trong xương, sau đó liên kết với phốt phát trong xương gây nên ảnh hưởng độc hại khi
được vận chuyển tới các mô mềm. Nhiễm độc chì còn có thể gây nên bệnh xạm da.
- Khí thải diesel (điêzen): Theo các nhà nghiên cứu người Đức, việc hít phải
khí thải của dầu diesel sẽ gây ra những ảnh hưởng lâu dài đến các chức năng của não.
Trên cơ sở mối quan hệ giữa ung thư phổi và tiếp xúc với bụi hạt điêzen ở một nhóm
16
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
công nhân nhất định do nghề nghiệp thường xuyên phải tiếp xúc, Cục Bảo vệ môi
trường Hoa Kỳ (USEPA) đã kết luận rằng bụi hạt từ điêzen là chất có khả năng gây
ung thư cho con người. Khoảng 30 nghiên cứu dịch tễ trên từng cá nhân cho thấy
nguy cơ bị ung thư phổi tăng từ 20-89% trong số những người được nghiên cứu, tuỳ
theo nghiên cứu. Kết quả phân tích tổng hợp các kết quả nghiên cứu đáng tin cậy cho
thấy rằng nguy cơ ung thư phổi tăng từ 33 – 47%. Tuy nhiên không phải tất cả các
nghiên cứu đều chứng mình được là mối nguy hiểm sẽ tăng, nhưng có một sự thật là
đa số các nghiên cứu dịch tễ đã lưu ý về độ nguy hiểm tăng, rõ ràng chứng minh cho
kết luận rằng tiếp xúc với khí thải điêzen có nguy cơ ung thư cho con người.
- Bụi than: Hít phải bụi than trong thời gian dài có những biểu hiện triệu chứng
về hô hấp như ho; tức ngực; khạc đờm nhiều. Đờm thường có màu đen và lỏng, khó
thở, bắt đầu là khó thở khi gắng sức tiếp theo đến giai đoạn muộn của bệnh thì có khó
thở thường xuyên và liên tục. Rối loạn thông khí phổi với hội chứng tắc nghẽn là chủ
yếu và hội chứng hỗn hợp. Ngoài ra người còn có nguy cơ bị tràn khí màng phổi, xơ
hoá phổi và viêm phế quản mạn tính.
- Oxit sulfuric (Sulfur Dioxide SO
2
): Là nhân tố gây ra mưa a xít, làm ô nhiễm
đất và nước, giết chết động vật và thực vật. Nó cũng là nguyên nhân gây ăn mòn, phá
huỷ các toà nhà và làm trầm trọng thêm các căn bệnh về đường hô hấp như bệnh hen,
bệnh viêm phế quản mãn tính.
PHẦN 3: NGUYÊN NHÂN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
BỞI PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc
thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là môi trường không
17
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
khí tại các đô thị, điển hình là thủ đô. Nơi phương tiện giao thông đông đúc nhất cả
nước. Song tình trạng ô nhiễm vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại. Có rất nhiều nguyên
nhân nhưng ta có thể kết luận thành hai nguyên nhân chính thuộc về khách quan và
chủ quan như sau:
3.1. Nguyên nhân khách quan
Dân số tăng nhanh: Trong 10 năm qua (1999 - 2009), dân số Việt Nam tăng
thêm 9,523 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 952 nghìn người. Có ba tỉnh,
thành phố có quy mô dân số lớn hơn 3 triệu người, đó là Tp.HCM với 7,163
triệu người, Hà Nội 6,452 triệu người và Thanh Hóa là 3,401 triệu người. Năm
tỉnh có dân số dưới 500.000 người là Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Kon Tom
và Đắc Nông. Tổng số dân của Việt Nam tính đến ngày 1/4/2009 là 85.846.997
người, bao gồm 42.413.143 nam (chiếm 49,4%) và 43.433.854 nữ (chiếm
50,6%). Cụ thể, dân cư ở khu vực thành thị là 25.436.896 người, chiếm 29,6%
tổng dân số cả nước. Trong khi đó, dân số nông thôn là 60.410.101 người,
chiếm 70,4% trong tổng dân số. Như vậy, dân số thành thị đã tăng với tốc độ
trung bình là 3,4% mỗi năm trong khi tốc độ này ở khu vực nông thôn chỉ là
0,4% mỗi năm. Sự gia tăng dân số đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có
nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh
không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý
xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn.Với dân số tăng nhanh nhất là thủ đô Hà
Nội làm cho việc ra tăng phương tiện giao thông 1 cách đột ngột mà cơ sở hạ
tầng chưa đáp dứng kịp, dẫn tới ô nhiễm không khí càng ngày càng gia tăng
trầm trọng hơn.
Sự phát triển, mở rộng các khu đô thị mới, siêu đô thị … cũng là hệ quả khách
quan dẫn đến sự ô nhiễm môi trường mà các nhà quy hoạch đô thị phải chấp
nhận. Vì khi chúng ta mở rộng, phát triển đô thị đồng nghĩa với việc lấn đất
(nhất là đất nông nghiệp) chuyển đổi mục đích sử dụng, di dời cụm,điểm dân cư
18
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
và tăng cường khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh
thái…đi kèm với việc tạo ra khí bụi bên đường, khi phương tiện di chuyển đã
tạo ra ô nhiễm bụi
Tiến trình công nghiệp hóa các cơ sở chế tạo, sản xuất phương tiện giao thông
chưa có sự đề cao môi trường xanh – sạch – đẹp mà chạy đua theo lợi nhuận
nhiều hơn. Chính vì vậy việc gia tăng ô nhiễm không khí là điều dễ hiểu.
Xu thế toàn cầu, đây là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới hiện rất quan tâm,
ô nhiễm toàn cầu, thiếu nước sạch, sự nóng lên của trái đất, biến đổi khí hậu…
Mà trong đó Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng nặng nề. Theo nghiên cứu của
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), TP Hồ Chí Minh nằm trong
danh sách 10 thành phố bị đe dọa nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu (bao gồm
Calcutta và Bombay của Ấn Độ, Dacca của Bangladesh, Thượng Hải, Quảng
Châu của Trung Quốc, TPHCM của VN, Bangkok của Thái Lan và Yangon của
Myanmar) và nếu nhiệt độ trên trái đất tăng thêm 2 độ C, thì 22 triệu người ở
VN sẽ mất nhà và 45% diện tích đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long, vựa lúa lớn nhất của VN sẽ ngập chìm trong nước biển. Đây là con số
đưa ra để cảnh báo cho chúng ta biết sự ô nhiễm đang càng ngày càng gia tăng
không ngừng.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất : Ý thức bảo vệ môi trường của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
thấp
Ý thức của người dân kém: Trong cuộc sống hiện đại như ngày nay, vấn đề rác thải
đang xuất hiện rất nhiều trong xã hội gây ô nhiễm môi trường và làm biết bao sinh vật
chết vì rác. Trong đó vấn đề bức bách nhất là xả rác ra đường hoặc nơi công cộng. Vấn
đề xả rác nơi công cộng đã và đang xuất hiện nhan nhản trên đường phố, từ thành thị
đến nông thôn, ở mọi lúc mọi nơi. Chính vì đó mà khi tham gia hoạt động giao thông
tạo ra bụi đường, gây ra tai nạn giao thông. Trên các xe khách, mọi người say xe nôn
19
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
vào túi bóng và vô tư ném qua cửa sổ xe khi ném cả vào mặt người đi đường. Tại các
nút giao thông khi cao điểm mọi người tít còi, vê ga ầm ĩ vì ai cũng chen nến vì muốn
thoát khỏi nơi ùn tác. Nhiều thanh niên, các bạn trẻ phá ruột bô xe, thay còi xe cho to
hơn để gây chú ý, tạo ấn tượng với mọi người gây ra sự nguy hiểm khi tham gia giao
thông. Họ không biết là họ đang góp phần làm ô nhiễm môi trường không khí- ô nhiễm
tiếng ồn. Có rất nhiều bức xúc mà không ai dám nói và cũng không hề quan tâm như
việc đào bới đường đi, xả nước ra đường với quan điểm sạch nhà bẩn ngõ thì kệ. Qua
đây cho biết ý thức người dân nơi đô thị - Hà Nội cần phải báo động.
Nguyên nhân của những việc làm nói trên đều do người dân thiếu ý thức bảo vệ
môi trường và nơi mình sinh sống, phần lớn đều là những thanh, thiếu niên nhưng cũng
không ít những người lớn tuổi mắc phải.
Sự chấp hành pháp luật về môi trường của các doanh nghiệp liên quan tới phương
tiện giao thông chưa nghiêm:
Các doanh nghiệp thường cho rằng, BVMT chỉ gây tốn kém cho doanh nghiệp,
làm chi phí của doanh nghiệp tăng lên, nâng cao giá thành sản phẩm khiến doanh
nghiệp khó cạnh tranh. Trong khi đó, doanh nghiệp còn đang phải đối phó với quá
nhiều các khó khăn khác để tìm kiếm lợi nhuận. Việc đầu tư vào các giải pháp BVMT
không sinh lời trước mắt, chỉ thấy tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa có tầm nhìn dài hạn, yếu kém trong hoạch định
chiến lược phát triển. Chính vì vậy, doanh nghiệp còn xem nhẹ việc BVMT, quan tâm
đầu tư cho môi trường còn rất mờ nhạt, thậm chí rất nhiều doanh nghiệp đang là tác
nhân chính gây ô nhiễm môi trường ở mức độ nghiêm trọng.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam liên quan tới giao thông đang gây ô nhiễm môi
trường
Công tác BVMT tại các doanh nghiệp Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập. Hầu hết, các
doanh nghiệp chưa nhận thức được vấn đề BVMT hoặc không quan tâm đến cải thiện
môi trường, chậm trễ hoặc trốn tránh việc nộp phí BVMT… Một số doanh nghiệp mới
20
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
chỉ bắt đầu có ý thức về trách nhiệm BVMT và việc phải chấp hành, triển khai BVMT,
đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường tại doanh nghiệp chỉ mang tính chất bắt buộc nhằm đối
phó với các cơ quan chức năng chứ chưa xuất phát từ ý thức. Các doanh nghiệp có ý
thức BVMT thì lại thiếu chiến lược quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp về công tác
BVMT đối với thị trường trong nước và quốc tế…
Hiện nay, do nhu cầu về phương tiện giao thông tăng nhanh đã tới tình trạng các
doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng. Do các công trình xây dựng
nên cần các xe chuyên chở vận liệu, khi di chuyển trên đường do tải trọng quá tải gây ra
khói đen, rùi làm vưng bụi bẩn ra đường. Có nhiều xe không chịu rửa xe trước khi vào
đô thị. Tình trạng ô nhiễm bụi ở Hà Nội do phương tiện giao thông diễn ra khá phổ
biến, đặc biệt vào mùa khô.
Thứ hai: Cơ chế quản lý của chúng ta còn quá yếu kém, thụ động, thiếu tính
chặt chẻ.
Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của
nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ
bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước
là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống
con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Cơ chế phân công và phối hợp
giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định
trách nhiệm rõ ràng như việc xây dựng đường giao thông và cấp thoát nước. Chưa có các
quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường, gây nên
tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nói chung.
Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường không khí còn rất thấp (một số nước ASEAN đã
đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%).
Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường không khí
nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường không khí còn thiếu về số lượng,
yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi
21
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu
dân)
Thứ ba: Trình độ quản lý của các cấp chính quyền là vấn đề cần xem xét:
Trên thực tế, Luật Bảo vệ môi trường cho đến nay đã rất mạnh mẽ và chặt chẽ. Những
doanh nghiệp vi phạm có thể phải đối mặt với nhiều hình thức xử lý nghiêm khắc như
phạt tiền nặng, đóng cửa… Thế nhưng những yếu kém về năng lực quản lý, sự thiếu hụt
cán bộ chuyên môn vẫn tạo kẽ hở để nhiều doanh nghiệp tiếp tục vi phạm môi trường.
Riêng về xu hướng tiêu dùng, tại nhiều nước châu Âu và nước phát triển, người dân rất
có ý thức trong việc chọn tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp xanh hoặc sản phẩm
xanh. Còn tại nước ta, xu hướng này đã và đang được định hình nhưng chưa thực sự
phát triển mạnh mẽ. Do đó, việc khuyến khích người dân, doanh nghiệp tự nâng cao
nhận thức của mình là việc làm cấp bách và cần thiết để đảm bảo mục tiêu phát triển
nhanh và bền vững mà đại hội Đảng đưa ra.
Định hướng BVMT trong giai đoạn 2011-2015, Bộ TN&MT sẽ đề xuất sửa đổi,
bổ sung Luật BVMT năm 2005, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, tăng cường các
hoạt động, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để lực lượng thanh tra chuyên ngành có thể chủ
động, linh hoạt trong hoạt động của mình. Xây dựng và thực hiện Chương trình Mục
tiêu quốc gia về khắc phục suy thoái và cải thiện môi trường, trong đó sẽ tập trung
nguồn lực để khắc phục các “điểm nóng” và các vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường
Từ năm 2005 đến nay có khoảng 60 dự án chiến lược, quy hoạch đã được đánh giá tác
động môi trường, trong đó Bộ TN&MT thẩm định, phê duyệt 500 báo cáo, các Bộ
ngành và địa phương thẩm định, phê duyệt 6.500 báo cáo, chưa kể rất nhiều dự án, hoạt
động đầu tư đã thực hiện đăng ký cam kết bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, tình trạng gây
ô nhiễm môi trường vẫn xảy ra tràn lan trên toàn quốc.
- Có thể nói, công tác quản lý nhà nước về BVMT còn hạn chế. Tình trạng vi phạm về
môi trường còn phổ biến, nhất là trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh ,
22
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết BVMT còn mang tính hình
thức; không thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo cũng như các cam kết BVMT đã phê
duyệt.
Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BVMT và các luật có liên quan đến lĩnh
vực BVMT còn thiếu và chưa rõ ràng, cụ thể. Ví dụ: Bộ luật Hình sự quy định xử lý
hình sự đối với cá nhân nhưng thực tế ở Việt Nam thì nhiều vụ việc gây ô nhiễm môi
trường lại do tổ chức, do đó gây khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm. Luật BVMT
2005 chưa quy định rõ ràng giữa quản lý nhà nước về BVMT với quản lý nhà nước về
khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, nước, khoáng
sản, dầu khí, thủy sản Nhiều trường hợp còn xảy ra sự chồng chéo chức năng, thẩm
quyền giữa Bộ TN&MT với các Bộ, ngành quản lý các thành phần khác có hoạt động
quản lý liên quan đến môi trường.
Thời gian gần đây hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mặc dù đã được sửa đổi, bổ
sung nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, chế tài chưa đủ mạnh để răn
đe, còn nhiều lỗ hổng để các đối tượng “lách luật”.
Do bởi hệ thống pháp luật còn nhiều thiếu sót nên việc thực thi pháp luật về môi
trường chưa nghiêm:
Ngoài những thành tích đã đạt được, trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm và vi phạm pháp luật về môi trường còn nhiều khó khăn. Do phương thức, thủ
đoạn của loại tội phạm này ngày một tinh vi hơn, có sự đối phó với cơ quan chức năng,
đòi hỏi lực lượng công an phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ, huy động
lực lượng và phương tiện, tổ chức theo dõi thời gian dài. Một khó khăn khác là vi phạm
có yếu tố nước ngoài. Trong một số vụ việc khi xử lý, cảnh sát môi trường phải cân
nhắc vì yếu tố ngoại giao, giải quyết bài toán “phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường -
công ăn việc làm cho người lao động”.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường hiện nay chưa có sự đồng đều, thống
nhất và chưa thực sự nghiêm minh. Nguyên nhân là do quan điểm xử lý giữa các địa
23
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
phương, một số Bộ, ngành chưa thống nhất. Nhiều nơi do ưu tiên phát triển kinh tế nên
kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không quan tâm đế thẩm định, đánh
giá ảnh hưởng của các dự án đối với môi trường, nhất là các dự án thuộc lĩnh vực trọng
điểm hoặc khi xử lý đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thứ tư: Công tác lập quy hoạch đường đô thị chưa được chú trọng thích
đáng:
Công tác quy hoạch khu công nghiệp(KCN), khu đô thị(KĐT) còn nhiều bất cập.
Nhiều KCN được quy hoạch sát khu đô thị, các dòng sông, trục giao thông và các khu
vực nhạy cảm về môi trường; quy hoạch chưa có đủ cơ sở khoa học, chưa tính đến các
yếu tố tự nhiên và xã hội nên tính khả thi thấp. Các địa phương đều đã có quy hoạch
khu đô thị, khu kinh tế, KCN nhưng chưa đủ nguồn lực thực hiện quy hoạch, nhất là
việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN, KĐT và công trình thu
gom xử lý nước thải, rác thải. Đặc biệt là bụi của các đường trong nội thành Hà Nội rất
khủng kiếp, rùi khói xe tải nặng đen gòm khắp nơi
PHẦN 4: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM GIẢM THIỂU Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ BỞI PHƯƠNG TIỆN GIAO
THÔNG
Từ những hiện tượng ô nhiễm không khí bởi phương tiện giao thông và tác hại
của nó, ta cần đưa ra những giải pháp cụ thể như sau :
* Xác định phương pháp dự báo chính xác mức độ của các chất gây ô nhiễm khí
quyển và mức độ khí nhà kính, khả năng gây tác động nguy hiểm đối với hệ thống khí
hậu và môi trường.
* Hiện đại hóa hệ thống năng lượng hiện có để tạo ra hiệu suất năng lượng, phát triển
nguồn năng lượng mới và tái sinh như : năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy
triều, sinh khối, địa nhiệt. Qua đó thay thế được nguồn nhiên liệu vốn có là xăng dầu
mà gây độc hại với môi trường không khí do các phương tiện giao thông.
24
TIỂU LUẬN Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRẦN THẾ TÀI
* Giúp đỡ nhân dân hiểu biết về việc làm thế nào để phát triển và sử dụng các năng
lượng có hiệu quả, ít ô nhiễm hơn.
* Giao thông vận tải là yếu tố thiết yếu đối với phát triển kinh tế – xã hội và không
còn nghi ngờ gì nữa là nhu cầu sẽ ngày càng được tăng lên. Song hoạt động giao
thông vận tải đồng thời cũng là nguồn tạo ra các khí thải vào không khí. Nên chúng ta
cần :
- Nâng cao tiêu chuẩn quốc gia về hiệu suất năng lượng và khí phát thải, nâng
cao nhận thức của công chúng về các hình thức năng lượng phù hợp về mặt môi
trường.
- Phát triển giao thông vận tải công cộng ở thành phố theo hướng có hiệu quả,
rẻ tiền, ít tốn kém, an toàn với bầu không khí. Khuyến khích các hình thái giao thông
vận tải mà giảm được khí thải và các ảnh hưởng co hại cho môi trường không khí.
- Quy hoạch các điểm dân cư đô thị và khu vực để làm giảm được các tác động
về mặt môi trường do giao thông vận tải gây ra.
* Trong công nghiệp cần chú trọng để tạo lập được việc sử dụng có hiệu quả các vật
liệu và nguồn tài nguyên, trang bị các phương tiện kiểm soát ô nhiễm, thay thế khí
CFC và các chất khác làm suy giảm tầng Ozon bằng các chát an toàn hơn và cuối
cung là giảm chất thải.
* Xử lý nghiêm đối với hành vi nguy hại đến môi trường, đặc biệt là môi trường
không khí.
Ô nhiễm là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, hoạt động của đô thị:
Xây dựng, sử dụng đất, giao thông, hoạt động dân sinh, công nghiệp, năng lượng…Do
vậy, việc kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm không khí đô thị phải dựa trên một loạt các
giải pháp đồng bộ, sử dụng đồng thời các công cụ về chính sách, kinh tế và khoa học,
công nghệ với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ/ngành và địa phương. Vai trò của chính
quyền các địa phương là vô cùng quan trọng trong việc kiểm soát, hạn chế các nguồn
25