Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

NCKH PHÁP LUẬT VỀ “KINH TẾ CHIA SẺ” KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 140 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM 2023”
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHÁP LUẬT VỀ “KINH TẾ CHIA SẺ” - KINH NGHIỆM MỘT SỐ
QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Thuộc nhóm ngành khoa học: Xã hội và Nhân văn

NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
chúng tôi.
Các kết quả nêu trong Báo cáo tổng kết đề tài chưa được công bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong báo cáo tổng kết đề tài là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Chúng tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Báo cáo
tổng kết đề tài này.

Nhóm tác giả đề tài

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6. Ý nghĩa của đề tài
7. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ CHIA SẺ VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KINH TẾ CHIA SẺ
1.1. Tổng quan về Kinh tế chia sẻ
1.1.1 Bản chất của kinh tế chia sẻ
1.1.1.1. Khái niệm kinh tế chia sẻ
1.1.1.2. Đặc điểm của kinh tế chia sẻ
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của kinh tế chia sẻ
1.1.2.1. Lịch sử hình thành của kinh tế chia sẻ
1.1.2.2. Sự phát triển của kinh tế chia sẻ
1.1.3. Vai trò của kinh tế chia sẻ
1.1.4. Các mơ hình kinh tế chia sẻ
1.2. Tổng quan Pháp luật về Kinh tế chia sẻ
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kinh tế chia sẻ
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về kinh tế chia sẻ
1.2.3. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về kinh tế chia sẻ
1.2.4. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với kinh tế chia sẻ
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH TẾ CHIA SẺ Ở
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Thực trạng pháp luật về kinh tế chia sẻ ở Việt Nam
2.1.1. Khái qt mơ hình KTCS ở Việt Nam

2.1.2. Các quy định pháp luật điều chỉnh mơ hình KTCS ở Việt Nam
2.1.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kinh tế chia sẻ ở Việt Nam
2.1.2.1. Một số thành tựu đạt được
2.1.2.2. Một số bất cập còn tồn tại
2.2. Thực trạng pháp luật về kinh tế chia sẻ ở một số quốc gia trên thế giới

2.2.1. Tổng quan mơ hình kinh tế chia sẻ ở một số quốc gia
2.2.2. Sự thừa nhận mơ hình kinh tế chia sẻ của chính phủ các nước
2.2.3. Các quy định pháp luật điều chỉnh mơ hình KTCS ở một số quốc gia
trên thế giới
2.2.3.1. Đảm bảo mơi trường cạnh tranh bình đẳng
2.2.3.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các bên liên quan
2.2.3.3. Vấn đề lao động và việc làm
2.2.3.4. Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân
2.2.3.5. Vấn đề thuế
2.2.3.6. Một số vấn đề pháp lý khác
2.3. Bài học kinh nghiệm về kinh tế chia sẻ
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KINH TẾ CHIA SẺ Ở VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh, sự cần thiết hồn thiện pháp luật điều chỉnh mơ hình kinh tế
chia sẻ
3.2. Phương hướng hồn thiện pháp luật về kinh tế chia sẻ ở Việt Nam
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh tế chia sẻ ở Việt Nam
3.3.1. Tăng cường bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng
3.3.2. Tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3.3.3. Tăng cường bảo vệ quyền lợi người lao động
3.3.4. Tăng cường bảo vệ dữ liệu cá nhân
3.3.5. Tăng cường quản lý thuế và quản lý tài chính, ngân hàng
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt Ý nghĩa

KTCS Kinh tế chia sẻ

DN Doanh nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
KTCS xuất hiện lần đầu tiên ở Hoa Kỳ, phát triển mạnh mẽ trong khoảng
hơn một thập niên trở lại đây, còn được gọi theo nhiều tên khác nhau như kinh tế
cộng tác (collaborative economy), kinh tế nhu cầu (on - demand economy), kinh
tế nền tảng (platform economy)... KTCS cũng được coi là hoạt động tái thiết
kinh tế, trong đó các cá nhân có thể sử dụng các tài sản, dịch vụ nhàn rỗi (bao
gồm cả các tài sản vơ hình như kỹ năng cá nhân và thời gian rảnh rỗi), được sở
hữu bởi các cá nhân khác thông qua các nền tảng kết hợp trên Internet. Trong
kinh doanh, mơ hình KTCS thường do các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
(start-up) khởi xướng - đối tượng này không sở hữu bất kỳ một nhà máy hay một
kho hàng nào nhưng lại có cả một kho tài nguyên sẵn có trên tồn cầu và ln
sẵn sàng gia nhập vào hệ thống.
Tại Việt Nam, mô hình KTCS đã có những bước phát triển đáng chú ý, với
một số mơ hình kinh doanh dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ số như ứng
dụng gọi xe Grab, Be, Gojek; dịch vụ chia sẻ phòng ở như Airbnb, Luxstay; dịch
vụ cho vay ngang hàng như: Tima, Lendbiz... Xuất phát từ đặc điểm nổi bật của
KTCS là ưu tiên sử dụng thay vì sở hữu và có sự hỗ trợ từ cơng nghệ số, nên mơ
hình KTCS đã kết nối được số lượng lớn người cung cấp và người tiêu dùng,
đồng thời tiết kiệm chi phí đầu tư cơ sở vật chất cũng như phương tiện, con
người. Từ đó, mơ hình KTCS được cho là đem lại nhiều lợi ích như: giá cả cạnh
tranh, sản phẩm, dịch vụ đa dạng, thúc đẩy cạnh tranh nhằm tối ưu hóa lợi ích
cho người tiêu dùng, tận dụng nguồn lực dư thừa của xã hội, tạo thêm nhiều việc

làm cho người lao động... Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của mơ hình
KTCS cũng đang đặt ra một số vấn đề trong thực tiễn quản lý, ví dụ như: khơng
bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh; tiềm ẩn khả năng vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng cũng như quyền lợi người lao động; vấn đề bảo vệ dữ liệu
cá nhân, thất thốt thuế; ảnh hưởng đến lợi ích cơng và vấn đề bảo vệ môi
trường. Một trong số những ngun nhân của tình trạng nêu trên là mơ hình kinh
tế mới này đã khiến cho hệ thống pháp luật hiện hành xuất hiện một số bất cập

và lỗ hổng pháp lý.
Từ những hạn chế trong hệ thống pháp luật điều chỉnh mơ hình KTCS nêu

trên, với mong muốn cung cấp cho những nhà quản lý, những nhà nghiên cứu,
các DN, người tham gia vào mơ hình KTCS những nội dung hữu ích xung
quanh mơ hình KTCS, kinh nghiệm hồn thiện pháp luật điều chỉnh mơ hình
KTCS của một số quốc gia trên thế giới, thực tiễn cũng như một số kiến nghị
hồn thiện pháp luật điều chỉnh mơ hình KTCS ở Việt Nam, nhóm tác giả đã lựa
chọn nghiên cứu vấn đề Pháp luật về “Kinh tế chia sẻ” - Kinh nghiệm một số
quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam làm đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6. Ý nghĩa của đề tài
7. Kết cấu của đề tài

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ CHIA SẺ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH TẾ CHIA SẺ

1.1. Tổng quan về Kinh tế chia sẻ

1.1.1 Bản chất của kinh tế chia sẻ
1.1.1.1. Khái niệm kinh tế chia sẻ
Thuật ngữ KTCS hiện nay đang là một trong những vấn đề thu hút được sự
quan tâm của rất nhiều các học giả trên thế giới. KTCS còn được biết đến với
nhiều tên gọi khác nhau như “kinh tế hợp tác” (Collaborative economy), “kinh tế
nền tảng” (Platform economy), “tiêu dùng kết nối” (Connected consumption),
“kinh tế cho thuê” (Renting economy) hay kinh tế theo yêu cầu (on demand
economy) …1
Năm 1968, Garret Hardin2 đã thảo luận một lý thuyết kinh tế có tên
“Tragedy of the commons” trong bài viết chỉ trích hệ thống kinh tế tư bản.
Hardin cho rằng nếu mỗi cá nhân trong một cộng đồng hành động theo lợi ích
riêng của mình, coi thường lợi ích chung thì kết quả là sự cạn kiệt tài nguyên.
Khi hệ thống kinh tế tư bản không thể phân bổ hiệu quả các nguồn lực mà chúng
có thì KTCS xuất hiện như một sự thay thế. Đến năm 1984, Martin Weitzman3
lần đầu tiên nhắc đến khái niệm KTCS. Nhưng mãi cho đến khi Airbnb, Uber,
RelayRides,… tham gia thị trường vào nửa sau thập niên 2000 và đầu thập niên
2010 thì thuật ngữ KTCS mới thật sự được quan tâm. Cuộc khủng hoảng tài
chính xảy ra từ năm 2008 đến năm 2011 buộc khách hàng phải tìm kiếm cách
tiêu dùng hiệu quả hơn. Khi đó, mơ hình KTCS được Tạp chí Time bình chọn là
một trong 10 ý tưởng hàng đầu sẽ thay đổi thế giới. Botsman R và Rogers
(2010)4 cũng đề cập đến sự phát triển của KTCS và sự chuyển đổi trong cách
tiêu thụ từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21. Ngoài thuật ngữ KTCS, một số tài liệu sử
dụng những thuật ngữ khác như tiêu thụ hợp tác (Botsman, 2013)5, kinh tế truy

1 Phan Thị Thanh Thủy, “Kinh tế chia sẻ và những thách thức pháp lý đặt ra cho Việt Nam và Châu Âu từ góc
nhìn so sánh”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Pháp luật kinh doanh và dân sự hiện đại của Việt Nam và cộng hòa Liên
Bang Đức - Những vấn đề nổi bật từ góc nhìn so sánh, tr.81.
2 Garret Hardin (1968), The Tragedy of the commons, 162 Science 1243.
3 Martin L.Weitzman (1984), The share economy, Harvard University Press.
4 Botsman, R., Rogers, R., (2010), What’s Mine is Yours - The rise of collaborative consumption, HarperCollins,

New York.
5 Botsman, R. (2013), The Sharing Economy Lacks A Shared Definition, Fast Company, November 21, 2013.

cập (Belk, 2014)6, kinh tế ngang hàng, tiêu dùng dựa trên sự kết nối, kinh tế lai,
kinh tế tạm thời (Dredge và Gyimóthy, 2015)7,… Đến nay, thuật ngữ KTCS
được cơng nhận rộng rãi trên toàn thế giới và được Ủy ban thương mại liên bang
Hoa Kỳ (FTC) và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) sử dụng trong
các tài liệu chính thức.

Belk (2010)8 cho rằng “KTCS là hành động và quy trình phân phối những
gì chúng ta có cho người khác sử dụng và quá trình tiếp nhận hoặc lấy cái gì đó
từ người khác để sử dụng”. Có 02 loại chia sẻ là “sharing in” và “sharing out”.
“Sharing in” là hành động chia sẻ được tạo ra từ lòng tốt, phép lịch sự đối với
người khác hoặc giữa những người thân thiết như gia đình, bạn bè. “Sharing
out” là hành động chia sẻ không gian, sản phẩm, kiến thức, công việc,... giữa
những người xa lạ, không xảy ra thường xuyên, rất có thể chỉ diễn ra một lần.
Hành động chia sẻ cũng diễn ra trong một phần khác gọi là “chia sẻ giả” (Belk,
2014).

Bostman và cộng sự (2010) cho rằng KTCS là một mô hình kinh tế trung
gian qua internet, được xây dựng trên sự chia sẻ, trao đổi, giao dịch hoặc cho
thuê sản phẩm, dịch vụ và không yêu cầu quyền sở hữu. Choi, H.R., và cộng sự
(2014)9 cũng cho rằng KTCS là hành động chia sẻ, trao đổi và cho thuê những
tài ngun khơng cần sở hữu. Nhất trí với quan điểm này, theo Muñoz, P.,
Cohen, B., (2018)10, KTCS là nền kinh tế mà quyền sở hữu được thay thế bằng
việc chia sẻ hoặc khai thác các tài sản đã qua sử dụng. Những tài sản đã qua sử
dụng có thể là sản phẩm, dịch vụ, địa điểm, tài chính, khơng gian, tiền bạc, lực
lượng lao động, kiến thức hoặc thông tin do con người tạo ra và chia sẻ với

6 Belk, R. (2014), You are what you can access: Sharing and collaborative consumption online, Journal of

Business Research, 67, 1595-1600.
7 Dredge, D., and S. Gyimóthy (2015), The Collaborative Economy and Tourism: Critical Perspectives,
Questionable Claims and Silenced Voices, Tourism Recreation Researches, 40, 286-302.
8 Belk, R. (2010), Sharing, Journal of Consumer Research, Volume 36, Issue 5, p.715-734.
9 Choi, H.R., Cho, M.J., Lee, K., Hong, S. G., Woo, C.R. (2014), The Business Model for the Sharing Economy
between SMEs, WSEAS Transactions on Business and Economics, 11, 625-634.
10 Muñoz, P., Cohen, B., (2018), A Compass for Navigating Sharing Economy Business Models, California
Management Review, 61, 114-147.

những người khác (Miller, S. R., 201611 và Plewnia, F., Guenther, E., 201812).
Hamari và cộng sự (2015)13 cho rằng KTCS nổi lên cùng sự phát triển của công
nghệ, giúp đơn giản hóa việc chia sẻ sản phẩm, dịch vụ vật lý, phi vật lý thông
qua Internet. Cũng trong năm này, theo OECD14, KTCS là nền tảng kết nối cung
và cầu, cho phép bán và cho thuê ngang hàng (P2P). KTCS có 03 loại hình
chính là: Bán ngang hàng, chia sẻ ngang hàng và dịch vụ cộng đồng. Không chỉ
kết nối cung và cầu mà theo Täuscher, K., Kietzmann, J. (2017)15, KTCS sử
dụng kỹ thuật số cho phép chủ sở hữu tài nguyên chia sẻ tài sản nhàn rỗi của họ
cho người khác.

Theo ông Yuhei Okakita, Phó Giám đốc Bộ phận Chính sách Thơng tin
Kinh tế - Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, KTCS có thể được
định nghĩa là hoạt động tái thiết kinh tế, trong đó các cá nhân ẩn danh có thể sử
dụng các tài sản nhàn rỗi (bao gồm cả các tài sản vơ hình như kỹ năng cá nhân
và thời gian rảnh rỗi), được sở hữu bởi các cá nhân khác thông qua các nền tảng
kết hợp trên Internet.16 Trong khi đó, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam,
KTCS là khái niệm mới xuất hiện trong thời gian gần đây và gắn với sự phát
triển của cuộc cách mạng cơng nghệ số. Đến nay, có nhiều định nghĩa và cách
hiểu khác nhau nhưng theo cách hiểu phổ biến nhất, mơ hình KTCS là một hệ
thống kinh tế mà ở đó tài sản hoặc dịch vụ được chia sẻ dùng chung giữa các cá
nhân, hoặc không phải trả tiền hoặc khơng trả một khoản phí, với tính chất điển

hình là thơng qua các cơng cụ Internet. Đây là một phương thức kết nối mới
giữa người mua (người dùng) và người bán (người cung cấp) đối với một hoạt

11 Miller, S. R. (2016), First Principles for Regulating the Sharing Economy, Harvard Journal on Legislation, 53,
147-202.
12 Plewnia, F., Guenther, E., (2018), Mapping the sharing economy for sustainability research, Management
Decision, 56, 570-583.
13 Hamari, J., Sjöklint, M. and Ukkonen, A. (2015). The sharing economy: Why people participate in
collaborative consumption, Journal of the Association for Information Science and Technology, 67, 2047-2059.
14 OECD (2015), Scoping the Sharing Economy: Origins, Definitions, Impact and Regulatory Issues, Institute for
prospective technological studies digital economy working paper 2016/01.
15 Täuscher, K., Kietzmann, J. (2017), Learning from Failures in the Sharing Economy, MIS Quarterly
Executive, 16, 253-264.
16 Linh Lam (2017), “Nền kinh tế chia sẻ: Từ Uber, Airbnb đến câu chuyện của Việt Nam”, Người Đồng Hành,
truy cập
ngày 01/8/2022.

động kinh tế.17
Dù có nhiều tên gọi và các quan điểm khác nhau về KTCS nhưng tựu

chung lại, chúng đều có chung các đặc điểm như là nền kinh tế trung gian điều
phối việc mua lại, sử dụng, phân phối mất phí, chuyển giao/khơng “chuyển giao
quyền sở hữu” các tài sản nhàn rỗi, sản phẩm, dịch vụ, thông tin đã qua sử dụng
của người khác thông qua internet và các nền tảng kỹ thuật số. Do đó, có thể
xem xét khái niệm tổng hợp về KTCS như sau: KTCS là nền kinh tế trung gian
qua internet, là nền tảng trực tuyến kết nối cung - cầu được xây dựng dựa trên
sự điều phối quyền truy cập tạm thời, sự chia sẻ, cho thuê mất phí các tài
nguyên đã qua sử dụng phục vụ người tiêu dùng cuối cùng một cách liên tục,
nhanh chóng và toàn cầu.18


Bản chất của mơ hình KTCS là trong đó người tham gia cùng nhau tiếp cận
với sản phẩm hoặc dịch vụ hơn là sở hữu cá nhân về sản phẩm hoặc dịch vụ đó.
Hiện tượng này bắt nguồn từ sự mong muốn của người tiêu dùng đang ngày
càng có nhu cầu kiểm sốt lượng tiêu dùng của họ thay vì “nạn nhân thụ động”
của tiêu dùng. Mơ hình tiêu dùng hợp tác được sử dụng trong các thị trường trực
tuyến cũng như các lĩnh vực mới nổi như cho vay xã hội, cho thuê nhà, thuê dịch
vụ du lịch, tư vấn du lịch, chia sẻ xe hơi cá nhân... Có thể nói rằng với KTCS,
người ta có thể cho người lạ thuê bất cứ thứ gì đang khơng sử dụng thậm chí kể
cả nhà máy, máy móc nơng nghiệp… thơng qua các cơng ty kết nối bằng
internet, mà bên thuê và bên cho th biết rõ thơng tin của nhau. Với mơ hình
này, nhiều người sẽ khơng cần phải mua những thứ có thể thuê, chủ sở hữu có
thể kiếm tiền từ tài sản đang tạm thời nhàn rỗi của mình, người sử dụng phải trả
phí cho tài sản hoặc dịch vụ mình được sử dụng và có lợi ích được thỏa mãn từ
việc sử dụng đó, các nền tảng cũng có lợi ích từ dịch vụ kết nối thông qua việc
định giá hoặc thu phí của các bên cịn lại. Thơng qua sự hỗ trợ của thiết bị công
nghệ cao trong bối cảnh phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ngày

17 Thúy Quyên (2018), “Hội thảo tham vấn dự thảo Đề án mơ hình kinh tế chia sẻ”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
truy cập ngày 01/8/2022.
18 Vũ Thị Thúy Hằng (2021), “Phát triển kinh doanh theo mơ hình kinh tế chia sẻ của các doanh nghiệp trong
lĩnh vực dịch vụ du lịch trực tuyến tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội,
tr.36.

nay, cơ sở hạ tầng cứng và hạ tầng mềm có thể đáp ứng tốt kết nối trong nền
KTCS. Nói một cách ngắn gọn, bản chất của mơ hình KTCS là một mơ hình
kinh doanh mới của kinh doanh ngang hàng, tận dụng lợi thế của phát triển
công nghệ số giúp tiết kiệm chi phí giao dịch và tiếp cận một số lượng lớn khách
hàng thông qua các nền tảng số.19

1.1.1.2. Đặc điểm của kinh tế chia sẻ

Dưới góc độ pháp lý, KTCS hiện đại đang hiện hữu là một dạng đặc biệt
của các giao dịch thương mại điện tử mà trong đó nhà cung cấp nền tảng công
nghệ số tạo ra một sàn giao dịch điện tử dưới dạng website hoặc thông qua các
ứng dụng cài đặt trong thiết bị điện tử để thực hiện việc giao dịch trực tuyến.
Người bán hàng, cung cấp dịch vụ và người mua muốn tham gia sàn giao dịch
này phải cài đặt các ứng dụng, đăng ký tham gia và chấp nhận các quy tắc và
điều kiện giao dịch do bên cung cấp sàn giao dịch đề ra.
Với bản chất là một hợp đồng thương mại điện tử, có thể thấy KTCS có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể: Chủ thể tham gia vào quan hệ KTCS bắt buộc có 03
bên: Bên cung cấp dịch vụ, bên nhận dịch vụ (thường là người tiêu dùng) và bên
cung cấp sàn giao dịch hay còn gọi là bên cung cấp nền tảng số cho giao dịch.
Sự xuất hiện và tham gia của bên cung cấp nền tảng số vào các giao dịch là một
trong những đặc trưng của mơ hình KTCS. Bên cung cấp nền tảng số là các
thương nhân chun nghiệp đóng vai trị trung gian giữa bên cung cấp dịch vụ
và người tiêu dùng. Nếu thiếu đi các trung gian đặc biệt này thì các giao dịch sẽ
khơng thể thực hiện được bởi lẽ bên cạnh việc đóng vai trị mơi giới thơng tin
giữa các bên cung cấp và bên sử dụng dịch vụ và hưởng hoa hồng môi giới trên
mỗi giao dịch thành công đối với cả hai bên thì bên cung cấp nền tảng cịn trực
tiếp vận hành, quản lý và điều phối đối với các giao dịch trên ứng dụng, nền
tảng.
Bên cung cấp dịch vụ có thể là cá nhân có tài sản dư thừa, khơng khai thác
hết cơng năng (người kinh doanh không chuyên) hoặc các nhà kinh doanh

19 Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2018), “Quản lý nhà nước trong nền kinh tế chia sẻ: Kinh
nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam”, Cổng thông tin kinh tế Việt Nam VNEP, Chuyên đề số 14.

chuyên nghiệp. Các nền tảng số sẽ tuyển mộ những người cung cấp dịch vụ này
để tham gia kinh doanh trên mạng lưới của mình. Trong chính sách vận hành,
các nền tảng số đăng ký hoạt động cho họ dưới danh nghĩa là một người làm

hợp đồng/nhà thầu độc lập hưởng thu nhập theo từng vụ việc, khơng có lương
tháng, khơng có chế độ nghỉ phép, ốm đau, bảo hiểm xã hội hay tai nạn nghề
nghiệp…20

Người tiêu dùng trong quan hệ kinh tế chia sẻ là khách hàng trực tiếp sử
dụng dịch vụ (chẳng hạn như khách thuê phòng của chủ trọ trong Airbnb, khách
đi xe gọi từ Grab). Họ là khách hàng, người tiêu dùng của cả nền tảng số và bên
cung cấp dịch vụ, các quyền và nghĩa vụ của họ được pháp luật hiện hành công
nhận và bảo vệ.

Thứ hai, về điều kiện tham gia: Để tham gia vào sàn giao dịch số này thì
việc đầu tiên mà cả bên cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng cần làm là đăng ký
với nền tảng. Đối với người tiêu dùng, các nhà cung cấp nền tảng sẽ yêu cầu họ
phải cung cấp một số thông tin cá nhân gần như bắt buộc là tên, số điện thoại
liên hệ và xác thực số điện thoại trực tiếp trên nền tảng. Còn đối với những
người cung ứng sản phẩm, dịch vụ để có thể trở thành đối tác của doanh nghiệp
cung cấp nền tảng thì bên cạnh việc cung cấp những thông tin như đối với người
tiêu dùng thì cịn phải đáp ứng những u cầu khắt khe hơn như phải cung cấp
số chứng minh thư, cung cấp hình ảnh của bản thân, đặc điểm của sản phẩm, hay
cơng cụ phương tiện mà mình sử dụng để cung ứng dịch vụ… Sau khi đã cung
cấp đầy đủ những thơng tin theo u cầu thì cả bên cung cấp và người tiêu dùng
sẽ phải chấp thuận những điều kiện và quy tắc chung cho giao dịch của mình để
có thể chính thức trở thành người tham gia nền tảng và sau đó có thể trực tiếp
thực hiện các giao dịch của mình trên nền tảng này.

Thứ ba, về vai trò của bên cung cấp nền tảng số: So với vai trò của một
bên trung gian thương mại truyền thống, có thể thấy vai trị trung gian/mơi giới
thương mại của nền tảng số đã vượt xa rất nhiều mặc dù cũng thực hiện 03 chức

20 Phan Thị Thanh Thủy, “Góc nhìn mới về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia các mơ hình kinh doanh trên

nền tảng số”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Hoàn thiện pháp luật tư trong bối cảnh kỷ nguyên số: Kinh nghiệm từ Đức
và Việt Nam, tr.10-11.

năng cơ bản là ghép nối người bán và người mua, làm thuận lợi cho giao dịch và
cung cấp hạ tầng cơ sở cho hoạt động thương mại. Tuy nhiên khác với trung
gian truyền thống, các chức năng này được thực hiện bằng những phương thức
có thể thu được hiệu quả tối đa.

Đối với 02 chức năng đầu tiên là kết nối người bán với người mua và tạo
thuận lợi cho giao dịch. Bằng việc sử dụng các thuật tốn, phân tích dữ liệu từ
người tiêu dùng, các nền tảng số nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu,
cũng như các sản phẩm mà người tiêu dùng đang quan tâm, để từ đó có những
tính tốn, đưa ra gợi ý cho người tiêu dùng về các sản phẩm tương đồng với mức
giá thấp nhất góp phần quan trọng vào việc nâng cao tỷ lệ các giao dịch thành
công. Bên cung cấp nền tảng cịn là cầu nối thơng tin, xác nhận danh tính của
người mua và bán, giữ tiền đặt cọc của giao dịch và chuyển tiền sau khi giao
dịch đã được xác nhận hoàn thành bởi hai bên.

Đối với chức năng cung cấp hạ tầng cơ sở cho hoạt động thương mại, thay
vì thơng qua một hệ thống trung gian tập trung như nhà bán buôn, bán lẻ, kho
bãi, công ty vận chuyển… Thông qua việc liên kết với các trung gian phân phối
hoặc tự đưa hàng hóa từ tay người bán đến tay người mua bằng mạng lưới
những người giao hàng chuyên nghiệp (shipper). Chi phí logistic đã được các
nền tảng số cắt giảm tối đa, từ đó giúp cắt giảm chi phí giao dịch, tuy nhiên vẫn
đảm bảo việc giao hàng hóa được thực hiện một cách nhanh chóng và đúng hạn.

Ngoài ra, bên trung gian này cịn đóng vai trị ấn định giá, quyết định ai có
quyền tham gia, thu thập dữ liệu về người tham gia hay thậm chí giải quyết tranh
chấp giữa các bên.


Thứ tư, về quyền tài sản: Khác với các giao dịch thương mại truyền thống
khác, giao dịch giữa các bên trong quan hệ KTCS không làm mất đi quyền sở
hữu của bên cung cấp dịch vụ đối với tài sản họ đang sử dụng kinh doanh.

Thứ năm, về cơ chế đánh giá: Các bên cung cấp và người tiêu dùng phải
thực hiện hệ thống đánh giá ngang hàng trực tiếp trên nền tảng số, nếu mức độ
tín nhiệm quá thấp sẽ không được tiếp tục thực hiện giao dịch. Đây là một trong
những điểm khác biệt so với thương mại truyền thống, bởi lẽ các giao dịch số

thường được thực hiện giữa cá nhân và ẩn danh, người tiêu dùng chỉ biết được
những thông tin của người cung ứng sản phẩm dịch vụ qua những gì mà nền
tảng số cung cấp. Điều này khiến cho việc xây dựng cơ chế tin cậy giữa những
người bán và người mua trong giao dịch số trở nên khó khăn. Do đó, việc xây
dựng một hệ thống đánh giá ngang hàng sẽ tạo ra cơ sở giúp người bán, người
mua có thể biết được về mức độ tin cậy của đối tác để từ đó quyết định có thực
hiện giao dịch hay khơng.21

1.1.2. Sự hình thành và phát triển của kinh tế chia sẻ
1.1.2.1. Lịch sử hình thành của kinh tế chia sẻ
Khái niệm KTCS được manh nha từ năm 1995, khởi điểm là tại Mỹ với mơ
hình ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang hàng” nhưng khơng rõ rệt. Có thể kể
đến như các dịch vụ website thông tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc
tìm người… giúp cho các cá nhân có thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền
quảng cáo. Trong đó Ebay là ví dụ điển hình khi những người có vật dụng dư
thừa có thể lên đó bán hàng cho người cần.
Thực tế, mơ hình chia sẻ đã có từ rất lâu dưới hình thức: Thư viện, thuê xe,
câu lạc bộ, phịng luyện tập, xe ơm, chia sẻ trong làng xã, thị trấn. Tuy nhiên, từ
giữa thế kỉ 20, việc chia sẻ trở nên đắt đỏ và rắc rối hơn so với việc sở hữu, do
sự bùng nổ của sản xuất hàng loạt (cách mạng cơng nghiệp). Từ đó xuất hiện
chủ nghĩa tiêu dùng, được xây dựng dựa trên ý tưởng cho rằng việc tiêu dùng sẽ

giúp người dân thấy hạnh phúc, việc tiêu dùng sẽ giúp nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ hơn. Ngày nay, xu hướng đảo ngược trở lại do việc chia sẻ dần trở nên
rẻ hơn. Nền KTCS thuộc một xu hướng lớn hơn bắt đầu từ thời Internet: Xu
hướng đảo ngược chủ nghĩa tiêu dùng.
Các quan hệ KTCS bắt đầu hiện diện một cách rõ nét hơn khi nền kinh tế
Mỹ rơi vào khủng hoảng năm 2008, khiến người dân buộc phải thay đổi cách
tiêu dùng để thích ứng với bối cảnh khó khăn. Việc “chia sẻ” tài nguyên sẵn có
với sự hỗ trợ của ứng dụng cơng nghệ đã đem lại những khoản lợi nhuận khổng
lồ cho nhà cung ứng dịch vụ lẫn người cho thuê và sử dụng tài nguyên, giúp mô

21 Nguyễn Minh Đức (2020), “Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng trong các quan hệ kinh tế chia sẻ
ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.12.

hình kinh doanh này nhanh chóng phát triển vượt ra khỏi biên giới Mỹ, lan rộng
khắp châu Âu và toàn thế giới.22

1.1.2.2. Sự phát triển của kinh tế chia sẻ
Với nền tảng cách mạng công nghiệp 4.0, Internet được lan rộng, các trang
như eBay và Craigslist giúp kết nối những người có và những người cần một
cách hiệu quả hơn. Chia sẻ và tái phân phối tài nguyên bắt đầu rẻ đi so với mua
đồ mới và vứt đồ cũ đi. Mọi người không chỉ là người mua mà cịn có thể bán
thơng qua thương mại ngang hàng. Việc này giúp những thứ bị lãng phí do
khơng dùng đến được tận dụng thông qua chia sẻ. Thông qua nền tảng công
nghệ, con người bắt đầu thay đổi quan hệ với những thứ mình tư hữu, họ nhận ra
những thứ có thể được truy cập mà khơng cần sở hữu, thứ đắt đỏ trong việc duy
trì, thứ khơng thực sự cần thiết, thứ không được dùng thường xuyên... đều nên
thuê chứ không nên mua. Điều này thay đổi tâm lý “tư hữu”.23
Trong sự thành cơng của KTCS có thể kể đến nhiều tên tuổi nổi tiếng như
Airbnb, Uber, TaskRabbit... Trong đó, vào năm 2015, dịch vụ Airbnb đã được
định giá vào khoảng 20 tỷ USD. Cùng với Airbnb, trong năm 2016, rất nhiều các

dịch vụ khác đã và đang tiếp tục phát triển mạnh, chia sẻ và cho thuê gần như
mọi thứ: Từ máy nông nghiệp, máy công nghiệp, các thiết bị công nghiệp nặng,
cho đến máy ảnh, đồ chơi, thiết bị thể thao (xe đạp, ván trượt...), cho vay tiền,
gọi vốn, chia sẻ wifi cho nhau, chăm sóc thú cưng, cho thuê xe tự lái, cho thuê
nhân viên, thuê sách… Các “đại gia” về kinh tế chia sẻ đang ngày càng bành
trướng như Uber cung cấp cả dịch vụ cho thuê trực thăng và kho bãi hậu cần
kèm vận chuyển giao hàng. Xa hơn, tỷ phú Elon Musk, nhà sáng lập một loạt tập
đoàn lớn (Tesla, Paypal, SpaceX, The Boring...), từng khẳng định sẽ sớm đưa xe
tự hành Tesla vào hoạt động taxi kiểu Uber.
Việc chia sẻ hàng hóa khơng chỉ dừng ở tài sản hữu hình mà cả các tài sản
vơ hình như quyền sở hữu trí tuệ. Hơn một phần tư người được hỏi trên tồn cầu
sẵn sàng chia sẻ quyền sở hữu trí tuệ dưới dạng các bài học, các dịch vụ thông

22 Trần Thị Hằng (2019), “Phát triển kinh tế chia sẻ tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và
một số khuyến nghị”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 54/2019, tr.90.
23 Đào Đăng Kiên (2016), “Phát triển kinh tế chia sẻ và một số giải pháp áp dụng kinh tế chia sẻ ở Việt Nam”,
Tạp chí Phát triển nhân lực, số 01/2016.

qua mạng internet như bài học tiếng, âm nhạc.... Khu vực Mỹ La Tinh là khu
vực có tỷ lệ cao nhất người được hỏi muốn chia sẻ kinh nghiệm kiếm tiền. Tiếp
theo là những hàng hóa khác người tiêu dùng sẵn sàng chia sẻ là: Dụng cụ thể
dục (23%), xe đạp (22%), quần áo (22%), dụng cụ gia đình (22%), xe hơi (21%),
dụng cụ cắm trại (18%), bàn tủ (17%), nhà cửa (15%), xe máy (13%).24

Theo nghiên cứu của Cơng ty kiểm tốn PricewaterhouseCoopers (một
trong bốn cơng ty kiểm tốn hàng đầu thế giới hiện nay), 05 lĩnh vực chính gồm
du lịch, vận tải, tài chính, nhân lực, dịch vụ video trực tuyến và ca nhạc, khi ứng
dụng mơ hình KTCS trong kinh doanh có tiềm năng làm tăng doanh thu tồn cầu
từ 15 tỷ USD trong năm 2014 lên khoảng 335 tỷ USD trong năm 2025, tức là
tăng gấp 22 lần trong 10 năm.25


Theo khảo sát của ECNS (Trung Quốc), quy mô của thị trường KTCS năm
2015 tại Trung Quốc đã vượt ngưỡng 1.000 tỷ Nhân dân tệ (hơn 152,8 tỷ USD).
Tại Mỹ, tổng giá trị các doanh nghiệp tham gia loại hình KTCS đến nay đạt trên
463,9 tỷ USD, chiếm hơn 3% GDP nước Mỹ. Tại Úc, theo số liệu của Tổ chức
nghiên cứu Khoa học và Cơng nghiệp Úc (CSIRO) đến cuối năm 2018, có hơn
50% dân số nước này từng sử dụng hoặc cung cấp các dịch vụ kinh doanh chia
sẻ. Ở Nhật Bản, doanh thu của lĩnh vực này vẫn còn khá nhỏ, nhưng Bộ Kinh tế,
Thương mại và Công nghiệp nước này cũng đưa ra dự báo doanh thu toàn cầu
của nền kinh tế chia sẻ có tiềm năng tăng nhanh từ 15 tỷ USD hiện nay lên tới
khoảng 335 tỷ USD trong thời gian tới.26

Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của các nền tảng công nghệ
số (công nghệ 3G, GPS, dịch vụ thanh toán online), KTCS đã tiếp thêm lực đẩy
để phát triển lan rộng trên tồn thế giới, nhanh chóng trở thành một trong những
mơ hình kinh tế phát triển với tốc độ nhanh nhất trong lịch sử. Số lượng cũng
như mức tăng trưởng của các công ty hoạt động theo mơ hình kinh doanh này là

24 Nguyễn Bích Thủy (2020), Kinh tế chia sẻ dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Trường Đại
học Thương Mại, Hà Nội, tr.21.
25 Thanh Hoa (2019), “Mở đường đón thị trường kinh tế chia sẻ”, Tạp chí Tài chính,
truy cập
ngày 03/8/2022.
26 Đỗ Thị Nhung (2018), “Phát triển mơ hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam và một số đề xuất”, Tạp chí Tài chính,
/>va-mot-so-de-xuat-139063.html, truy cập ngày 31/7/2022.

một minh chứng rõ rệt cho sự bùng nổ của mơ hình KTCS tại hầu khắp các quốc
gia trên thế giới. Thế nhưng, từ nửa sau thập niên 2010, mô hình kinh tế chia sẻ
đã có dấu hiệu phát triển chậm lại tại Mỹ và châu Âu. Hàng loạt các doanh
nghiệp hàng đầu trong mơ hình kinh doanh này như Uber, WeWork... chịu thua

lỗ nặng nề, thậm chí những người sáng lập đã phải bán đi toàn bộ cổ phần của
mình hay hủy bỏ kế hoạch IPO.27 Có thể thấy, kinh tế chia sẻ khơng cịn được
xem là xu thế của thời đại mà thay vào đó là các mơ hình kinh tế mới mẻ hơn
như blockchain. Kinh tế chia sẻ từ một mơ hình được xem là hái ra vàng thì hiện
nay lại bị chính phủ các quốc gia e ngại, kiểm sốt chặt chẽ bởi các chính sách,
quy định thay vì chào đón bởi những rủi ro tiềm ẩn mà nó mang lại. Tuy nhiên,
khác với các quốc gia phương Tây, nền KTCS tại nhiều quốc gia châu Á đang
phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, tại nhiều quốc gia ở Đông Nam Á, các doanh
nghiệp startup đi theo mơ hình này đang nổi lên nắm giữ những vị thế nhất định
trên thị trường với việc mở rộng số lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã và
tăng mạnh về quy mô.

1.1.3. Vai trò của kinh tế chia sẻ
1.1.3.1. Giảm bớt gánh nặng sở hữu
Nền KTCS giúp giảm thiểu nhu cầu sở hữu một số sản phẩm/hàng hóa nhất
định. Thực tế cho thấy, vào khoảng giữa thế kỷ XX, sự bùng nổ của cuộc cách
mạng công nghiệp với sự ra đời của dây chuyền sản xuất hàng loạt đã dẫn đến
sự hình thành của chủ nghĩa tiêu dùng được xây dựng dựa trên quan niệm: Chi
tiêu, mua sắm để sở hữu những sản phẩm được sản xuất ra thị trường là góp
phần vào sự phát triển của nền kinh tế (Gansky, 2010)28. Tuy nhiên, việc sở hữu
đòi hỏi nhiều mức chi phí khác nhau bao gồm vốn mua, chi phí bảo trì và đơi khi
cả chi phí lưu trữ và xử lý, trong khi đó sự phổ biến rộng rãi của internet hiện
nay giúp cho việc kết nối những người có và những người cần một sản phẩm
hay hàng hóa nhất định thông qua nền tảng chia sẻ trở nên dễ dàng và hiệu quả
hơn rất nhiều; điều này đã phần nào làm giảm dần đi sự hấp dẫn của việc sở hữu

27 Phạm Hoài Nhân (2020), “Nền kinh tế chia sẻ: Tương lai huy hoàng hay điêu tàn?”, Báo Đồng Nai,
/>n-2982901/, truy cập ngày 02/8/2022.
28 Gansky (2010), The Mesh: Why the Future of Business is Sharing, The Penguin Group.


một sản phẩm bất kỳ so với trước đây.
Chẳng hạn, trước đây, để đáp ứng nhu cầu vận chuyển đi lại hằng ngày thì

người tiêu dùng chỉ có lựa chọn là mua một chiếc xe bất kỳ. Vì thế, người tiêu
dùng phải bỏ ra một khoản chi phí ban đầu đáng kể hoặc phải chi trả một khoản
thanh toán hàng tháng trong nhiều năm (trong trường hợp mua trả góp) trước khi
sở hữu một chiếc xe cho bản thân. Tuy nhiên, trên thực tế, các phương tiện vận
chuyển như xe hơi - một tài sản có chi phí ban đầu tương đối cao - hầu như
không được sử dụng hết khả năng thực tế. Cụ thể hơn, các tính tốn gần đây cho
thấy rằng tất cả xe hơi trên tồn thế giới ln ln trong trạng thái nghỉ từ 92%
đến 96% thời gian trong suốt vịng đời của mình (Barter, 2013)29.

Một ví dụ khác như dịch vụ cho thuê thiết bị nông nghiệp của nền tảng
Trringo do công ty ô tô Mahindra & Mahindra ở Ấn Độ đã cho phép nơng dân
th được thiết bị, máy móc nơng nghiệp bằng cách gọi điện, góp phần thúc đẩy
sự thịnh vượng của vùng nông thôn. Chỉ khoảng 15% trong số 120 triệu nơng
dân Ấn Độ có khả năng chi trả để sở hữu thiết bị cơ khí nơng nghiệp. Vì vậy,
nền tảng này đã cho phép những nông dân khác có thể sử dụng máy móc nơng
nghiệp với chi phí thấp hơn nhiều.30

Với sự ra đời của mơ hình KTCS, mọi người khơng cần phải tiết kiệm
trong thời gian dài để có các loại sản phẩm và dịch vụ mà họ muốn. Bên cạnh
đó, thông qua việc sử dụng các công nghệ mới, mô hình KTCS làm tăng khả
năng tiếp cận nhiều sản phẩm và dịch vụ, đồng thời giảm thiểu đáng kể nhiều
loại chi phí khác có liên quan khi sử dụng một sản phẩm và dịch vụ nào đó
(Rosenberg, 2013)31. Thật vậy, những người tham gia vào nền tảng chia sẻ, cả
người cung cấp và người có nhu cầu sử dụng sản phẩm và dịch vụ, rõ ràng nhận
được nhiều lợi ích hơn so với việc phải sở hữu để được quyền sử dụng như trước
đây. Do đó, việc tham gia nền tảng chia sẻ nhằm giảm thiểu chi phí sở hữu trở
thành một lựa chọn thay thế hấp dẫn so với việc phải sở hữu một sản phẩm và


29 Barter (2013), “Cars are parked 95% of the time”. Let’s check!”, Reinventing Parking,
truy cập ngày
03/8/2022.
30 Wallenstein J. và Shelat U. (2017), Tiếp cận nền kinh tế chia sẻ (BCG).
31 Rosenberg (2013), “It’s not just nice to share, it’s the future”, New York Times, New York.


×