Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Phân tích người lái đò sông đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.58 KB, 33 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Phân tích Người lái đị sơng Đà </b>

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ơng ghi đậm dấu ấn trong lịng đọc giả với tập "Vang bóng một thời" và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tn là một nhà văn u cái đẹp, ơng ln khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ơng như hố thành những cơng trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.

Tác phẩm "Người lái đị sông Đà" được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sơng Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sơng Đà có những dịng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sơng Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đị trên sơng.

Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như "đá bờ sông dựng vách thành". Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sơng ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dịng văn của ơng thì độc giả lại càng cảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dịng sơng Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sơng ấy, mặt sơng thường "đúng ngọ" mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như "chẹt lịng sơng như một cái yết hầu", rồi "có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia". Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vơ ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ơng. Ví như động từ "chẹt", nó giống như từ dùng trong ngơn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh "như một cái yết hầu" thì lại vơ cùng ăn khớp và khơng có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy khơng khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Chính cái sự hung bạo của dịng sơng Đà ấy đã làm nền để tơn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dịng sơng được khắc họa đậm nét ở mặt ghềnh Hát Lng. Ơng đã miêu tả dịng sơng phải có đến hàng ngàn cây số là "nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió". Chỉ một câu nhưng từ "xô" được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó "gùn ghè", hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.

Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái "hút nước" khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tn, xốy nước giống "như những cái giếng bê tơng" được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ơng dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ơng mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sơng Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sơng đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên khơng có một con thuyền nào dám tới gần nếu như khơng muốn bị hút và dìm xuống dịng sơng. Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đầy hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng "réo gần mãi lên, réo to mãi lên". Ơng nghe tiếng nước như có lúc đang "ốn trách", có khi lại "van xin" hay lại đầy "khiêu khích". Có lúc nó lại rống lên như "một ngàn con trâu mộng" đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành "chân trời đá" mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như "ngỗ nghịch", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vơ tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sơng Đà thành một "lồi thuỷ qi khổng lồ" đầy độc ác, nguy hiểm.

Dịng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó cịn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những khơng gian và thời gian khác nhau. Với ơng, dịng sơng Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm "tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dịng sơng như mùa xn dịng sơng "xanh ngọc bích", mùa thu "lừ lừ chín đỏ". Khơng những thế trong trí tưởng của ơng thì có lúc sơng Đà nhẹ nhàng "như một cố nhâ". Ơng cịn thấy được dịng sơng mang "màu nắng tháng ba Đường thi" với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sơng như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hồi niệm xưa cũ.

Bên cạnh hình ảnh con sơng Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tơn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sơng Đà. Trước cái dịng sơng đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vịng thách đấu với dịng sơng. Trước cái "thạch trận" ấy, ơng lái đị vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ơng vẫn "giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên". Mặc dù mặt nước có hị reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền cịn sóng nước thì như những "qn liều mạng" lao vào "đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền". Mặc dù nước bám lấy như "đô vật" muốn vật ngửa ơng ra, cịn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ơng đị. Và rồi dù có bị thương đến mức "mặt méo bệch đi" thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông "cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái" và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi "trùng vi thạch trận".

Qua truyện ngắn "Người lái đò sơng Đà" tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao... Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành cơng nhân vật lái đị và dịng sơng huyền thoại. "Người lái đị sơng Đà" thực sự là một tác phẩm vơ giá. Nó đã thơi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dịng sơng này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ơng lái đị để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.

<b>Phân tích Ai đã đặt tên cho dịng sơng </b>

Hồng Phủ Ngọc Tường là một trí thức u nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ơng chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.

Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sơng Hương, sự gắn bó của con sơng với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dịng sơng Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

Sơng Hương nhìn từ cội nguồn là dịng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ qun rừng.

Với cái nhìn được nhân hố, sơng Hương tựa cơ gái Digan phóng khống và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành mà khơng chú ý tìm hiểu sơng Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dịng sơng mà chính nó đã khơng muốn bộc lộ.

Như vậy, ở thượng nguồn, sơng Hương có thể chất mạnh, tốt lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sơng Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hố, khơng gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, tồn bộ thuỷ trình của dịng sơng tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình u nhuốm màu cổ tích.

Đoạn tả sơng Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.

Giữa cánh đồng Châu Hố đầy hoa dại, sơng Hương là “cơ gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật trịn, ơm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành qch”…

Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sơng Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…

Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà. Sơng Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân u, sơng Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ơ Kim Long”, dịng sơng “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dịng sơng mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” khơng nói là của tình u”.

Nằm ngay giữa lịng thành phố u q của mình, sơng Hương cũng giống sơng Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đơ; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sơng Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.

Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ơm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng đơng tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như cịn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình u… Sơng Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở cịn là một dịng sơng biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dịng sơng thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dịng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”,“nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…

Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dịng sơng là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến cơng, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dịng sơng được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dịng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hồng Phủ Ngọc Tường về dịng sơng Hương. Ơng xứng đáng là một thi sĩ của thiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình u, niềm tự hào đối với dịng sơng và cũng là với q hương đất nước.

<b>Phân tích hình tượng cây xà nu hay</b>

Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Truyện "Rừng xà nu" của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc "đồng khởi" của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa... quật khởi đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mĩ để giải phóng bn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống cịn, vì chân lí cách mạng ngời chói: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!". Ngồi những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết,... thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc hoạ và ngợi ca như một dũng sĩ oai hùng.

Ngày ấy..., cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, khơng đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng! Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào lúc sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và sẩm tối, hoặc lúc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm rừng xà nu. Hàng vạn cây "không cây nào không bị thương". Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, "cây xà nu đổ ào ào như một trận bão"; nhựa cây đọng lại, tụ lại "bầm lại đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn". Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây non trúng đạn giặc, vết thương "cứ lt mãi ra" sau năm, mười hơm thì cây chết!

Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,... Mỗi lần xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng cho phách mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên cường bất khuất!Người Strá đã hiên ngang trong lửa đạn, người trước ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cung vậy, cạnh một cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây mọc lên, sinh sơi nảy nở "ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Nếu như cây kơ-nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người biểu trưng cho sự thủy chung tình nghĩa, thì cây xà nu là một loại cây "ham ánh sáng mặt ", hương cây nhựa cây "bay ra thơm mỡ màng". Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất "nhọn hoắt như những mũi lê", lúc thì rừng xà nu "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng". Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.Có lúc rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba năm trời anh đi "lực lượng", đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù, anh về thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: "Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngồi những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ Mết và Dít cịn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu luyến. Anh đã mang theo hình bóng q hương để ra đi với một sức mạnh mới: "Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng khơng thấy gì khác ngồi những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời".

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng rừng một về sự hi sinh và đóng góp xương máu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức: "Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn khơng? Nó vẫn sống đấy, khơng có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!".Nét đặc sắc của truyện ngắn "Rừng xà nu" là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dùng sĩ trong sử thi "Bài ca chàng Đam Săn"! Là một già làng 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần "ngực căng như một cây xà nu lớn".

Nói đến hình tượng cây xà nu khơng thể khơng nói tới ngọn lửa xà nu. Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một khơng khí huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư "tuyệt mệnh" của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh hi sinh. Lần thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón tay Tnú, đó là ngọn lửa uất hận, căm thù "máu kêu trả máu, đầu van trả đầu" (Tố Hữu). Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng hô: "Chém! Chém hết!" của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ơn, nằm sóng sồi giữa vũng máu trên nhà ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô Man trong những năm dài đánh Mĩ và lũ tay sai bán nước!Nếu như nhà thơ Thu Bồn lấy cánh chim chơ-rao, một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây kơ-nia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành cơng khắc hoạ vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Ngun, màu sắc thần kì, khơng khí thiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng rừng xà nu vậy.

Truyện "Rừng xà nu" là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh. Cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kì. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kì lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.

<b>PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TNÚ</b>

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm đã thể hiện sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí. Kiên cường, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Ngay từ nhỏ Tnú đã là cậu bé thông minh, lanh lợi, gan dạ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy lớn khôn. Tnú đã chứng kiến bao cảnh đau thương của dân làng Xô Man: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” chỉ vì họ đã dám nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tnú đến với cách mạng như một lẽ sống tự nhiên. Mới 10 tuổi, Tnú đã thay người lớn vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú nhớ như in lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng cịn thì núi nước này cịn”.Khi đi liên lạc, Tnú khơng đi đường mòn, “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

của giặc. Khi qua sơng, Tnú khơng thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình”. Trong một lần đi liên lạc, không may Tnú bị giặc bắt giam cầm ba năm, bị tra tấn dã man song vẫn cương quyết không khai nửa lời.Khi trốn thoát khỏi ngục trở về với dân làng, Tnú đã trở thành một cán bộ cách mạng, trưởng thành về mọi mặt. Anh trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô Man. Cùng với dân làng Tnú chuẩn bị giáo mác cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tnú cũng gặp lại Mai - cô bạn gái năm xưa cùng đi liên lạc, đi tiếp tế cho cán bộ nay trở thành bạn đời của anh.Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua một bi kịch lớn về tình cảm. Bọn giặc kéo đến làng Xơ Man lùng bắt Tnú nhưng không được. Chúng bắt Mai và đứa con vừa đầy tháng tuổi ra tra tấn. Bọn giặc dùng một cây sắt tra tấn mẹ con Mai: “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Tnú đã khơng kìm nén được lịng mình, anh chồm lên xơng vào bọn giặc với một tiếng thét dữ dội. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai, không bảo vệ được tình yêu và giọt máu của mình bởi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Cả vợ và con đã bị giặc giết hại, Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn lao.Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc đã quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt 10 ngón tay Tnú để dập tắt cái “mộng cầm giáo mác” của dân làng Xô Man. Trong cuộc đối đầu quyết liệt này, phẩm chất kiên cường của Tnú càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. “Mười ngón tay anh cháy như 10 ngọn đuốc. Lửa như cháy trong lồng ngực. Máu mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng “Người Cộng sản khơng thèm kêu van”. Tnú mở mắt nhìn vào kẻ thù trừng trừng đầy căm hận.Hình ảnh 10 ngón tay Tnú rừng rực cháy như 10 ngọn đuốc đã trở thành biểu tượng cho nỗi đau thương, tinh thần bất khuất của con người và mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Mười ngọn đuốc từ tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy đẩu tranh của dân làng Xô Man. Tnú thét lên một tiếng, chỉ một tiếng thội nhưng đã vang dội thành nhiều tiếng thét rung chuyển cả núi rừng. Cả làng Xô Man đã đứng dậy. “Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Đau thương và căm thù đã chuyển hóa thành sức mạnh quật cường như một quy luật tất yếu “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

Tnú trở thành một anh bộ đội của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Lửa xà nu đã tắt trên 10 đầu ngón tay Tnú. Tay anh mỗi ngón chỉ cịn hai đốt như một chứng tích đầy căm hận mà anh mang theo suốt đời. Nhưng “tay còn hai đốt vẫn bắn súng được”. Tnú đi bộ đội lực lượng tham gia chiến đấu. Chính bàn tay có những ngón chỉ “cịn hai đốt” ấy sau này đã bóp cổ thằng Dục (thằng ác ơn đã giết mẹ con Mai). Trong ánh đèn soi vào mặt thằng Dục, Tnú đã cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt. Đối với anh bây giờ “bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục” bởi mối thù riêng của anh đã hòa vào mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước. Đó cũng là sự trưởng thành về nhận thức mà Tnú đã rút ra được từ nhiều nỗi đau của gia đình, của quê hương trong cuộc chiến khốc liệt này.Tnú còn là một người có tính kỉ luật rất cao và giàu tình yêu thương. Trong ba năm đi lực lượng vũ trang, xa làng Xô Man, nỗi nhớ về quê hương day dứt trong lòng anh. Nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng và chỉ được về đúng một đêm. Con người kiên nghị, gan góc, khơng biết run sợ, khuất phục trước bạo tàn cũng lại là con người rất giàu tình cảm. Bước chân về đến đầu làng anh xúc động mãnh liệt “cứ vấp mãi vào mấy cái gốc cây”. Tnú sung sướng tắm mình trong dịng nước mát của con suối. Vào tới nhà Ưng, lòng anh như náo nức những tiếng gọi thân thương với những cái tên quen thuộc, mộc mạc đã gắn bó với anh như ruột thịt. Tnú là đứa con yêu thương của tất cả dân làng Xô Man.

Câu chuyện về anh Tnú và sự trưởng thành của anh tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và con đường trưởng thành cách mạng của tất cả các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tnú mang trong mình dịng máu của Đăm Săn, Sinh Nhã… dòng máu anh hùng thần thoại của xứ sở Tây Nguyên. Anh cũng mang sức mạnh của rừng xà nu hào hùng ngay cả trong đau đớn, bất diệt ngay trong sự hủy diệt. Tnú hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng mang đậm chất sử thi hoành tráng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Qua nhân vật này, tác giả muốn biểu dương vẻ đẹp một thế hệ cách mạng trẻ trung, kiên cường, bất khuất, khắc sâu vào tâm can đời sau một chân lý “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý mà chúng ta đã chọn cho con đường cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng.

<b>Phân tích những đứa con trong gia đình</b>

Nguyễn Thi là một trong các nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ơng viết nhiều, viết chân thực về mảnh đất và con người Nam Bộ để rồi nó trở thành khơng gian vơ cùng đặc sắc trong văn thơ Nguyễn Thi. Trong đó, “Những đứa con trong gia đình” là một trong những tác phẩm mà ông đặt nhiều tâm huyết để nói về con người Nam Bộ với những vẻ đẹp phẩm chất, tính cách anh hùng.

Nhan đề “Những đứa con trong gia đình” gợi ra sự nối tiếp của sự sống trong một mạch nguồn bất tận của thế hệ sau với thế hệ trước. Không chỉ nối tiếp một huyết thống mà con nối tiếp cả một truyền thống. Qua đó, Nguyễn Thi cũng đề cao vai trị của gia đình đối với mỗi con người. ở đó khơng chỉ là cái nơi ni dưỡng sự sống mà nó cịn nơi khơi sức sống mãnh liệt về tình u Tổ Quốc, u gia đình. Ngồi ra, nhan đề cịn mở các hình tượng trung tâm trong tác phẩm là Chú Năm, Việt, chị Chiến…

Chú Năm hiện lên là người thân lớn tuổi duy nhất còn lại trong gia đình, là chỗ dựa, cưu mang, chăm sóc thay ba má dạy dỗ chị em Việt. Chú là điểm tựa tinh thần của chị em Việt – Chiến để hai chị em tiếp tục sống và chiến đấu. Ở Chú Năm hiện lên tất cả vẻ đẹp của một người nông dân mộc mạc, chất phác, mang trong mình vẻ đẹp riêng của người nơng dân Nam Bộ. Tính cách bộc trực, thẳng thắn, mạnh mẽ qua cách dạy hai chị em Việt – Chiến “thù cha mẹ chưa trả mà bảo vệ là chú chặt đầu”. Chú là người ham sông ham bến và di nhiều nơi, viết nhiều. Tất cả hiện lên ở Chú Năm là con người của đất đai sông nước, kênh rạch, nồng nàn hơi thở Nam Bộ. Đặc biệt trong Chú Năm cịn là tình yêu và lòng yêu nước căm thù giặc sâu sắc. Chú Năm cũng là người có ý thức chăm chỉ giữ gìn và bảo vệ truyền thống của gia đình.Chú rất chăm chỉ và tỉ mỉ ghi lại các sự kiện, sự việc của gia đình, khơng sốt một cái nào. Đặc biệt là cuốn sổ mà chú giữ được ví như cuốn biên niên sử và chú cũng hiện lên là gia phả sống của gia đình nơng dân nam Bộ. Chú là hiện thân trực tiếp luôn luôn sống về truyền thống, hướng về Tổ quốc. Nếu ví gia đình chú như một dịng sơng chú Năm được ví là khúc thượng nguồn.Má Việt hiện lên là người phụ nữ gan góc, mạnh mẽ và có lịng u thương con sâu sắc. Cuộc đời má chồng chất những đau thương gắn liền với mỹ ngụy. Tuy nhiên bằng bản lĩnh và nghị, người mẹ ấy nén đau thương nuôi các con để sống và duy trì sự sống. Đau thương ấy, người mẹ Nam Bộ nuốt và trong để lặng lẽ chịu đựng. má là hình ảnh điển hình cho người phụ nữ Nam Bộ những con người bất khuất, trung hậu, đảm đang và kiên cường, giàu đức hi sinh.Dưới ngòi bút khắc họa nhân vật của Nguyễn Thi, chị Chiến hiện lên vớ sự thừa hưởng cả hình dáng và tính cách của má. Dáng người khoẻ khoắn, chắc nịch gánh vác công việc của gia đình, trịn trách nhiệm của một người chị lớn trong gia đình. Chị Chiến cịn thừa hưởng những tính cách của mẹ về sự mạnh mẽ, kiên cường, bản lĩnh. Là người tảo tần, thu vén mọi việc trong gia đình và có lịng u nước, ý thức phát huy truyền thống dân tộc. Tuy nhiên ở cô gái 19 tuổi ấy vẫn giữ được nét vẻ ngây thơ, hồn nhiên và rất tinh tế, nhạy cảm. Qua ngôn ngữ đơn giản, rắn rỏi, Nguyễn Thi làm nổi bật vẻ đẹp người con Nam Bộ.

Với ngịi bút đặc tả cùng lối trần thuật ở ngơi thứ 3 Việt hiện lên là một cậu bé 18 tuổi vừa giữ được sự ngây thơ, trong sáng, hồn nhiên nhưng cũng là một cậu bé rất yêu thương chị gái của mình. Việt cịn là một cậu bé giàu lịng u thương và sống rất tình nghĩa. Việt gan góc và dũng cảm. Và hơn ai hết, trong Việt cũng là tình yêu quê hương, đất nước, ln sục sơi với dịng máu truyền thống của cách mạng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Bằng ngòi bút sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ vừa tả thực, vừa lãng mạn nhà văn đã xây dựng một gia đình Nam Bộ có sự nối tiếp thế hệ. Chính sức mạnh sinh ra từ tình thương và nỗi đau đã giúp những con người trong gia đình đặc biệt thế hệ sau nhanh chóng trưởng thành sẵn sàng mang trên vai trách nhiệm của gia đình và sức mệnh thiêng liêng lịch sử. Việc xây dựng nhân vật có sự tiếp nối thế hệ là cách nhà văn ca ngợi sức mạnh tư tưởng, lí giải cội nguồn tạo nên chiến thắng.

<b>Phân tích về nhân vật Việt </b>

Là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ – Nguyễn Thi quê ở miền Bắc những gắn bó sâu nặng với nhân dân miền Nam. Những tác phẩm văn xuôi, truyện ngắn của ông đều xuất phát từ thực tế nóng bỏng của cuộc chiến đấu ác liệt ở chiến trường miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông được viết trong những ngày của tình thế đấu tranh ác liệt của nhân dân miền Nam. Tiêu biểu trong tác phẩm là hình ảnh của nhân vật Việt kiên cường sắc son với cách mạng, sống nghĩa tình với quê hương.

Tác giả sử dụng bút pháp miêu tả nhân vật Việt vô cùng phong phú và sâu sắc trong tình huống anh bị thương nằm một mình tại chiến trường, sức khỏe yếu có lúc tỉnh có lúc thiếp đi vì đau đớn. Trong lúc thiếp đi anh nhớ lại, hồi tưởng lại những ký ức về gia đình, về quê hương của mình và về chính những đồng đội đã gắn bó chiến đầu với mình ở chiến trường khơng biết mọi thứ giờ đang diễn ra như thế nào, gia đình, quê hương và những người đồng đội chiến đấu của Việt nữa.

Trước hết Việt là người có nét riêng của một cậu con trai mới lớn luôn hồn nhiên, trong sáng và ngây thơ, tuy kém người chị của mình có một tuổi nhưng Việt rất hay tranh giành với người chị của mình. Lúc cịn nhỏ thì tranh xâu ếch chị bắt được, cịn khi lớn lên thì Việt tranh công bắt giặc với chị. Trong lúc đồi đi tịng qn Việt xưng là tơi: “Tơi 18 tuổi cịn chị tơi 19”, đây khơng phải là một lời khai thông thường mà là lời ngầm khẳng định của Việt với cán bộ là chị của cậu chỉ hơn cậu có một tuổi thơi, như muốn tranh giành với chị ngay cả việc đi tòng quân đánh giặc. Trước đêm đi tịng qn Việt có những cảm xúc trái ngược với người chị của mình, trong khi chị Chiến lo lắng đến không ngủ yên được thì Việt “phó mặc cho chị lo toan” điều này cho thấy Việt vẫn còn là một đứa trẻ ăn chưa no, ngủ chưa tới. Chị Chiến bảo “phải viết thư báo cho chị hai nhưng Việt lại có cách nghĩ khác và nói với chị rằng: “sắp đi rồi còn bày đặt thư từ”. Chị Chiến lo toan cơng việc ở nhà, cịn Việt nghĩ đó là những việc nhỏ nhặt không đáng để lo lắng chút nào cả mà việc đáng lo nhất của Việt là việc lập cơng ngồi chiến trường và trả được mối thù cho ba má. Khi được chị hỏi về việc nhà thì Việt khước từ và nới chị tính sao thì tính. Tuy đã được nhận và tham gia là một chiến sĩ giải phóng quân nhưng Việt vẫn mang tâm hồn của một đứa trẻ hết sức ngây thơ và trong sáng.Hành trang mang theo khi vào quân ngũ của Việt là lá thun mà chú Năm làm cho Việt bằng chạc của cây ổi, đây cũng là món đồ chơi gắn liền với tuổi thơ của Việt, Việt mang theo ký ức về tuổi thơ tươi đẹp của mình vào chiến trường như để làm động lực cho những ngày tháng chiến đấu sau này. Việt là một cậu bé ngây thơ và giàu tình yêu thương với má của mình, trong đêm trước ngày đi tịng qn Việt liên tưởng và nghĩ về má của mình, cậu hình dung má đang bay cùng với những con đom đóm trên bàn thờ. Việt nghĩ đến hồn cảnh mình phải nằm lại chiến trường, thứ cậu sợ nhất không phải là sợ giặc mà cậu thấy sợ bóng tối bao quanh và những con ma sẽ xuất hiện, cậu thấy sợ ma lắm. Dù đã trở thành một anh chiến sĩ giải phóng quân nhưng Việt vẫn mang theo những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ vào chiến trường đó là lá thun, là những nỗi sợ thời thơ ấu là sợ bóng tối là sợ ma, Việt chỉ muốn nhỏ mãi để được sống trong u thương của gia đình, được sống trong vịng tay của chị Chiến. Nguyễn Thi xây dựng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhân vật Việt nhằm khắc họa tính cách, tâm hồn vô cùng hồn nhiên và trong sáng của nhân vật Việt. Từ tính cách ngây thơ, hồn nhiên của Việt đã đem lại có người đọc niềm cảm phục, ngưỡng mộ khi mang trong mình tâm hồn trẻ thơ trong sáng nhưng có một tầm vóc vĩ đại và lớn lao biết chừng nào.Việt được tác giả Nguyễn Thi khắc họa còn là một chàng trai rất giàu tình cảm, khi một mình nằm ở chiến trường có những cảm nhận về thế giới xung quanh mình, khi mà mắt đã mà khơng nhìn thấy được, bàn tay khơng cịn cảm giác do bị dập nát, cả người cậu thì đau đớn biết bao lần thức dậy xong lại ngất đi bao giờ cũng không biết nhưng cậu vẫn cảm nhận được thế giới xung quanh. Cậu nghe thấy âm thanh kêu dậy trong đêm mưa, nghe thấy tiếng chim gù, tiếng gáy của những chú dế “u, u,…” cao vút. Việt cảm nhận được và phần nào hình dung ra bầu trời đêm thăm thẳm. Qua đây ta không chỉ thấy Việt là một người có tâm hồn nhạy cảm yêu thiên nhiên, thế giới xung quanh mà cậu còn là một người chiến sĩ anh dũng, quả cảm, chiến đấu với kẻ thù một cách kiên cường và gan dạ cho dù là bị thương nhưng cậu vẫn cố gắng tỉnh để tìm kiếm đồng đội của mình, cho đồng đội đến cứu mình.

Qua việc xây dựng thành công nhân vật Việt tác giả Nguyễn Thi thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn và tình cảm của người dân Nam Bộ vơ cùng tình nghĩa, trong sáng, trung hậu đồng thời cũng bền bỉ, sắc son với Tổ quốc với cách mạng.

<b>Phân tích nhân vật Chiến </b>

Nguyễn Thi là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông được mệnh danh là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hiện thực nóng bỏng và ác liệt của mặt trận miền Đông Nam Bộ luôn là đề tài nóng bỏng trong các sáng tác của ông. “Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông viết về đề tài và mảnh đất này. Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” được sáng tác năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc đang bước vào thời kì cam go, quyết liệt. Tác phẩm viết về câu chuyện của những đứa con trong một gia đình để khái quát câu chuyện đau thương mà anh hùng của cả một dân tộc. Tác phẩm được đưa vào tập “Truyện và ký”, xuất bản năm 1968.

Nhan đề “Những đứa con trong gia đình” mang ý nghĩa sâu xa. Nguyễn Thi đã xây dựng được những nhân vật trong một gia đình lớn – gia đình cách mạng. Các thành viên trong gia đình ấy gắn bó với nhau trong tình cảm ruột thịt sâu nặng. Người nào cũng có những nét riêng, không thể lẫn nhưng lại cùng mang những nét thống nhất về bản chất. Đó là lịng căm thù giặc sâu sắc, gan góc, dũng cảm trong chiến đấu, khao khát được đánh giặc cứu nước; giàu nghĩa tình, thủy chung son sắt với gia đình, quê hương và cách mạng.

Truyện “những đứa con trong gia đình” được kết cấu theo những đợt hồi tưởng của người lính trẻ tên Việt bị trọng thương, thất lạc đồng đội trong mấy ngày đêm. Diễn biến truyện hết sức linh hoạt, xáo động không gian lẫn thời gian, đan chéo quá khứ với hiện tại, trong đó cùng với nhân vật Việt, nhân vật Chiến hiện lên đầy đủ các nét về tính tình, tình cảm và tinh thần chiến đấu.Giữa những tháng năm điêu tàn trong khói lửa, nhân dân ta phải tắm trong bể máu tội ác của kẻ thù ,Chiến hiện lên đúng như hình tượng người phụ nữ miền nam anh dũng, kiên cường trong kháng chiến. Người phụ nữ đã xuất sắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng tám chữ vàng :” anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Nam bộ chính là miền đất điển hình của những người phụ nữ ấy mà trong tác phẩm của mình Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi như :” Chị Út Tịch” trong tác phẩm “Người mẹ cầm súng”… nhân vật Chiến trong truyện ngắn “Những đứa con

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

trong gia đình “. Có thể nói Nguyễn Thi là một trong những nhà văn thành cơng nhất khi viết về hình tượng người phụ nữ Nam bộ ” giỏi việc nước, đảm việc nhà ” trong cuộc kháng chiến chống Mĩ anh dũng, kiên cường trước kẻ thù, nhân hậu đảm đang trong gia đình. Nhân vật Chiến cũng vậy, ba má đều chết trong chiến tranh, Chiến đã thay má nuôi nấng và dạy dỗ các em không những vậy Chiến cịn tham gia du kích từ khi cịn nhỏ, hăng hái tòng quân giết giặc.Cũng như nhân vật Việt, Chiến sinh ra và lớn lên trong mối thù nhà, nợ nước: ông nội, ba má đều chết trong chiến tranh. Ba của Chiến bị kẻ thù chặt đầu, má Chiến đã mang rổ đi đòi đầu chồng. Chính bà cũng chết khi đi lấy đầu đạn làm thuốc súng cho du kích. Một hồn cảnh éo le, bất hạnh Chiến phải thay ba má trông nom các em. Chính trong cái hồn cảnh này càng hun đúc thêm tinh thần cách mạng, lòng căm thù giặc của Chiến cũng vì thế mà tính cách điển hình của người phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam Bộ nói riêng càng ăn sâu vào trong tiềm thức của chị.

Chiến là một cô gái 19 tuổi được thể hiện với nhiều nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam một thời đánh Mĩ. Trước hết, đó là vẻ đẹp trong đời thường. Chị Chiến mang cái vẻ đẹp kiểu Út Tịch, một vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Nam Bộ mà Nguyễn Thi vẫn hằng ưa thích: hồn nhiên, chất phác, tần tảo, biết lo toan việc nước, việc nhà trọn vẹn mọi bề trước sau, đánh giặc thì xơng xáo, gan góc, dũng cảm mà trở về với cuộc sống thường nhật lại rất giàu tình cảm và lịng u thương. Chị Chiến 19 tuổi đơi lúc tính tình cịn trẻ con, vẫn cịn tranh giành cơng lao bắt ếch với em, tranh đi bộ đội với em. Cơ đã có cái dun dáng của một thiếu nữ mới lớn: bịt miệng cười khi chú Năm cất tiếng hị, thích soi gương và ngắm mình trong gương. Chị Chiến rất thương ba mẹ và các em.

Trong kí ức của Việt, chị chiến như là sự hiện thân, sự kế tục của má. Chị Chiến cũng mang vóc dáng của mẹ mình: “hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy nắng…, thân người to và chắc nịch”. Đặc biệt là cái đêm hai chị em sắp xa nhà đi bộ đội. Phải tự mình đứng ra lo liệu việc nhà, thu xếp để cùng Việt lên đường, Chiến mới bộc lộ hết tính cách người lớn, đảm đang, tháo vát, biết thay mẹ quán xuyến, sắp đặt mọi việc trong nhà đâu ra đấy, từ việc em út, nhà cửa, ruộng vườn cho đến cả cái giường, ván và nơi gửi bàn thờ ba má. Chưa bao giờ Việt lại thấy chị Chiến liệu việc nhà giống như má vậy. “Chà, chị Chiến bữa nay nói in hệt như má vậy…” Chính Chiến đêm ấy cũng thấy mình như đang hòa vào mẹ: “Tao cũng lựa ý nếu má cịn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Cho nên khơng phải ngẫu nhiên đến sáng hơm sau, khi nghe Chiến trình bày lại sự sắp đặt của mình, chú Năm đã phải khen: “Khơn, việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế đặng bề nước non…” Trước ngày lên đường nhập ngũ, Chiến đã cùng Việt khiêng bàn thờ ba má gửi sang nhà chú Năm. Có thể nói, đoạn văn miêu tả hình ảnh hai chị em khiêng bàn thờ má đi gửi là đoạn văn hay nhất của tác phẩm trong khơng khí thiêng liêng, xúc động. Hình ảnh này có ý nghĩa tượng trưng, thể hiện sự trưởng thành của hai chị em có thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sơng của mình trong dịng sơng truyền thống gia đình. Hơn thế nữa, hình ảnh này cũng nói lên một điều: thế hệ sau sẽ cứng cáp, trưởng thành và có thể đi xa hơn thế hệ trước. Có thể nói rằng nhân vật Chiến đã được thể hiện với những nét đẹp truyền thống muôn đời của người phụ nữ Việt Nam. Chiến không chỉ lo cho ngày giỗ, lo chuyển bàn thờ cho má mà trong mọi chuyện chị ấy đều đã hỏi ý kiến của Việt bởi Việt là con trai lớn trong gia đình. Người chị ấy lại có nét bộc trực, chất phác đồng thời cũng rất đằm thắm trong việc biểu hiện tình cảm khi nói với Việt: “Em có ừ khơng ? Rồi em cũng ừ nghen,…” Trước lúc lên đường tòng quân, Chiến như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, già dặn hơn nhưng cũng lại đằm thắm hơn.

Bên cạnh những vẻ đẹp đời thường thì Chiến cịn mang những phẩm chất của người anh hùng, dũng cảm. So với Việt, Chiến chỉ hơn Việt một tuổi mà đã người lớn hơn hẳn Việt. Chiến cũng gắn bó với lớp người

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

đi trước nhiều hơn. Chị có thể bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của gia đình. Khơng chỉ giống má, Chiến cịn học được cả cách nói “trọng trọng” của chú Năm. Nếu nói theo cách nói của chú Năm, ví truyền thống cách mạng của gia đình là một dịng sơng và mỗi con người là khúc sơng của dịng sơng ấy thì so với lớp người đi trước, Chiến là một khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước. Đấy cũng là chỗ để Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất chồng đã khơng có dịp nào được cầm súng, cịn Chiến đã được đi bộ đội để đánh giặc trả thù nhà với một quyết tâm như dao chém đá “nếu giặc cịn thì tao mất”. Và Chiến đã lập được chiến cơng lớn, bắn chìm tàu chiến dịch trên sông Định Thủy, trở thành một tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân tỉnh Bến Tre… Có thể nói tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” đặc biệt thành cơng trong xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong một gia đình nơng dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, chiến đấu son sắt thủy chung với cách mạng. Tác phẩm được xem là truyện ngắn viết hay nhất về người nông dân Nam Bộ với những thành công trong ngôn ngữ, bút pháp, giọng điệu, nghệ thuật trần thuật đặc sắc, nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

Nhà văn Nguyễn Thi đã thực sự thành cơng khi làm nổi bật được hình tượng nhân vật Chiến qua các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” và nhân vật Chiến, chúng ta hiểu sâu thêm về lịch sử dân tộc. Mỗi trang sử luôn gắn liền với những mất mát hi sinh, với những chiến công thầm lặng. Tự hào về lịch sử, tri ân với lịch sử, nó nhắc nhở mỗi chúng ta phải không ngừng nỗ lực phấn đấu để viết tiếp trang sử ấy, trang sử về đất nước Việt Nam hịa bình, thịnh vượng đang từng ngày thay da đổi thịt.Nhân vật Chiến nói riêng và truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi nói chung sẽ cịn in đậm trong tâm trí nhiều độc giả hôm nay và ngày mai.

<b>Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt </b>

Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Trong đó, màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt gửi gắm bài học rất giá trị.

Trương Ba là một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con. Nhưng vì thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà Trương Ba đang khỏe mạnh lại bị chết oan. Vì q mến Trương Ba, Đế Thích (một vị tiên nổi tiếng cao cờ) đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền tối: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt địi chồng, ngay đến gia đình của ơng cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân ơng cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Điều đó khiến ơng cảm thấy vơ cùng, đau khổ và chỉ muốn thốt khỏi xác hàng thịt ngay lập tức. Cuộc đối thoại bắt đầu khi hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt.

Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn: “Không! Không! Tôi không muốn sống như này mãi! Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”. Khi nghe những lời đó, ngay lập tức, xác hàng thịt đã lên tiếng: “Vơ ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tơi chỉ là thân xác”. Lời nói của xác hàng thịt khiến Trương Ba cảm thấy ngạc nhiên: “A, mày cũng biết nói kia à? Vơ lí, mày khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

thể biết nói… ” và phủ nhận sức mạnh của thể xác - “khơng có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u, đui mù”, “khơng có tư tưởng, khơng có cảm xúc”.

Xác hàng thịt đưa ra những lí lẽ để chứng minh rằng hồn khơng thể cịn ngun vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến khi đứng bên vợ hàng thịt đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại; đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn tiết canh, cổ hũ, khấu đi…; đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi… Khơng chỉ vậy, xác hàng thịt cịn tiếp tục khẳng định: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ơng cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ơng được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện”. Để rồi cuối cùng, hồn Trương Ba phải thốt lên đầy bất lực: “Lí lẽ của anh thật ti tiện”, rồi lại phải bần thần nhập vào xác.

Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất. Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: Đó là thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiết lập mối quan hệ hồ hợp, gắn bó giữa chúng. Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tơ đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hịa, khơng thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường… ở mỗi con người. Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào Xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cơ đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch là mâu thuẫn khơng những khơng được giải quyết mà cịn được đẩy lên đến một mức cao hơn.

Như vậy, mà đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt được Lưu Quang Vũ xây dựng thật độc đáo, gửi gắm bài học ý nghĩa.

<b>Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân </b>

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch tài năng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Qua Hồn Trương Ba, da hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người thân đã góp phần thể hiện được điều đó.

Vở kịch có nội dung chính kể về nhân vật, Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền tối: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ơng cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Trước nguy cơ bị tha hóa, ơng đã quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, cịn mình thì chấp nhận cái chết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân diễn ra ngay sau đoạn đối thoại của hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt. Đối với người vợ, Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã dần trở thành một kẻ vơ tâm, vơ tình, chỉ biết đến bản thân, một kẻ vị kỷ, đáng trách. Bà ốn trách chồng, có ý định nơi khác: “ Tơi nói thật đấy... ơng Trương Ba ạ, tơi đã nghĩ kĩ: Có lẽ tơi phải đi...Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt... (rưng rưng). Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt... Còn hơn là thế này…”.

Rồi đến cái Gái, đứa cháu mà ông hết mực yêu thương. Giờ đây, nó cũng khơng chịu nhận ơng mình: “Tơi khơng phải là cháu ơng... Ơng nội tơi chết rồi”. Cái Gái u q ơng bao nhiêu thì bây giờ nó khơng thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ơng nội nó. Nó hận ơng vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cư Tị trong cơn sốt mê man vẫn cứ khóc. Với nó, “ơng nội đời nào thơ lỗ, phũ phàng như vậy”. Vì q u thương, tôn thờ ông nội, cái Gái thà tin rằng ông nội đã chết. Chứ nó cũng khơng chấp nhận một người ông đã thay đổi quá nhiều.

Cuối cùng là cuộc đối thoại với người con dâu. Hồn Trương Ba cảm thấy được an ủi phần nào khi có người đồng cảm với mình. Chị cảm thấy đau đớn, xót xa trước hồn cảnh của hồn Trương Ba: “Hơn xưa nữa, thưa thầy. Hơn cả hôm thầy mới từ nhà người hàng thịt trở về. Bởi con biết giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm…”. Nhưng chị cũng sợ hãi, lo lắng trước sự thay đổi của bố chồng: “Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Mỗi người trong gia đình từ vợ, con dâu đến cháu gái - họ ở những vị trí khác nhau. Nhưng họ đều nhận ra sự thay đổi của Trương Ba. Điều đó đã khiến cho chính bản thân hồn Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ơng. Tóm lại, với nghệ thuật xây dựng tình huống xung đột kịch độc đáo, ngôn ngữ đối thoại đậm chất triết lí, độc thoại nội tâm giúp bộc lộ tính cách nhân vật…, Lưu Quang Vũ đã giúp người đọc cảm nhận được những quan niệm nhân sinh sâu sắc.

<b>Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích</b>

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua bi kịch của Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba.

Do phải sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia, nay phải sống mượn, lệ thuộc nên bị nhiễm độc bởi sự tầm thường, dung tục của xác thịt thô phàm. Thấm thía nghịch cảnh của bi kịch sống khơng được là chính mình và bi kịch bị chính những người thân yêu cự tuyệt – Trương Ba đã quyết định châm nhang gọi Đế Thích để quyết chết trả lại sự trong sạch, vẹn nguyên của linh hồn.“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng dữ dội ở Trương Ba.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Thực ra cuộc đấu tranh đó đã được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hồn thiện nhân cách. Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép vế, khơng khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba. “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, khơng thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.“Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi muốn được là tơi tồn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngồi: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác. Đối lập bên trong là “bên ngồi” – xác thịt thơ phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai khơng thể hịa hợp bởi khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.“Tơi muốn được là tơi tồn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hịa hợp. “Tồn vẹn” nghĩa là phải có sự hịa hợp giữa bên trong và bên ngồi, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và linh hồn. Khơng thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được. Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, khơng thuận theo tạo hóa, sống mà khơng được là chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.

Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy vì “dưới đất trên trời đều thế cả”. Đế Thích chỉ ra rằng khơng chỉ Trương Ba đang sống trong cảnh trong ngoài bất nhất, mà mọi người đều như thế cả. Vì vậy Đế Thích khuyên Trương Ba đừng cố gắng làm viên bi lăn ngược vòng mà hãy chấp nhận, hãy biết cách thỏa hiệp, học cách chấp nhận.

Đế Thích đã lấy tâm lý đám đông để áp đặt lên quan điểm sống của mình. Đế Thích lấy dẫn chứng về chính ông ta và Ngọc Hoàng cũng không thể sống là chính mình: “Ở bên ngồi, tơi đâu có được sống theo như những gì tơi nghĩ ở bên trong. Mà cả Ngọc Hồng nữa. Chính người lắm khi cũng phải khn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hồng”. Như vậy, theo Đế Thích thì: “khơng ai được sống là chính mình”. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Bởi sống có nghĩa là tồn tại, cịn tồn tại như thế nào thì cịn do hồn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải quy thuận. Đây là quan niệm sống sai lầm đáng lên án. Trương Ba đưa ra sự so sánh đồ đạc, vật chất và bản thân. “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Đồ đạc, của cải vật chất mượn của người khác đã là chuyện khơng nên; cịn sống nhờ, sống gửi, sống ký sinh vào thân xác của kẻ khác là điều xấu hổ đáng lên án. Trương Ba thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tơi sống, nhưng sống như thế nào thì ơng chẳng cần biết!”. Lời thoại đã chỉ trích quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sống là tồn tại cịn tồn tại như thế nào thì khơng cần biết. Với Trương Ba, sống không chỉ là sự tồn tại sinh học mà sự tồn tại ấy còn phải là sự tồn tại có ý nghĩa. Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của Trương Ba – đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp. “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tơi trả lại cho anh ta. Ơng hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Nhưng Đế Thích bác bỏ vì Đế Thích cho rằng tâm hồn đáng quý của Trương Ba không thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

thay thế cho phần hồn tầm thường của anh hàng thịt. Trương Ba lập luận rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Để khẳng định với quyết tâm của mình Trương Ba trở nên mạnh mẽ: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sơng hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tơi chẳng cịn, xác anh hàng thịt cũng mất”.

Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và để “được sống là chính mình” lúc này, Trương Ba khơng có con đường nào khác là cái chết. Vì chỉ khi chết đi, ơng mới thực sự là chính mình, mới hồn ngun được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết chính là phục sinh trong trái tim của những người u q ơng.

Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này của Đế Thích một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ đơn giản, phiến diện – sống là sự tồn tại. Thực chất của lối suy nghĩ này là xuất phát từ chính cuộc sống của Đế Thích. Tiên phật thánh thần chẳng bao giờ chết cho nên sống là để hưởng thụ. Lối sống này ảnh hưởng trực tiếp lên tư tưởng ấy dẫn đến những sai lầm của Đế Thích.

Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ơng cho tơi suy nghĩ một lát đã”. Sự phân vân của Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn quý giá hơn. Sự phân vân này cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ơng hình dung thấy trước mắt là cuộc sống tương lai của mình trong cơ thể của một thằng bé lên mười: “Có khi tơi cịn phải sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào, khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên mười…”.

Trương Ba thấy mọi sự vô lí nhất là khi ơng nhìn thấy được sự cơ đơn của bản thân khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tơi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó chính là tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị” và cũng chính cái chết của cu Tị cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến Trương Ba trở nên mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích “Ơng hãy cứu nó! Ơng phải cứu nó!… vì con trẻ… Ơng hãy giúp tơi lần cuối cùng”.

Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Ơng cũng khun nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống cịn Trương Ba trở về với chính mình chứ khơng còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.

Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người yêu mến ông.

Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây

</div>

×