Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 183 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

h

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI </b>

<b>LÊ MINH THẢO </b>

<b>QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG </b>

<i><b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC </b></i>

HÀ NỘI - 2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI </b>

<b>LÊ MINH THẢO </b>

<b>QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG </b>

<b>Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính </b>

<i><b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC </b></i>

<b>NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng 2. PGS.TS. Phạm Hữu Nghị </b>

HÀ NỘI - 2024

HÀ NỘI - 2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trong luận án đảm bảo tính chính xác và được trích dẫn nguồn trung thực. Các kết luận khoa học của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

<b>TÁC GIẢ LUẬN ÁN </b>

<b> Lê Minh Thảo</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN </b>

1. As Asen: độc tố Asen

2. BOD Biological Oxygen Demand: Nhu cầu oxy tối thiểu 3. BVMT Bảo vệ môi trường

4. CCN Cụm công nghiệp

5. Cd Cadimi: kim loại Cadimi

6. CITES Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora: Công ước về Bn bán quốc tế các lồi động vật, thực vật hoang dã có nguy cơ diệt chủng 7. Cl Clo: nguyên tố hoá học Clo

8. COD Chemical oxygen demand: nhu cầu ơxy hóa học

9. CPTPP Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership: Hiệp định đối tác Tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương

10. CTR Chất thải rắn

11. Cu Copper: nguyên tố hoá học đồng.

12. DDT Dichloro-Diphenyl-Trichloroethane: chất hữu cơ cao phân tử tổng hợp, có chứa clo

13. DO Dissolved Oxygen: lượng dưỡng khí oxy hịa tan trong nước 14. ĐTM Đánh giá tác động môi trường

15. EC European Commission: Uỷ ban châu Âu

16. EVFTA European-Vietnam Free Trade Agreement: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu

17. Fe Ferrum: nguyên tố hoá học sắt

18. GlobalGAP Global Good Agricultural Practice: Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu

19. GRDP Gross regional domestic product: Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

20. HĐND Hội đồng nhân dân 21. KCN Khu cơng nghiệp

22. Mn Mangan: ngun tố hố học Mangan 23. NH4+-N Hàm lượng amoni tổng số

24. NO2--N Nitơ dioxide: chất trung gian trong q trình tổng hợp cơng nghiệp của axit nitric

25. ODA Official Development Assistance: Hỗ trợ phát triển chính thức 26. PAPI The Viet Nam Provincial Governance and Public

Administration Performance Index:

Bộ chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính cơng cấp tỉnh 27. Pb Plumbum: nguyên tố hoá học chì

28. PEPI Provincial Environmental Protection Index:

Bộ Chỉ số đánh giá kết quả bảo vệ môi trường cấp tỉnh 29. PM10 Particulate Matter: Các hạt bụi có kích thước đường kính

từ 2.5 tới 10 micromet

30. PO43--P Ortho-Phosphat: một loại Photpho vô cơ 31. PTBV Phát triển bền vững

32. QCCP Quy chuẩn cho phép 33. QCVN Quy chuẩn Việt Nam 34. QLNN Quản lý nhà nước 35. QPPL Quy phạm pháp luật

36. TN&MT Tài nguyên và Môi trường 37. TNHH Trách nhiệm hữu hạn

38. TSP Natri phosphat: hoá chất Natri phosphat 39. TSS Total suspended solids: tổng chất rắn lơ lửng 40. UBND Uỷ ban nhân dân

41.UNDP United Nations Development Programme: Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

42. UNEP United Nations Environment Programme: Chương trình mơi trường Liên hiệp Quốc

43. VietGAHP Vietnamese Good Agricultural animal husbandry: Thực hành chăn nuôi tốt ở Việt Nam

44. VietGAP Vietnamese Good Agricultural Practices: Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam 45. Zn Zinc: Nguyên tố kẽm

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Bảng 3.3. Bảng tổng hợp ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp Bảo

vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn 2018 - 2022 <sup>107 </sup> Bảng 3.4: Tổng hợp kết quả xử lý vi phạm pháp luật về Bảo vệ môi

trường của lực lượng Công an tỉnh Hải Dương giai đoạn 2018 -2022 <sup>112 </sup> Bảng 3.5: Bảng tổng hợp số liệu thực trạng hạ tầng các cụm công

nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Hải Dương <sup>119 </sup>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU ... 1 </b>

<b>Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ... 8 </b>

<b>1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và nhận xét về tình hình nghiên cứu ... 8 </b>

<b>1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án ... 21 </b>

<b>Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG ... 31 </b>

<b>2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước về môi trường ... 31 </b>

<b>2.2. Nguyên tắc, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước về môi trường ... 48 </b>

<b>2.3. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về môi trường ... 52 </b>

<b>2.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về môi trường ... 63 </b>

<b>Chương 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG ... 70 </b>

3.1. Các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động tới quản lý nhà nước về môi trường <b>tại tỉnh Hải Dương ... 70 </b>

3.2. Khái quát chung về tổ chức bộ máy và đặc điểm tình hình quản lý nhà nước về <b>mơi trường tại tỉnh Hải Dương ... 76 </b>

3.3. Những kết quả đã đạt được trong thực hiện nội dung quản lý nhà nước về môi <b>trường tại tỉnh Hải Dương và nguyên nhân ... 83 </b>

3.4. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện nội dung quản lý nhà nước về môi trường <b>tại tỉnh Hải Dương và nguyên nhân ... 114 </b>

<b>Chương 4. <small>ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG</small> ... 133 </b>

4.1. Định hướng bảo đảm và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường tại <b>tỉnh Hải Dương ... 133 </b>

4.2. Các giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi <b>trường từ thực tiễn tỉnh Hải Dương ... 140 </b>

<b>KẾT LUẬN ... 158 </b>

<b>DANH MỤC CÔNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ... 162 </b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 163 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Mơi trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của con người. Môi trường tạo ra không gian sinh sống, cung cấp nguồn tài nguyên, là nơi chứa đựng và hoá giải các chất thải do con người tạo ra, làm giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên đối với con người, lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gien, các loài động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên, tạo nên cảnh quan có giá trị thẩm mỹ góp phần vào sự phát triển tâm linh và trạng thái tinh thần của con người… Do đó, quản lý mơi trường để bảo vệ, duy trì sự cân bằng của mơi trường, giữ gìn mơi trường trong lành có ý nghĩa sống còn đối với nhân loại, đặc biệt trong bối cảnh ngày nay, khi môi trường trái đất đang gánh chịu những thách thức nghiêm trọng như: biến đổi khí hậu, nhiệt độ trái đất tăng, tầng ozon bị phá huỷ, băng tan, nước biển dâng, sa mạc hóa... đe dọa tính bền vững trong phát triển của nhân loại. Để phát triển bền vững cần có chiến lược bảo vệ mơi trường, trong đó quản lý nhà nước về môi trường thực hiện vai trò kiến tạo thể chế phát triển bền vững thơng qua việc thiết lập và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng xanh hơn và bảo đảm công bằng xã hội trong thụ hưởng quyền được sống trong môi trường trong lành. Tuy nhiên, do tính phức tạp, khó giải quyết của vấn đề nên bảo vệ môi trường luôn là vấn đề nóng được đặt ra trên quy mơ tồn cầu, quốc gia, địa phương; là chủ đề quan trọng được đề cập trong các nghiên cứu khoa học.

Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về môi trường mặc dù được Đảng quan tâm lãnh đạo, nhà nước tăng cường quản lý được đặt ra ở tầm chiến lược quốc gia, thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ mơi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước [26], Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường [27]. Hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường cũng khơng ngừng được hồn thiện, quy định các phương thức, cơ chế bảo vệ môi trường theo hướng phù hợp hơn với thực tiễn trong nước và chuyển hóa các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu như: các Luật Bảo vệ mơi trường năm 1993, năm 2005, năm

<i>2014, năm 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2023), Luật Đất đai năm 1993, 2003, 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2024), Luật Tài nguyên nước năm 1998, Luật Đa dạng sinh </i>

học năm 2008, Luật Khống sản năm 2010, Luật Lâm nghiệp năm 2017… Chính vì lẽ đó, trong những năm gần đây quản lý nhà nước về môi trường có những chuyển biến rõ nét: từng bước khắc phục những hạn chế; kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động khai thác tài nguyên; hoạt động xử lý nước thải, chất thải rắn được tăng cường thực hiện và giám sát; phát hiện và xử lý kịp thời nhiều vụ việc, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; công tác bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng được quan tâm hơn [28, tr.50] đã góp phần hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm các thành phần môi trường, nhiều hệ sinh thái rừng trước đây bị suy thoái đã được ngăn chặn và phục hồi… Tuy nhiên, do hệ quả của mơ hình tăng trưởng kinh tế dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên [65] cùng với tác động của q trình biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp đã tiếp tục làm ra tăng các tác nhân gây tổn hại môi trường. Quản lý nhà nước về môi trường tiếp tục đối diện với nhiều thách thức và bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: Quá trình khai thác tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả quản lý, sử dụng chưa cao. Công tác quản lý và xử lý chất thải rắn đơ thị cịn hạn chế. Mơi trường nước ở một số đô thị bị ô nhiễm. Chất lượng khơng khí ở các đơ thị lớn, ở khu cơng nghiệp bị suy giảm. Rác thải ở khu vực nông thôn, ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, các nhà máy sản xuất công nghiệp gia tăng [28, tr.74] … gây tổn hại tới sức khỏe của người dân, là thách thức đối với quá trình chuyển đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, từ mơ hình phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế tri thức, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh… làm gia tăng các xung đột xã hội liên quan đến mơi trường. Vì vậy, cần tiếp tục có những nghiên cứu để đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế nêu trên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>Tại tỉnh Hải Dương, các vấn đề môi trường và thực trạng quản lý nhà nước </i>

về môi trường tương đối điển hình ở nước ta. Với lợi thế địa lý nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong giai đoạn 2016 – 2020, Hải Dương đã đạt được những thành tựu về kinh tế có ý nghĩa quan trọng: Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) tăng bình quân 8,1%/năm (theo giá cố định năm 2010), cao hơn giai đoạn 2010 - 2015 (7,7%/năm). Năm 2020, GRDP của Hải Dương ước đạt 134.000 tỷ đồng (gấp 1,6 lần so với năm 2015, đứng thứ 11 trong tồn quốc). GRDP bình quân đầu người đạt 69,8 triệu đồng, tương đương khoảng 3.020 USD (đứng thứ 19 trong toàn quốc)... Cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, trên cơ sở phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế và dịch vụ: năm 2020, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chiếm 90,3% GRDP. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện có 14 khu cơng nghiệp, 58 cụm cơng nghiệp, 65 làng nghề, khoảng 18.595 doanh nghiệp đang hoạt động [103] với cơ cấu ngành nghề đa dạng như: dịch vụ thương mại, điện tử, hoá chất, dầy da, khai khống, chế biến nơng sản, luyện kim, xây dựng, nhiệt điện than... Trong đó nhiều ngành có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường như: khai khoáng, luyện kim, nhiệt điện than, hoá chất; cùng với q trình sản xuất nơng nghiệp sử dụng nhiều phân hoá học và thuốc bảo vệ thực vật. Vì vậy, Hải Dương cũng đang phải đối diện với những thách thức lớn về mơi trường: ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm nguồn nước, ơ nhiễm đất, thậm chí đã xuất hiện những điểm nóng về mơi trường ở một số huyện, thị xã trong tỉnh như: Kinh Mơn, Bình Giang, Cẩm Giàng...

Những vấn đề được phân tích ở trên đặt ra yêu cầu phải đánh giá lại toàn diện hoạt động quản lý nhà nước về môi trường để tiếp tục tìm ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về môi trường. Bởi vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Quản lý nhà nước về môi trường từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án </b>

<i><b>2.1. Mục đích nghiên cứu </b></i>

Luận án tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về môi trường và thực tiễn quản lý nhà nước về mơi trường tại tỉnh Hải Dương. Từ đó, đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

xuất các giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.

<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

<i>Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu và nhận xét về tình hình nghiên cứu </i>

để tìm ra các thành tựu và khoảng trống trong các nghiên cứu, từ đó xác định những vấn đề luận án cần nghiên cứu. Xây dựng cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án.

<i>Hai là, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về </i>

môi trường như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước về môi trường và cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về mơi trường.

<i>Ba là, đánh giá khách quan, tồn diện thực trạng quản lý nhà nước về môi </i>

trường tại tỉnh Hải Dương trên các phương diện kết quả đạt được và hạn chế bất cập, đồng thời phân tích các nguyên nhân của kết quả đạt được và hạn chế bất cập của quản lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương.

<i>Bốn là, đề xuất các giải pháp toàn diện, khả thi để bảo đảm và nâng cao </i>

hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương trong giai đoạn tới.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án </b>

<i><b>3.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường.

<i><b>3.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

Đề tài luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường tại tỉnh Hải Dương, trọng tâm trong khoảng thời gian từ năm 2018 đến năm 2022.

<b>4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án </b>

<i><b>4.1. Phương pháp luận </b></i>

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin khi giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

bảo vệ môi trường và đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội; giữa pháp luật bảo vệ môi trường với tư cách là kiến trúc thượng tầng với thực tiễn các hoạt động kinh tế - xã hội tác động tới môi trường với tư cách là cơ sở hạ tầng; mối quan hệ giữa hoạt động quản lý nhà nước về môi trường với hoạt động của các cơ sở kinh tế và người dân tác động tới mơi trường; giải pháp hồn thiện pháp luật và hệ thống quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam.

Đồng thời, Luận án cũng dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ mơi trường, đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về môi trường.

<i><b>4.2. Phương pháp nghiên cứu </b></i>

Trong quá trình triển khai luận án, nghiên cứu sinh sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như sau:

<i>- Phương pháp tổng hợp, hệ thống hoá: được nghiên cứu sinh sử dụng trong </i>

quá trình tổng hợp, hệ thống hố các tài liệu về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến nội dung đề tài luận án.

<i>- Phương pháp thống kê: trên cơ sở các số liệu trong các báo cáo, kết quả </i>

điều tra xã hội học của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức phi chính phủ tác giả thống kê, tổng hợp theo diễn biến trình tự thời gian dưới dạng các Bảng số liệu, dùng công cụ exel để xử lý số liệu, từ đó phản ánh thực trạng, diễn biến xu hướng các vấn đề môi trường và kết quả quản quản lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương.

<i>- Phương pháp phân tích: phương pháp này được nghiên cứu sinh sử dụng </i>

chủ yếu để phân tích những vấn đề lý luận và cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về môi trường. Để sơ đồ hóa các quan hệ tương quan, nhân quả của các biến số, các mối quan hệ bao gồm quan hệ giữa kinh tế và pháp luật, quan hệ nội tại giữa các yếu tố pháp lý trong xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường tại tỉnh Hải Dương, phương pháp phân tích được sử dụng cụ thể trong luận án như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

+ Phân tích các khái niệm: mơi trường, quản lý, quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về môi trường, quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo cách hiểu thông thường và dưới góc độ luật học để xác định giới hạn, phạm vi nghiên cứu…Việc phân tích các khái niệm nhằm rõ nội hàm, ý nghĩa, đặc điểm của các khái niệm, mô tả đối tượng nghiên cứu.

+ Phân tích các lý thuyết quản trị tốt; lý thuyết phát triển bền vững; lý thuyết quyền con người được sống trong môi trường trong lành… nhằm hình thành khung lý thuyết của luận án, tạo cơ sở cho việc đánh giá pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ quan quản lý nhà nước xem có phù hợp với các lý thuyết đó hay khơng, từ đó có cơ sở để đề xuất các giải pháp bảo đảm và tăng cường quản lý nhà nước về môi trường.

+ Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về mơi trường tại tỉnh Hải Dương nhằm nhận diện những kết quả và hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về mơi trường, từ đó có cơ sở để kiến nghị phương hướng và các giải pháp tăng cường quản lý về môi trường từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.

<i>- Phương pháp chứng minh: được sử dụng để chứng minh cho các nhận </i>

định, kết luận, chứng minh tính cần thiết, tính khả thi của các giải pháp kiến nghị. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong thực hiện các chương của luận án.

<b>5. Đóng góp mới về khoa học của luận án </b>

<i>Một là, về cách tiếp cận nghiên cứu: Luận án sử dụng cách tiếp cận đa ngành </i>

Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật kinh tế, quản lý nhà nước và chính sách cơng.

<i>Hai là, luận án tiếp tục bổ sung, hoàn thiện lý luận quản lý nhà nước về môi </i>

trường như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về môi trường.

<i>Ba là, luận án góp phần làm sáng tỏ thực tiễn quản lý nhà nước về môi </i>

trường tại tỉnh Hải Dương. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương. Các giải pháp đề xuất khơng chỉ tăng cường vai trị điều chỉnh và kiểm sốt của Nhà nước mà cịn đề cập giải pháp tăng cường vai trò của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư tham gia quản lý môi

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

trường. Đây là sự vận dụng cụ thể của lý thuyết quản trị tốt vào quản lý nhà nước

<i>về môi trường ở nước ta. </i>

<b>6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài </b>

- Luận án tiếp tục làm rõ hơn dưới góc độ Luật hiến pháp và Luật hành chính những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về môi trường. Trên cơ sở các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường hiện hành đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ môi trường tại tỉnh Hải Dương luận án đã đề xuất các khuyến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ mơi trường ở nước ta hiện nay nên có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng pháp luật.

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy luật học và quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường của tỉnh Hải Dương và các địa phương khác trong đánh giá thực trạng và áp dụng các giải pháp để tăng cường quản lý nhà nước về môi trường trong thời gian tới.

<b>7. Kết cấu của luận án </b>

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục chữ viết tắt, Danh mục bảng, Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án được thể hiện như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài luận án.

Chương 2: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về môi trường; Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương; Chương 4: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về môi trường từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN </b>

<b>1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và nhận xét về tình hình nghiên cứu </b>

<i><b>1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu </b></i>

Trên thế giới, quản lý nhà nước (QLNN) về môi trường được đặt ra ở Châu Âu và Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ 20, xuất phát chủ yếu từ những lo ngại trong việc bảo vệ vùng nông thôn ở Châu Âu, các vùng đất hoang dã ở Hoa Kỳ, cũng như những tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường tới sức khỏe của con người do hậu quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 2. Đối lập với quan điểm thống trị của chủ nghĩa tự do khi đó cho rằng tất cả các vấn đề xã hội, bao gồm cả vấn đề mơi trường, có thể và cần được giải quyết thơng qua thị trường tự do, hầu hết các nhà nghiên cứu về mơi trường thời kỳ đó đều khẳng định Chính phủ thay vì thị trường phải có trách nhiệm bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường (BVMT) cho con người.

Ở Việt Nam, so với thế giới, công tác BVMT được đặt ra muộn hơn do một thời kỳ dài nước ta bị chiến tranh chi phối. Trước khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế - xã hội chậm phát triển nên những vấn đề môi trường chưa xuất hiện nhiều, chưa trở thành vấn đề bức xúc của người dân và xã hội. Cùng với q trình Việt Nam đẩy mạnh cơng nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế theo quy mô chiều rộng và dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên các vấn đề môi trường ngày càng xuất hiện nhiều, gây hại cho sức khoẻ và đời sống của người dân, là thách thức lớn cho quá trình phát triển bền vững (PTBV) của đất nước, địi hỏi nhà nước và tồn xã hội phải quan tâm xử lý, từ đây các cơng trình nghiên cứu về BVMT nói chung trong đó có QLNN về môi trường được giới nghiên cứu quan tâm, trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trên cơ sở tra cứu các đề tài nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách chuyên khảo, các luận án, luận văn, các báo cáo khoa học, bài viết nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước, nghiên cứu sinh tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án theo các nhóm vấn đề sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<i>1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận quản lý môi trường, pháp luật môi trường làm cơ sở tiến hành quản lý nhà nước về môi trường </i>

Bàn về cơ sở khoa học quản lý mơi trường, được đề cập ở những khía cạnh khác nhau trong các nghiên của các tác giả: Lưu Đức Hải (2009)[38], Học viện Nông nghiệp (2021)[47], Phạm Thị Tính (2015)[105] Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2023)[121] đã chỉ ra các cơ sở QLNN về môi trường gồm: (i) Cơ sở triết học là sự thống nhất biện chứng giữa con người - xã hội - tự nhiên. (ii) Cơ sở chính trị là trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm thực hiện quyền con người được sống trong môi trường trong lành. (iii) Cơ sở pháp luật là pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về quản lý môi trường. (iv) Cơ sở kinh tế là sự điều tiết thông qua các công cụ kinh tế. (v) Cơ sở khoa học công nghệ là trình độ của khoa học cơng nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng xử lý các vấn đề tiêu cực của môi trường.

Về khái niệm QLNN về mơi trường, được đề cập trong các giáo trình của Đại học Đà Nẵng (2002)[29], Học viện Hành chính quốc gia (2004, 2010) [40],[41], Trường Đại học Luật Hà Nội (2011)[122], các luận án, luận văn QLNN bằng pháp luật về BVMT - từ thực tiễn tỉnh Hải Dương của Nguyễn Thị Hồng Linh (2015)[63], QLNN về BVMT ở tỉnh Trà Vinh của Huỳnh Minh Luân (2016)[64], QLNN về môi trường trên địa bàn tỉnh Quảng Bình của Hồng Văn Tuân (2017) [106], QLNN về môi trường từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng của Trần Viết Trung (2017) [118]... cho thấy hiện nay chưa có một định nghĩa QLNN về mơi trường thống nhất. Tuy nhiên, xét về chủ thể, các nghiên cứu đó đã chỉ ra QLNN về mơi trường xác định chủ thể quản lý là Nhà nước, bằng chức trách nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu công cụ QLNN về môi trường có các cơng trình tiêu biểu:

<i>Sách Các cơng cụ quản lý môi trường của Đặng Mộng Lân đã đề cập tới </i>

vai trị khơng thể thiếu của quản lý mơi trường đối với PTBV và phân tích các công cụ kỹ thuật quản lý môi trường như: thông tin môi trường, báo cáo hiện trạng môi trường, đánh giá tác động mơi trường, hạch tốn tài ngun thiên nhiên và môi trường [59].

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>Sách Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường – kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam do tác giả Đỗ Nam Thắng chủ biên đã nghiên </i>

cứu công cụ kinh tế trong quản lý ơ nhiễm mơi trường, phân tích mối quan hệ kinh tế - mơi trường: mơ hình đầu vào và đầu ra; chi phí – lợi ích; hiệu quả của việc áp dụng các công cụ kinh tế [110].

<i>Sách Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế của Nguyễn Thanh Lâm, đã </i>

phân tích các nguyên tắc của thị trường được sử dụng để điều hòa các xung đột giữa tăng trưởng kinh tế và BVMT. Công cụ kinh tế là điều kiện để các doanh nghiệp chủ động tuân thủ pháp luật BVMT thúc đẩy sản xuất sạch hơn. Đây là biện pháp đang được nhiều nước trên thế giới vận dụng và đã đem lại những kết quả khả quan [58].

<i>Luận án tiến sĩ Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường Việt Nam của tác giả Võ Trung Tín đã nghiên cứu các vấn đề lý luận </i>

nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường Việt Nam, theo đó các chủ thể gây ra ơ nhiễm mơi trường phải chịu chi phí cho việc khắc phục, cải thiện môi trường bị ô nhiễm. Trong trường hợp họ không thực hiện nghĩa vụ thì cần áp dụng các chế tài hành chính, hình sự [101].

<i>Luận án tiến sĩ Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong BVMT ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Ngọc Anh Đào, phân tích cơ chế tác động của </i>

công cụ kinh tế tới chi phí của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng sẽ thay đổi hành vi của con người theo hướng có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế được sử dụng gồm: chính sách tài trợ để quản lý và BVMT; các ưu đãi về thuế và phí [31].

<i>Bài nghiên cứu Vai trò của pháp luật về quản lý môi trường và các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý môi trường tại Việt Nam hiện nay của tác </i>

giả Lâm Văn Đoan đã phân tích các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật mơi trường gồm: mức độ hồn thiện của hệ thống pháp luật, quá trình tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan QLNN về môi trường, sự tham gia của Hệ thống chính trị và ý thức của người dân [35].

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích các cơng cụ QLNN về môi trường gồm: cơng cụ chính sách - pháp luật; cơng cụ kinh tế; cơng cụ kỹ thuật; vai trị cũng như cơ chế tác động của các công cụ trong quản lý mơi trường.

Ở nước ngồi, nghiên cứu những vấn đề lý luận quản lý môi trường, pháp luật môi trường làm cơ sở tiến hành quản nhà nước về mơi trường có một số cơng trình đáng chú ý sau:

<i>Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban </i>

Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland) năm 1987, đã đề cập tới vấn đề PTBV, trong đó quan niệm: PTBV là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai... Nói cách khác, PTBV phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội cơng bằng và mơi trường được bảo vệ, gìn giữ [169].

<i>Tiếp cận từ góc độ cơng lý mơi trường, trong cuốn sách Unequal Protection: Environmental Justice and Communities of Color của tác giả Bullard, thơng qua </i>

q trình nghiên cứu vị trí đặt các cơ sở chất thải nguy hại liên quan đến các cộng đồng da màu và cộng đồng thu nhập thấp ở Hoa Kỳ tác giả đã đưa ra thuật ngữ công lý môi trường gồm công bằng thực chất, công bằng phân phối, nghĩa là tất cả mọi người không phân biệt mức thu nhập hoặc chủng tộc phải được bảo vệ như nhau khỏi tác động bất lợi của các chất ô nhiễm và các tác động môi trường bất lợi khác, và công bằng theo thủ tục có nghĩa là tất cả mọi người đều có cơ hội tham gia vào các quyết định về môi trường có ảnh hưởng đến họ [158].

<i>Sách Environmental Protection and Human Rights của D.K. Anton và D. </i>

Shelton đã giới thiệu toàn diện về mối quan hệ giữa BVMT và quyền con người, được luật hoá trong nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia [157].

<i>Sách Human Rights and Environmental Sustainability của tác giả K. Woods, </i>

xem xét các câu hỏi chính trong mối quan hệ giữa nhân quyền và môi trường. Cuốn sách chủ yếu tập trung vào những thách thức lý thuyết, triết học và chính trị đối với các chuẩn mực nhân quyền và tính bền vững của môi trường [171].

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>Luận án tiến sĩ The human right to a good environment in international law and the implications of climate change của Bridget Mary Lewis đại học Monash </i>

đã phân tích các ý nghĩa lý luận, pháp lý, thực tiễn và chính trị của quyền con người được sống trong một môi trường tốt. Tác giả xem xét các cơ sở lý thuyết về quyền con người để đánh giá quyền con người được sống trong một môi trường tốt có chính đáng hay khơng và kết luận rằng một "môi trường tốt" không thể được liên kết với phẩm giá, quyền tự chủ hoặc lợi ích của con người mà không dựa trên các quyền đã được bảo vệ theo luật hiện hành, chẳng hạn như quyền về sức khỏe, thực phẩm và nước sạch [159].

<i>Luận án tiến sĩ Unravelling the Maze of Multilateral Environmental Agreements: A Macroscopic Analysis of International Environmental Law and Governance for the Anthropocene của Rak Hyun Kim, đại học quốc gia Australian </i>

năm 2013 đã nhận định hiện tại luật môi trường quốc tế là một mê cung của các hiệp định môi trường đa phương (MEAs). Tác giả đã phân tích 747 MEAs với hơn 1.001 tài liệu và rút ra kết luận hệ thống MEAs hiện đang bị giới hạn trong cách tiếp cận tổng thể của quản trị mơi trường tồn cầu, vì vậy luật môi trường quốc tế cần được thống nhất rõ ràng về mục tiêu và tất cả các cơ quan quản lý quốc tế đều bị ràng buộc về mặt pháp lý [164].

<i>Nghiên cứu The Evolution of Paradigms of Environmental Managemen in Development của Michael E. Colby (1989) đã phân tích sự khác biệt giữa năm mơ </i>

hình quản lý môi trường cơ bản gồm: "frontier economics - kinh tế học biên giới", "deep ecology - sinh thái học sâu", "environmental protection - BVMT", "resource management - quản lý tài nguyên" và "eco-development - phát triển sinh thái" và ý nghĩa của năm mơ hình này trong quản lý môi trường[163].

<i>Nghiên cứu Environmental Sustainability: A Case of Policy Implementation Failure? của tập thể tác giả Michael Howes, Liana Wortley, Ruth Potts, Aysin </i>

Dedekorkut-Howes, Silvia Serrao-Neumann, Julie Davidson, Timothy Smith, Patrick Nunn, đã phân tích các yếu tố dẫn tới sự thất bại của các Chính phủ trong thực thi chính sách BVMT. Trong đó nhấn mạnh yếu tố chính trị và kinh tế. Nguyên nhân dẫn tới sự thất bại trong chính sách mơi trường là sự xung đột giữa

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

các mục tiêu của chính sách mơi trường và các chính sách về phát triển kinh tế[162].

<i>1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về môi trường Luận án Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Trà Vinh của Huỳnh </i>

Minh Luân đã đánh giá thực trạng QLNN về BVMT ở Trà Vinh trong giai đoạn 2011 – 2015, tác giả khẳng định những kết quả QLNN về môi trường đã giữ được môi trường của tỉnh Trà Vinh khá tốt, không nảy sinh các vấn đề lớn về môi trường; đồng thời tác giả cũng phân tích các hạn chế, thiếu sót trong QLNN về BVMT của tỉnh Trà Vinh như: hệ thống quản lý chưa chặt chẽ, đồng bộ, nhân lực làm công tác QLNN về mơi trường cịn hạn chế về số lượng và chuyên môn, đầu tư cơ sở vật chất cho BVMT còn thấp…[64].

<i>Luận án Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng Việt Nam của tác giả Nguyễn Trần Điện đã phân tích những </i>

kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về BVMT làng nghề trên năm phương diện nội dung: bảo vệ tài nguyên nước, tài nguyên đất, môi trường khơng khí, quản lý chất thải, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử [32].

<i>Luận án Nghiên cứu hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường nước lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy của tác giả Nguyễn Quang Hùng cho rằng: chức năng, </i>

nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước và BVMT đang bị phân tán, chia nhỏ cho nhiều cơ quan nên thiếu sự thống nhất. Việc quản lý tài nguyên nước trên lưu vực sông ở Việt Nam đã và đang theo hướng quản lý ngành mà không theo hướng quản lý tổng hợp; các quy định về quy hoạch tài nguyên nước và BVMT chưa rõ ràng ở từng cấp [51].

<i>Luận văn QLNN bằng pháp luật về BVMT - Từ thực tiễn Tỉnh Hải Dương </i>

của Nguyễn Thị Hồng Linh đã đánh giá ưu điểm và hạn chế trong công tác QLNN về môi trường tại tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011 - 2015 trên các phương diện: công tác xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về BVMT; công tác tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật BVMT [63].

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<i>Luận văn Pháp luật về BVMT ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp của </i>

Đinh Phượng Quỳnh đã đánh giá thực trạng pháp luật về BVMT ở Việt Nam, trong đó khẳng định những ưu điểm của pháp luật Việt Nam giai đoạn 1993 -2011: pháp luật nước ta đã phát triển cả nội dung lẫn hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các thành phần môi trường… đồng thời chỉ ra một số hạn chế của pháp luật Việt Nam giai đoạn đó như: các quy định của Luật BVMT còn những điểm trùng lặp, mâu thuẫn, chưa có đủ các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) để huy động sự tham gia, đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia BVMT… [86].

<i>Luận văn Pháp luật về BVMT qua thực tiễn tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở tỉnh Quảng Bình của tác giả Nguyễn Đức Đồng đã chỉ ra những hạn chế </i>

việc thực hiện pháp luật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại tỉnh Quảng Bình như: ý thức trách nhiệm trong chấp hành pháp luật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh còn hạn chế dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo của cộng đồng. Hầu hết các khu kinh tế, KCN trên địa tỉnh chưa xây dựng khu xử lý nước thải tập trung [36].

<i>Bài nghiên cứu Thực trạng áp dụng cơng cụ chính sách - pháp luật trong quản lý tài nguyên và BVMT của tác giả Phan Tuấn Hùng đã đánh giá hệ thống </i>

chính sách, pháp luật về BVMT của nước ta liên tục được hoàn thiện, chỉnh sửa, bổ sung, đã ban hành được 44 quy chuẩn môi trường theo hướng tiếp cận các quy chuẩn của quốc tế… đồng thời chỉ ra những hạn chế trong sử dụng công cụ chính sách - pháp luật của nước ta như: chính sách, pháp luật về đất đai vẫn cịn cản trở quá trình phát triển sản xuất theo hướng tập trung, quy mô lớn, thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành luật, cơ chế, chính sách BVMT chưa theo kịp, phù hợp và đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường…[52].

<i>Bài nghiên cứu Thực hiện pháp luật BVMT đối với nguồn nước thải trong một số KCN ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay của tác giả Phạm Thị Thu Hồi đã phân </i>

tích những những hạn chế về nhân lực và trang thiết bị để giám sát nguồn nước thải, hệ thống xử lý nước thải tập trung chưa đảm bảo kỹ thuật nên chất lượng nước thải không đạt quy chuẩn khi xả thải [53].

<i>Bài nghiên cứu Pháp luật về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp ở Việt Nam hiện nay của tác giả Phan Thị Thu Thuỷ đã chỉ ra bất cập trong </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

quy chuẩn quốc gia về nước thải công nghiệp đối với một số ngành công nghiệp đặc thù như ngành thép lại thấp hơn quy chuẩn chung về nước thải công nghiệp, khi xây dựng quy chuẩn không căn cứ vào sức chịu tải của môi trường tiếp nhận và chậm được sửa đổi, bổ sung[111].

Qua tìm hiểu của nghiên cứu sinh, trên thế giới, về thực trạng QLNN về môi trường có các cơng trình nghiên cứu sau:

<i>Sách Environmental Governance in Asia: Independent Assessements of National Implimentation of Rio Declaration’s Principle 10 của Somrudee Niccro, Richarch Friend và Suphasuk Pradubsuk đã đưa ra cách tiếp cận khá đầy đủ và </i>

sâu sắc về các hình thức tham gia BVMT của các thành phần khác nhau trong xã hội trong đó chú trọng đến sự tham gia BVMT của các tổ chức cộng đồng [170].

<i>Bài báo Environmental Laws and Institutinons in Southeast Asian: A Review of Rencent Developments của tác giả Alan Khee – Jin Tan đã đánh giá </i>

những tiến bộ của các quốc gia Đông Nam Á khi ban hành các luật mới về quản lý tài nguyên và BVMT, phê chuẩn các công ước quốc tế liên quan cũng như thiết lập hoặc củng cố các thể chế cần thiết để quản trị môi trường sinh thái quốc gia. Đồng thời cũng đề cập tới hạn chế của thể chế quản lý môi trường của các nước Đông Nam Á là sự thất bại phối hợp các chính sách phát triển và mơi trường giữa trung ương và chính quyền địa phương cấp tỉnh, cũng như giữa các nhóm lợi ích khác nhau ở tất cả các cấp, nhiều công cụ pháp lý và chiến lược được các Chính phủ áp dụng hồn tồn là cách tiếp cận theo lĩnh vực, mà không xem xét tổng thể các mối liên kết sâu sắc giữa các lĩnh vực [156].

<i>Bài báo Law on environmental protection to be revised for sustainable development in Vietnam của Nguyen Khanh Bui và Anna Kopytova đã phân tích </i>

những bất của Luật BVMT Viêt Nam năm 2014 như: Thiếu các quy định pháp lý để xử lý thảm hoạ môi trường; nội dung, trách nhiệm, phân công, phân cấp QLNN về BVMT còn rời rạc, chồng chéo, chưa hợp lý; thiếu cơ chế thích hợp để thúc đẩy sự tham gia hiệu quả của xã hội, doanh nghiệp và người dân vào BVMT; các thủ tục hành chính vừa thiếu, vừa chồng chéo, thiếu các quy định pháp luật để giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

quyết một số vấn đề mới như: biến đổi khí hậu, ô nhiễm kim loại nặng (Cu, Zn, Cd), xâm nhập mặn, ơ nhiễm khói bụi [160].

<i>1.1.1.3. Tình hình nghiên cứu đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về môi trường </i>

<i>Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực QLNN về BVMT ở các KCN, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm phía Nam do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn tại Thành phố Hồ Chí Minh, </i>

Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam thực hiện đã đưa ra các giải pháp có tính đặc thù nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực QLNN về môi trường để đảm bảo sự PTBV về kinh tế – xã hội cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng và cho cả nước nói chung [137].

<i>Đề tài khoa học cấp Nhà nước Nghiên cứu phát triển công nghệ và giải pháp quản lý môi trường, ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long do Lê Thanh Hải làm chủ nhiệm đã đề xuất </i>

được các giải pháp phù hợp để quản lý môi trường và PTBV một số các làng nghề chính tại Đồng bằng sơng Cửu Long và có được mơ hình thực tế áp dụng các giải pháp công nghệ xử lý và quản lý môi trường [39].

<i>Sách Pháp luật môi trường Việt Nam – thực trạng và định hướng hoàn thiện </i>

của Hoàng Thế Liên đã ra các định hướng hoàn thiện pháp luật mơi trường Việt Nam, trong đó có định hướng hoàn thiện các cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật BVMT bằng biện pháp xử lý hành chính, hình sự và tăng cường năng lực QLNN về môi trường [60].

<i>Luận án tiến sĩ Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường Việt Nam của tác giả Võ Trung Tín đã đề xuất các giải pháp hồn thiện </i>

nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền theo pháp luật môi trường Việt Nam như: sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thuế, phí đối với nước thải, khí thải, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, … [101].

<i>Luận án tiến sĩ Xây dựng các biện pháp quản lý hiệu quả CTR tại một số khu đô thị và KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi của tác giả Cao Văn Cảnh đã đề </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

xuất được 02 bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý CTR công nghiệp tại tỉnh Quảng Ngãi [9].

<i>Luận án tiến sĩ Bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở nông thôn từ thực tiễn các tỉnh đồng bằng Sông Hồng của tác giả Trần Thị Xuân đã đề xuất giải pháp </i>

tăng cường các nguồn lực của xã hội để đẩy nhanh tốc độ thực hiện mục tiêu về bảo đảm khả năng tiếp cận, tính bền vững và tính cơng bằng trong tiếp cận nước sạch nông thôn[152].

<i>Bài viết Hoàn thiện quy định pháp luật trong phân công QLNN về môi trường của Nguyễn Thị Tố Uyên đã chỉ ra sự chồng chéo, mâu thuẫn và thiếu hụt </i>

của các quy định pháp luật hiện hành trong phân công trách nhiệm QLNN về BVMT giữa Bộ TN&MT với các bộ, ngành khác có liên quan và chính quyền địa phương, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phân công cụ thể, khoa học hơn về trách nhiệm QLNN trong BVMT [151].

<i>Nghiên cứu Hoàn thiện pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam của Lê Thị Hồng đã đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật về đánh giá </i>

tác động mơi trường ở Việt Nam. Trong đó tác giả nhấn mạnh giải pháp sự tham gia của cộng đồng dân cư trong q trình đánh giá tác động mơi trường [54].

<i>Bài báo Sử dụng công cụ kinh tế và pháp lý trong quản lý, BVMT của tác </i>

giả Lê Thị Thảo và Nguyễn Quang Tuấn đã đề xuất một số giải pháp nhằm năng cao hiệu quả trong công tác quản lý, BVMT như: cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường. Tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BVMT, giải pháp khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về BVMT và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BVMT… [109].

<i> Bài nghiên cứu Các quy định pháp luật về thiệt hại, xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra và định hướng xây dựng, hoàn thiện của </i>

tác giả Phạm Hữu Nghị, Bùi Đức Hiển đã đề xuất định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về về hoà giải, dân sự, hành chính, hình sự và cơ chế trọng tài trong giải quyết bồi thường thiệt hại môi trường ở nước ta[87].

<i>Bài nghiên cứu Hoàn thiện pháp luật về môi trường để bảo đảm pháp triển bền vững của tác giả Bùi Đức Hiển đã nhấn mạnh giải pháp hoàn thiện các cơ chế </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

để thực hiện và bảo vệ quyền con người được sống trong môi trường trong lành được quy định trong Hiến pháp năm 2013 bằng cơ chế tư pháp[55].

<i>Bài nghiên cứu Trách nhiệm của nhà nước trong BVMT ở Việt Nam hiện nay của Vũ Kim Điềm đã đề xuất giải pháp áp dụng công cụ kinh tế để nâng cao </i>

trách nhiệm của doanh nghiệp trong BVMT[33].

<i>Bài nghiên cứu Vấn đề môi trường trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa nhà đầu tư và nhà nước của tác giả Đào Kim Anh, Võ Phương Thảo trên </i>

cơ sở phân tích một số vụ tranh chấp quốc tế giữa nhà đầu tư và nhà nước tác giả đã khuyến nghị Việt Nam nên sử dụng quyền phản tố về môi trường để giải quyết tranh chấp với nhà đầu tư nước ngoài[1].

<i>Báo cáo chuyên đề số 218 Kinh nghiệm của 87 quốc gia trong việc xác định và chuyển nhượng quyền Các-bon của Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế </i>

(CIFOR) phát hành năm 2021, đã nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trong giảm phát thải khí nhà kính từ chống phá rừng và suy thối rừng (REDD+). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vấn đề xây dựng chính sách liên quan đến quyền và chuyển quyền Các-bon còn mới mẻ trên thế giới và các quốc gia đều đang trong q trình xây dựng chính sách này. Cho tới nay, phần lớn các nước (60%) đã ký được chi trả dựa vào kết quả của Quỹ Các-bon và Quỹ Khí hậu xanh (GCF) tiến hành chuyển quyền các-bon [115].

Bàn về các giải pháp hoàn thiện QLNN về mơi trường tài liệu tiếng nước ngồi có một số cơng trình tiêu biểu sau:

<i>Luận án tiến sĩ The Role of Environmental Protection in EC Competition Law and Policy của Suzanne Elizabeth Joy Kingston, đại học Leiden (2009) đã </i>

xem xét các yếu tố BVMT có đóng bất kỳ vai trị nào trong chính sách cạnh tranh của Uỷ ban châu Âu (EC) hay không và chúng có nên đóng vai trị đó hay khơng. Tác giả đã phê phán quan điểm BVMT được xử lý tốt nhất bằng pháp luật, khơng phải bằng chính sách cạnh tranh, việc sử dụng BVMT trong chính sách cạnh tranh chỉ làm sai lệch hiệu quả của chính sách cạnh tranh. Từ đó tác giả đề xuất giải pháp các chính sách mơi trường của EC cần quy định về nghĩa vụ của EC và các quốc gia thành viên trong việc lồng ghép các yêu cầu BVMT vào tất cả các chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

sách của mình, trong đó có chính sách cạnh tranh, là nhu cầu cấp thiết nhằm tăng hiệu quả BVMT [167].

<i>Báo cáo Integranting The Environment In Urban Planning And Management </i>

các nguyên tắc và cách tiếp cận để tích hợp vấn đề BVMT trong lập quy hoạch và quản lý đô thị. Theo báo cáo với tỷ lệ dân số thế giới sống ở các khu vực đô thị ngày càng tăng ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, đây là những địa điểm quan trọng để tham gia BVMT. Báo cáo mơ tả những lợi ích kinh tế và xã hội có thể được tạo ra bằng cách giải quyết các thách thức về môi trường trong quá trình quy hoạch và quản lý đơ thị[165].

<i>Bài viết Establishing a state management system for the environment in the field of agriculture to suit the reality of Vietnam của tác giả V M Pham tại Hội </i>

thảo khoa học quốc tế Earth and Environmental Science đã đề xuất các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường nơng nghiệp ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh ngồi các chương trình, dự án quốc gia phục hồi hệ sinh thái và môi trường nông nghiệp, chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch nơng thơn… cần xây dựng các tiêu chuẩn môi trường nông nghiệp, quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm phục hồi môi trường trong trường hợp cơ sở sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp gây ô nhiễm, gây thiệt hại [166].

<i><b>1.1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án cần nghiên cứu tiếp </b></i>

<i>1.1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu </i>

Trên cơ sở tổng quan các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án, nghiên cứu sinh có một số nhận xét sau:

<i>Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận quản lý môi trường, pháp luật môi trường làm cơ sở tiến hành quản nhà nước về mơi trường: </i>

- Các cơng trình nghiên cứu đã tiếp cận QLNN về môi trường từ nhiều giác độ khác nhau như: lý thuyết PTBV, quyền con người, công lý môi trường, quản lý cơng, chính sách cơng, luật học, triết học, kinh tế học môi trường…

- Ở những phương diện nhất định đã đưa ra nội hàm khái niệm QLNN về

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

môi trường, phân biệt chủ thể QLNN về môi trường là Nhà nước với các chủ thể quản lý khác hoạt động trong lĩnh vực môi trường.

- Đã phân tích, lý giải các nguyên tắc, đặc điểm, cơng cụ, mơ hình quản lý mơi trường được sử dụng trong QLNN về môi trường như: pháp luật, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, cơng nghệ, xã hội, văn hóa, giáo dục... Các biện pháp này có thể đan xen, phối hợp, tích hợp với nhau tùy theo điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra. Việc quản lý môi trường được thực hiện ở mọi quy mơ: tồn cầu, khu vực, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ sở sản xuất, hộ gia đình...

<i>Thứ hai, nghiên cứu thực trạng QLNN về mơi trường: </i>

- Đã phân tích thực trạng hệ thống pháp luật môi trường quốc tế, khu vực và Việt Nam làm cơ sở QLNN về môi trường.

- Ở những mức độ nhất định đã phân tích thực trạng QLNN về các thành phần của môi trường: quản lý môi trường đất, môi trường nước, môi trường khơng khí… QLNN về mơi trường tại các KCN, các làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công, nông nghiệp trên phạm vi quốc gia, vùng địa lý, tỉnh, huyện... Trong đó có đề tài nghiên cứu thực trạng QLNN bằng pháp luật BVMT tại tỉnh Hải Dương.

<i>Thứ ba, nghiên cứu giải pháp hồn thiện QLNN về mơi trường: </i>

Ở những mức độ khác nhau các nghiên cứu đề xuất được một số giải pháp hoàn thiện và tăng cường QLNN về mơi trường như: hồn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện và nâng cao năng lực của các cơ QLNN về môi trường, tăng cường chế tài và các công cụ quản lý…

<i>1.1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu </i>

<i>Thứ nhất, khái niệm QLNN về môi trường và mối quan hệ giữa QLNN về </i>

môi trường với quản lý môi trường của các chủ thể khác trong xã hội chưa được các cơng trình nghiên cứu, phân tích một cách thấu đáo; chưa chú ý đầy đủ đến tính đặc thù của lĩnh vực mơi trường trong quản lý nhà nước về môi trường, chưa vận dụng lý thuyết phát triển bền vững và lý thuyết quản trị tốt trong nghiên cứu các vấn đề của quản lý nhà nước về môi trường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<i>Thứ hai, trong đánh giá thực trạng QLNN về mơi trường trong các nghiên </i>

cứu cịn có sự khác nhau trong đánh giá về tính thống nhất của hoạt động QLNN về môi trường.

<i>Thứ ba, khi phân tích thực trạng những vấn đề mơi trường đặt ra đối với </i>

hoạt động QLNN về môi trường, các nghiên cứu chủ yếu đề cập tới mặt tiêu cựu của vấn đề mà chưa nhìn nhận, phân tích yếu tố tích cực, thúc đẩy của các vấn đề môi trường tới đổi mới phương thức quản lý và mơ hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

<i>Thứ tư, các công trình đã nghiên cứu thực trạng QLNN về mơi trường ở các địa phương khác nhau nhưng từ khi Luật BVMT năm 2020 (sửa đổi, bổ sung năm 2023) có hiệu lực thi hành chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện thực trạng </i>

hoạt động QLNN về mơi trường ở địa phương cấp tỉnh, đặc biệt từ năm 2015 đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu thực trạng QLNN về môi trường tại tỉnh Hải Dương.

<i>Thứ năm, khi đề cập giải pháp tăng cường QLNN về môi trường các nghiên </i>

cứu thường tuyệt đối hố vai trị điều chỉnh và kiểm sốt của Nhà nước mà chưa đặt trong tổng thể chung của hoạt động quản lý môi trường, chưa đánh giá hết vai trị tham gia quản lý mơi trường của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.

<b>1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án </b>

<i><b>1.2.1. Lý thuyết nghiên cứu </b></i>

<i><b>Thứ nhất, lý thuyết phát triển bền vững </b></i>

Hiện nay, lý giải về nguồn gốc ra đời của lý thuyết PTBV còn chưa thống nhất, có người cho rằng lý thuyết này bắt nguồn từ những nhà triết học tự nhiên Hy Lạp và La Mã cổ đại khi họ ủng hộ sử dụng một cách khôn ngoan và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên[155]; người khác lại cho rằng ý niệm về sự phát triển mang tính bền được nhà kinh tế học người Anh Thomas Malthus (1766 – 1834) đưa ra trong cuốn An Essay on the Principle of Population năm 1798 khi ông cho rằng sự gia tăng dân số nhanh chóng sẽ ln vượt q những gì mang tính bền vững đối với dân số [116].

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học" [161].

Tuy nhiên, thuật ngữ PTBV được biến đến rộng rãi, mang tính quốc tế hoá khi được đề cập trong báo cáo Brundtland (Tương lai của chúng ta - Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – World Commission on Environment and Development – WCED). Báo cáo đã đưa ra quan niệm khái quát về PTBV, theo đó, PTBV được hiểu là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Với quan niệm này, PTBV tập trung vào ba trụ cột

<i>phát triển chính là: thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng; thứ hai, bền vững về mặt xã hội </i>

là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hoá, văn minh;

<i>thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên </i>

thiên nhiên, BVMT và cải thiện chất lượng môi trường sống.

Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp quốc được tổ chức ở Rio De-Janeiro (Braxin) đã đưa ra Tuyên ngôn Rio về môi trường và phát triển với những nguyên tắc cơ bản cho PTBV có tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21), đã đưa ra kế hoạch chi tiết cho phát triển bền vững toàn cầu trong thế kỷ XXI gồm 4 phần chính: (1) Những khía cạnh xã hội và kinh tế của sự phát triển (như đói nghèo, dân số, sức khỏe, mơ hình tiêu dùng, định cư); (2) Bảo tồn và quản lý các nguồn tài nguyên. (3) Tăng cường vai trò của các nhóm xã hội chính. Những phương tiện để thực hiện (tài chính, cơng nghệ, khoa học, cơ chế hợp tác, thông tin)[169].

Trên cơ sở định hướng PTBV của Liên Hợp Quốc, Việt Nam cũng bành Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (được ban hành theo quyết định số

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ) gồm 8 nguyên tắc cơ bản, trong đó con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ và hài hòa với phát triển xã hội, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên theo nguyên tắc kinh tế, xã hội và mơi trường cùng có lợi. Bảo vệ và cải thiện môi trường được coi là yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển... Chương trình có 19 lĩnh vực ưu tiên, trong đó ưu tiên hàng đầu là duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; thay đổi mơ hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường; thực hiện quá trình “cơng nghiệp hóa sạch”; phát triển nơng nghiệp, nơng thơn bền vững; tập trung nỗ lực xóa đói giảm nghèo, đẩy mạnh tiến bộ và công bằng xã hội; giảm mức tăng dân số và tạo thêm việc làm...

Lý thuyết về PTBV được nghiên cứu sinh sử dụng như một cơ sở khoa học để đánh hiệu quả công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch mơi trường, các cơ chế chính sách về bảo vệ môi trường của tỉnh Hải Dương, là căn cứ để đưa ra các khuyến nghị định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về môi trường theo hướng PTBV.

<i><b>Hai là, lý thuyết quyền con người được sống trong mơi trường trong lành </b></i>

Trong lịch sử chính trị tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ “quyền con người” thường được sử dụng, nhưng cho đến nay chưa có quan niệm thống nhất. Phải đến thế kỷ XVII, XVIII, quyền con người mới được các nhà tư tưởng bàn đến như một học thuyết[37]. Có nhiều các tiếp cận khác nhau về quyền con người, xuất phát từ câu hỏi Quyền con người có nguồn gốc tự nhiên hay do pháp luật quy định? Cách tiếp cận thứ nhất nhấn mạnh thuộc tính tự nhiên của các quyền con người (đã là con người thì có các quyền). Cách tiếp cận thứ hai nhấn mạnh thuộc tính nhân tạo của quyền con người, cho rằng các quyền là do con người thỏa thuận với nhau hoặc do Nhà nước quy định trong pháp luật. Từ hai cách tiếp cận trên đã hình thành hai trường phái trái ngược nhau khi nghiên cứu về quyền con người. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) - mà tiêu biểu là các tác giả như Zeno (333 - 264 TCN), Thomas Hobbes, Thomas Paine (1731 - 1809)... cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

đều được hưởng, chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào và khơng một chủ thể nào có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người. Ngược lại, những người theo học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) mà tiêu biểu là các tác giả như Edmund Burke (1729 - 1797), Jeremy Bentham (1748 - 1832)... cho rằng các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các Nhà nước quy định trong pháp luật. Như vậy, theo học thuyết này, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội.

Ở bình diện quốc tế, quyền được sống trong môi trường trong lành đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện, cơng ước quốc tế, thuộc nhóm quyền con người thế hệ thứ 3, như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1962 về sự phát triển kinh tế và bảo vệ thiên nhiên, Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự; Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hố và xã hội năm 1966, Tun bố Xtốc khơm về môi trường con người năm 1972, Tuyên bố Rio De - Janeiro về môi trường và phát triển (1992), Tuyên bố Johannesburg năm 2002 về phát triển bền vững và Hội nghị về Chống Biến đổi khí hậu (2009) tại Copenhagen, Thỏa thuận Paris về ứng phó với biến đổi khí hậu 2015, Hiệp ước khí hậu Glasgow tại Anh năm 2021… Trong đó, Tun bố Liên Hợp quốc về môi trường con người năm 1972 lần đầu tiên chỉ rõ: "con người có quyền cơ bản được sống trong một mơi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau” . Để bảo vệ môi trường Công ước quy định các quốc gia: cần phải giao nhiệm vụ quy hoạch, quản lý hay kiểm soát các nguồn tài nguyên môi trường của các nước cho các cơ quan quốc gia thích hợp nhằm làm cho chất lượng môi trường tốt đẹp hơn.

Ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quyền sống trong môi trường trong lành đã ghi nhận, tại Điều 43 quy định: “Mọi người có quyền được sống

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ BVMT”. Khoản 1 Điều 63 Hiến pháp ghi: “Nhà nước có chính sách BVMT; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”[82].

Lý thuyết về quyền con người được sống trong môi trường trong lành được nghiên cứu sinh sử dụng làm tiêu chí để để so sánh với thực trạng môi trường của tỉnh Hải Dương, cũng là cơ sở đưa ra các khuyến nghị giải pháp tăng cường các hoạt động phịng ngừa, kiểm sốt và xử lý ơ nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương để bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành.

<i><b>Ba là, lý thuyết quản trị tốt </b></i>

Quản trị tốt là một lý thuyết quản lý ra đời từ thập niên 90 của thế kỷ XX, gắn với q trình cải cách khu vực cơng ở các nước và thực thi mơ hình quản lý cơng mới. Đó là tập hợp các ngun tắc trong quản trị quốc gia, xã hội. Hiện nay, có những quan niệm khác nhau về quản trị tốt:

Theo ngân hàng thế giới trong ấn phẩm Quản trị và Phát triển (Governance and Development) ban hành năm 1992 cho rằng: “Quản trị tốt là tập hợp các thể chế minh bạch, có trách nhiệm giải trình, có năng lực và kỹ năng, cùng với ý chí quyết tâm làm những điều tốt đẹp… Tất cả giúp cho một nhà nước cung cấp những dịch vụ công cho người dân một cách hiệu quả’.

Theo quan niệm của Hội đồng châu Âu đưa ra vào năm 2007: “Quản trị tốt dựa trên 5 nguyên tắc: công khai, sự tham gia, trách nhiệm giải trình, tính hiệu quả và sự gắn kết. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): “Các yếu tố chủ yếu của quản trị tốt bao gồm: (i) trách nhiệm giải trình, sự minh bạch, tính hiệu quả và hiệu lực, tính kịp thời, tầm nhìn, pháp quyền.

Theo các cơ quan Liên hợp quốc, quản trị tốt bao gồm 8 đặc trưng chính là: (1) Sự tham gia, sự tham gia của người dân được xem là một yếu tố cốt lõi của quản trị tốt. Quản trị tốt đòi hỏi phải có sự tham gia của người dân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện hoặc các thiết chế trung gian hợp pháp. (2) Pháp quyền, quản trị tốt đòi hỏi phải có khn khổ pháp luật cơng bằng và pháp luật phải được thực thi một cách không thiên vị. Điều này đòi hỏi

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

phải bảo đảm một nền tư pháp độc lập. (3) Minh bạch, minh bạch có nghĩa là khi đưa ra các quyết định và việc thực hiện các quyết định nhà nước phải tuân thủ các luật lệ và quy tắc. Quá trình ban hành và thi hành các quyết định phải công khai cho mọi người, đặc biệt là những người chịu ảnh hưởng bởi các quyết định. Thông tin phải đầy đủ, dễ hiểu trên các phương tiện truyền thơng, để mọi người đều có thể tiếp cận. (4) Sự kịp thời, quản trị tốt địi hỏi các thiết chế và tiến trình phải phục vụ tất cả các chủ thể có liên quan trong một khung thời gian có thể chấp nhận được. (5) Định hướng đồng thuận, ở bất kỳ xã hội nào cũng có những nhóm xã hội khác nhau với nhiều quan điểm khác nhau về mỗi vấn đề. Quản trị tốt đòi hỏi các nhà nước phải trung hồ các lợi ích khác biệt trong xã hội để đạt được sự đồng thuận rộng rãi về một lợi ích tốt nhất cho tồn thể cộng đồng và cách thức để đạt được mục tiêu đó. (6) Bình đẳng và khơng loại trừ chủ thể nào, sự thịnh vượng của một xã hội phụ thuộc vào việc bảo đảm tất cả các thành viên của nó có cảm nhận rằng họ là một thành tố trong đó chứ khơng bị gạt ra bên lề. Điều này đòi hỏi tất cả các nhóm xã hội, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương, đều có cơ hội được duy trì và nâng cao sự thịnh vượng của họ. (7) Hiệu lực và hiệu quả, quản trị tốt có nghĩa là các tiến trình và thể chế đem lại những kết quả đáp ứng các nhu cầu của xã hội trong khi chỉ tiêu tốn các nguồn lực ở mức tối thiểu. Khái niệm hiệu quả trong quản trị tốt còn bao hàm việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và bảo vệ mơi trường. (8) Trách nhiệm giải trình, trách nhiệm giải trình là một yêu cầu cốt yếu của quản trị tốt. Không chỉ các cơ quan nhà nước mà các tổ chức xã hội công dân và khối tư nhân cũng phải có trách nhiệm giải trình trước cơng chúng và trước các đối tác. Phạm vi chủ thể và đối tượng hướng tới của trách nhiệm giải trình khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào việc các quyết định và hành động được tiến hành hay áp dụng ở trong hay ở ngồi cơ quan, tổ chức đó. Tuy nhiên, xét chung thì một tổ chức hoặc cơ quan nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm giải trình trước những chủ thể mà bị ảnh hưởng bởi các quyết định hay hành động của mình. Trách nhiệm giải trình có mối quan hệ khăng khít với pháp quyền và sự minh bạch. Khơng thể có trách nhiệm giải trình nếu khơng tơn trọng và thực hiện các nguyên tắc pháp quyền và sự minh bạch.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Như vậy, quản trị tốt là một tập hợp những tiêu chí về quản lý xã hội nhằm hướng đến mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững của một quốc gia [88]. Trong đó, bền vững về mơi trường là một trụ cột không thể thiếu của phát triển bền vững.

Lý thuyết quản trị tốt được nghiên cứu sinh sử dụng như một tiêu chí để đánh giá chất lượng các hoạt động quản lý nhà nước về môi trường của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường của tỉnh Hải Dương, đặc biệt là đánh giá hiệu quả các chính sách của chính quyền nhằm huy động sự tham gia của người dân và doanh nghiệp trong các hoạt động xã hội hố các dịch vụ mơi trường (thu gom và xử lý chất thải, hoạt động đánh giá tác động môi trường, quan trắc môi trường, tham gia đầu tư hạ tầng xử lý môi trường các khu, cụm cộng nghiệp…), sự công khai, minh bạch của chính quyền trong cung cấp các thông tin môi trường gắn với trách nhiệm giải trình của chính quyền để tạo sự đồng thuận của người dân trong việc xây dựng các nhà máy rác thải; năng lực của chính quyền trong dự báo, phòng ngừa, xử lý, khắc phục các vấn đề môi trường trên địa bàn tỉnh… Đây cũng là cơ sở để nghiên cứu sinh đề xuất giải pháp áp dụng lý thuyết quản trị tốt để tăng cường quản lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương.

<i><b>1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu </b></i>

<i>1.2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu </i>

<i><b>Câu hỏi tổng thể: Quản lý nhà nước về môi trường cần được tổ chức và </b></i>

thực hiện trên cơ sở lý luận và thực tiễn nào để có hiệu lực và hiệu quả nhằm mục

<b>tiêu phát triển bền vững, bảo đảm quyền con người sống trong môi trường trong lành. </b>

Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu trên, nghiên cứu sinh đặt ra các câu hỏi cụ thể như sau:

<i>Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Quản lý nhà nước về môi trường đã được luận </i>

giải thấu đáo, đã tính đến các đặc thù của lĩnh vực môi trường, đã vận dụng tốt các lý thuyết hiện đại liên quan đến quản lý nhà nước về môi trường như lý thuyết phát triển bền vững và lý thuyết quản trị tốt hay chưa?

<i>Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: Thực tiễn tổ chức hoạt động quản lý nhà nước </i>

về môi trường tại tỉnh Hải Dương đã đạt được yêu cầu đặt ra chưa?

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i>Câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Cần có giải pháp nào để nâng cao hiệu quả quản </i>

lý nhà nước về môi trường tại tỉnh Hải Dương?

<i>1.2.2.2. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài </i>

<i>Giả thuyết tổng thể: Quản lý nhà nước về môi trường chưa được tổ chức và </i>

thực hiện trên cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ và chắc chắn. Ở góc độ lý luận, quản lý nhà nước về môi trường chưa vận dụng tốt lý thuyết phát triển bền vững, lý thuyết quản trị tốt và chưa chú ý đầy đủ đến tính đặc thù của lĩnh vực mơi trường; ở góc độ thực tiễn, quản lý nhà nước về môi trường chưa căn cứ đầy đủ vào hiện trạng môi trường và chưa hướng tới giải quyết hiệu quả các vấn đề môi trường đang đặt ra.

<i>Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất: Các vấn đề lý luận quản lý nhà nước về </i>

môi trường chưa được nghiên cứu thấu đáo, chưa tính đầy đủ những đặc thù trong lĩnh vực môi trường, chưa vận dụng tốt các lý thuyết hiện đại liên quan đến quản lý nhà nước về môi trường như lý thuyết phát triển bền vững và lý thuyết quản trị tốt. Do vậy, ở góc độ lý thuyết, nội dung quản lý nhà nước về môi trường, phương pháp quản lý nhà nước về môi trường, cách thức tổ chức và xây dựng, ban hành các quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý nhà nước về môi trường chưa được tường minh trong các cơng trình nghiên cứu.

<i>Giả thuyết nghiên cứu thứ hai: Hoạt động quản lý nhà nước về môi trường </i>

tại tỉnh Hải Dương chưa đạt yêu cầu, đang cịn nhiều hạn chế, thiếu sót trong tổ chức hoạt động quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương cả về ban hành pháp luật về môi trường, về tổ chức thực hiện pháp luật về môi trường, đến giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về môi trường.

<i>Giả thuyết nghiên cứu thứ ba: Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về </i>

môi trường tại tỉnh Hải Dương trong bối cảnh hiện nay, cần vận dụng tốt lý thuyết phát triển bền vững và quản trị tốt để đề ra các giải pháp có tính tổng thể từ hồn thiện pháp luật, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, đến tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i><b>1.2.3. Khung phân tích của luận án </b></i>

Khung phân tích của luận án được khái quát hoá bằng sơ đồ sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<b>Kết luận chương 1 </b>

Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường là một chủ đề quan trọng trong các nghiên cứu khoa học. Quá trình tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án cho thấy: Các vấn đề mơi trường đang là vấn đề chung của tồn nhân loại đòi hỏi phải được giải quyết trên quy mơ tồn cầu, khu vực, quốc gia và mọi địa phương. Từ góc độ nghiên cứu, trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về môi trường và quản lý mơi trường mơi nói chung trong đó có các khía cạnh quản lý nhà nước về mơi trường nhằm tìm kiếm các giải pháp xử lý vấn đề môi trường. Tuy nhiên, tổng quan tài liệu cũng cho thấy các cơng trình khoa học, đặc biệt là số lượng luận án nghiên cứu trực tiếp, toàn diện các nội dung quản lý nhà nước về mơi trường tại cấp tỉnh cịn rất ít. Thành tựu của các kết quả nghiên cứu đã tạo thành một hệ thống cơ sở lý luận; phản ánh được thực trạng quản lý nhà nước về môi trường ở các khía cạch khác nhau và đề xuất các giải pháp để tăng cường quản lý nhà nước. Đây là cơ sở để tác giả kế thừa và tiếp tục nghiên cứu, phát triển trong luận án này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b>Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG </b>

<b> </b>

<i><b>2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước về môi trường </b></i>

<i><b>2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về môi trường </b></i>

Môi trường là khái niệm có nội hàm rộng và được hiểu theo nhiều hướng khác nhau, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận, ngữ cảnh sử dụng, mục đích nghiên cứu có thể có các cách tiếp cận khác nhau về mơi trường:

Cách tiếp cận thứ nhất, môi trường được dùng với với nghĩa là vật chất tự nhiên nằm ngồi con người: "Mơi trường là tất cả những gì ngồi cơ thể, có liên quan mật thiết có ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người như: đất, nước, khơng khí, ánh sáng mặt trời, rừng, biển, từng ơ-zơn, sự đa dạng của các lồi"[2]. Mơi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó những yểu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, khơng khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật, hệ động vật có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng hơn cả. Những yếu tố này được coi là những thành phần cơ bản của mơi trường. Chúng hình thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngồi khả năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng trong chừng mực nhất định.

Cách tiếp cận thứ hai, khái niệm môi trường được dùng với nghĩa là các mối quan hệ xã hội tác động tới con người, đó là “tổng thể các mối quan hệ giữa người với người tạo nên những thuận lợi hoặc khó khăn cho sự tồn tại phát triển của cá nhân và cộng đồng người”[19], với cách tiếp cận này người ta dùng khái niệm môi trường trong các bối cảnh như: môi trường sự phạm, môi trường giáo dục, môi trường pháp lý, môi trường đầu tư kinh doanh…

Các tiếp cận thứ ba, khái niệm môi trường được dùng với nghĩa là vật chất nhân tạo bao quanh con người, bao gồm toàn bộ những yếu tố vật chất, sản phẩm do con người tạo ra nhằm tác động tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con người như nhà ở, đường giao thông, phương tiện đi lại, dụng cụ lao động, trang phục…

Tuy nhiên, môi trường theo cách tiếp cận phổ biến nhất: “Là tồn bộ nói

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

chung những điều kiện tự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”[68]. Đây là cách cận rộng nhất, bao quát nhất về môi trường, bao gồm cả môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường nhân tạo. Cách tiếp cận về môi trường nêu trên cũng tương tự như cách tiếp cận của Chương trình hành động của Cộng đồng châu Âu về môi trường hay như cách tiếp cận của Chương trình mơi trường Liên hiệp Quốc (UNEP) định nghĩa: “Môi trường là các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo, lý học, hóa học, sinh học cùng tồn tại trong một không gian bao quanh con người. Các yếu tố đó có quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau và tác động lên các cá thể sinh vật hay con người để cùng tồn tại và phát triển. Tổng hòa của các chiều hướng phát triển của từng nhân tố này quyết định chiều hướng phát triển của cá thể sinh vật của hệ sinh thái và của xã hội con người”[123].

Dưới góc độ tiếp cận của khoa học pháp lý môi trường được hiểu là những yếu tố có tính chất tự nhiên, nhân tạo không liên quan đến môi trường xã hội. Khoản 1 điều 3 Luật BVMT năm 2020 giải thích thuật ngữ mơi trường như sau: “Bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên”. Đây cũng là cách tiếp cận môi trường nhất quán của các nhà lập pháp nước ta khi xây Luật BVMT (Luật BVMT năm 1993, 2005, 2014, 2020) và được nghiên cứu sinh sử dụng, tiếp cận trong luận án này.

Ngày nay, cùng với quá trình phát triển của kinh tế - xã hội tình trạng suy thối, ơ nhiễm mơi trường đang diễn biến nghiêm trọng, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, các hệ sinh thái rừng và biển bị phá hủy dẫn đến nhiều hệ lụy của biến đổi khí hậu như: sự nóng lên của nhiệt độ trái đất, tầng ozon bị phá hủy, băng tăn cùng với mức nước biển dâng, sa mạc hóa, các hiện tượng thời tiết cực đoan diễn biến phức tạp... đang đe dọa tính bền vững trong phát triển, đòi hỏi phải tăng cường quản lý môi trường.

Như chúng ta đã biết, quản lý là một hoạt động phổ quát trong đời sống xã hội. Bất cứ nơi nào có hoạt động của con người phối hợp để thực hiện một mục tiêu chung thì ở đó có hoạt động quản lý. Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác

</div>

×