Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 178 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<i><b>3.1. Hệ thống đền tháp</b></i>
<i><b>3.2. Các loại hình nghệ thuật3.3. Đời sống tinh thần</b></i>
3.3.1. Thiết chế vương quyền 3.3.2. Tơn giáo – Tín ngưỡng
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1. Siva: một trong ba vị thượng đẳng thần của Ấn Độ giáo, thần hủy diệt – vị thần chính của phái Saiva
2. Vishnu: một trong ba vị thượng đẳng thần của Ấn Độ giáo, thần bảo tồn vũ trụ - vị thần chính của phái Vainava
3. Brahma: một trong ba vị thượng đẳng thần của Ấn Độ giáo, thần sáng tạo
4. Agni: thần lửa
5. Amaravate: một vùng ở miền Nam Ấn Độ, nơi có trường phái nghệ thuật Phật giáo phát triển từ sau thế kỷ XI
6. Apsara: vũ nữ thiên tiên, thường xuất hiện trên các đài thờ trong điêu khắc Chămpa
7. Gandharva: ca công trên cõi trời, thường ca hát và nhảy múa cùng với Apsara
8. Avalokitesvara: Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát tượng trưng cho từ bi và trí tuệ, rất phổ biến trong Phật giáo Đại thừa và Kim Cương Thừa
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">9. Dikpala: thần canh giữ phương hướng, được thờ trong những miếu nhỏ xung quanh đền thờ chính
10. Ganesa: thần hạnh phúc và may mắn, đầu voi mình người, là con trai của thần Siva và nữ thần Parvati
11. Gajasimha: voi/ sư tử, vật cưỡi của thần Siva, thường bảo vệ
14. Hanuman: khỉ thần giúp Hoàng tử Rama đánh thắng quỷ vương Ravana, cưới được công chúa Sita
15. Kailasa: một ngọn núi trong dãy Himalaya, theo thần thoại là chỗ ở của thần Siva
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>8</small>
<small>10</small>
Bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, người Chăm cịn có mặt với số lượng khá lớn ở Campuchia (150.000) và Thái Lan (5.000)
<b>- Địa bàn cư trú hiện nay: </b>
+ Ninh Thuận, Bình Thuận
+ Có một bộ phận nhỏ người Chăm sống xen cư với các dân tộc Ê-đê, Bana ở miền tây Phú Yên và Bình Định
+ các tỉnh dọc biên giới Việt Nam – Campuchia (An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai) và Thành phố Hồ Chí Minh
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">+ Người Chăm có truyền thống nơng nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái.
+ Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khơ một vụ trên sườn núi.
+ Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
+ Nghề thủ công phát triển ở người Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên.
+ Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"> II.2. Từ sau năm 1975
Từ sau năm 1975, các nhà khoa học Việt Nam mới bắt đầu có những đóng góp thực sự vào việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa và dân tộc Chăm
Ngọc Canh, “Nghệ thuật múa Chăm”, NXB KHXH, Hà Nội, 1988; Phan Xuân Biên, “Người Chăm ở Thuận Hải”, Sở VH – TT Thuận Hải, 1989; Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Văn hóa Chăm, Nxb KHXH, Hà Nội, 1991; Ngơ Văn Doanh, Văn hóa Chămpa, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993; Phan Thị Yến Tuyết, Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993; Ngô Văn Doanh, Lễ hội Rija Nưgar của người Chăm, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998;…
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>2.1. Thời kỳ Lâm Ấp (192 – 749)</b>
Vào năm 192, nhân trong xứ có loạn, con của viên Công tào huyện Tượng Lâm là Khu Liên nổi dậy khởi nghĩa, giết huyện lệnh và tự lập làm vua
biên giới phía bắc của nhà nước Lâm Ấp kéo dài tới thành Khu Túc – địa danh giữa Huế và Quảng Trị, lại có ý kiến cho rằng, đường biên giới ấy kéo dài đến sông Thọ Lãnh (sông Gianh). Lâm Ấp về phía nam giáp với Phù Nam
Vì Khu Liên khơng có con trai nên sau khi chết, cháu ngoại ông là Phạm Hùng (278 – 280) lên nối ngôi
Phạm Hùng chết, con trai là Phạm Dật lên ngôi. Triều đại của Phạm Dật kéo dài khá lâu, hơn 50 năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Mãi tới năm 420, sử liệu Trung Quốc mới nói tới tên vị vua mới của Lâm Ấp tên là Phạm Dương Mại. Dương Mại tiếng Chăm cổ là Yan Mah (vị lãnh chúa vàng hay vua vàng)
Sau khi Dương Mại mất, con trai ông lên nối ngôi và vẫn lấy tên là Phạm Dương Mại (Phạm Dương Mại II). Năm 433, Dương Mại II sai sứ sang cống nhà Tống và xin lãnh đất Giao Châu để cai trị nhưng triều đình nhà Tống không cho. Dương Mại II tức giận và liên tục cho quân cướp phá Giao Châu. Triều đình nhà Tống tức giận, sai thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đem quân đi đánh Lâm Ấp.
Sau khi Dương Mại II mất, người nối ngôi là Phạm Phần Thành. Và sau khi Phạm Phần Thành mất thì trong nước Lâm Ấp có loạn. Sau Phạm Phần Thành, tên các vị vua chúa Lâm Ấp đều được các nhà khoa học tìm ra tương đương với các tên bằng Phạn ngữ ghi trong các bia ký cổ Chămpa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"> <b>2.2. Thời kỳ Hoàn Vương (758 – 859)</b>
Từ sau năm 749, cái tên Lâm Ấp khơng cịn xuất hiện trong sử sách Trung Quốc nữa, cho đến gần một chục năm sau (năm 758), Chămpa lại xuất hiện trong các thư tịch cổ Trung Quốc với cái tên mới: Hoàn Vương Sự thay đổi tên hiệu là Hoàn Vương của Chămpa
tương ứng với một thời kỳ mới khá quan trọng trong lịch sử của vương quốc Chămpa: thời kỳ bá quyền của các tỉnh phía nam. Cả một thời gian dài tới một thế kỷ này của lịch sử Chămpa được đặc trưng bởi sự thiếu vắng hẳn các bia ký ở phía bắc và sự xuất hiện khá đậm đặc các bia ký ở phía nam (chủ yếu là Kauthara tức vùng Nha Trang và Panduranga tức vùng Phan Rang)
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"> Kế vị Prathivindravarman là cháu trai của ông tên là Satyavarman. Vị vua thứ hai này của vương triều Hoàn Vương đã để lại một số bia ký quan trọng ở đền Pô Nagar
khoảng năm 784 và 787, sau khi mất Satyavarman được phong tên thụy là Isvaraloka và con trai ông là Indravarman lên nối ngôi
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">
Indravarman mất vào năm 801 và người em rể của ông là Harivarman lên nối ngôi. Dưới thời Harivarman, nhà nước Chămpa đã mạnh lên cho nên đã nhiều lần đem quân đánh ra phái bắc và đánh vào phía nam. Ngồi ra, các bia ký cũng còn cho biết, vào năm 817 Harivarman đã cho phục hồi thánh đường Pô Nagar và cho xây dựng thêm nhiều thánh đường khác nữa.
Cho đến nay chúng ta không rõ Harivarman ở ngôi tới năm nào nhưng chắc chắn là khá lâu và khi mất đã truyền ngôi lại cho con trai là Vikrantavarman (Vikrantavarman III theo thứ tự trong lịch sử Chămpa). Đây là vị vua cuối cùng của vương triều Hoàn Vương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"> Giai đoạn lịch sử 100 năm của Hoàn Vương là cả một thời kỳ lịch sử khá đặc biệt của vương quốc Chămpa.
Suốt cả một trăm năm ấy, các vua có nguồn gốc phía nam ( vùng Kauthara và Panduranga) đã trị vì, hay đúng hơn là có vị trí bá quyền đối với tất cả vương quốc khác của Chămpa.
Do có sự chuyển dời vị trí trung tâm quyền lực từ bắc vào nam, nên hầu như mọi bia ký hay những cơng trình xây dựng của chính Chămpa thời kỳ này tập trung chủ yếu ở Kauthara và Panduranga. Thậm chí thủ đơ của Chămpa, theo các tài liệu bia ký là Viapurra, cũng được xây dựng tiếp trên cơ sở lâu đài cũ của các dịng họ vua chúa phía nam. Mặc dù cho đến ngày nay chúng ta chưa biết vị trí của Virapurra ở đâu, nhưng chắc là ở một nơi nào đó trong vùng Karthra - Panduranga
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"> Cũng vì trỗi lên từ miền đất gần với Phù Nam rồi Chân Lạp, nên trong đời sống chính trị và văn hóa của Hồn Vương cũng có những khắc biệt so với của các giai đoạn « bắc Chăm ».
Biểu hiện rõ nhất về sự khác biệt này là những quan hệ của Chămpa với các nước Chân Lạp láng giềng và các dân tộc Đông Nam Á hải đảo (đặc biệt là người Giava). Những mối quan hệ đó đã để lại dấu ấn khá đạm nét trong đời sống chính trị và văn hóa của Chămpa thời kỳ này. Không chỉ nội dung mà ngay cả kiến trúc và điêu khắc Chămpa thời Hoàn Vương cũng rất gần với các phong cách đương thời của Chân Lạp và Indonesia.
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"> Sau khi Indravarman II mất, Jaya Shimhavarman lên trị vì. Sau đó là Jaya Saktivarman. Bia ký của hai vương triều này có ghi chép về mối quan hệ giữa Chămpa và Java.
Sau Jaya Saktivarman, lên ngơi trị vì vương triều Indrapura là vị vua có tên là Bhadravarman II. Không một tài liệu nào hiện có ngày nay cho chúng ta biết vị tân quân này có họ hàng như thế nào đối với vị vua trước. Hơn nữa các tài liệu bia ký cịn cho biết Bhadravarman ở ngơi trong một thời gian cũng khá ngắn ngủi( khoảng từ 904 đến 916).
Sau khi Bhadravarman II mất, người kế vị là Indravarman III – con trai của Bhadravarman II. Indravarman III là một trong những nhà hiền triết giỏi nhất, thông thạo nhất sáu bộ sách triết học, các học thuyết của Phật,...
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"> <b>2.4. Chiêm Thành (988 – 1471)</b>
<i><b>2.4.1. Thời kỳ Vijaya (988 – 1177)</b></i>
Khi vua Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Indrapura thì vị vua mới của Chămpa là Indravarman IV chạy thoát vào phương nam và đất nước Chămpa trở nên hỗn loạn. Nhân cơ hội đó, viên quản giáp (viên quan giữ việc binh ở châu) của Lê Đại Hành trong cuộc hành binh đánh Chiêm Thành tên là Lưu Kế Tông đã trốn ở lại, lên làm vua, cai trị miền Bắc Chăm. Không chịu được sự thống trị của Lưu Kế Tông, nhiều người Chăm bỏ xứ chạy sang lánh nạn tận Hải Nam, Quảng Châu.
Hai năm sau khi Lưu Kế Tông công khai lên ngôi vua Chiêm Thành, năm 988, người Chăm tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngơi vua ở Phật Thệ/ Phật Thành (Vijaya – thành Đồ Bàn ở Bình Định hiện nay). Vị vua mới lên này chính là Harivarman II mà các bia ký Chămpa nói tới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"> Sau khi lên ngôi, Harivarman II giữ thái độ nhu hòa với ĐạiViệt, với nhà Tống của Trung Quốc, vua Harivarman II cũng cố giữ mối thân thiện hữu hảo.
Cũng sau khi lên ngơi vua, Harivarman II trở về đóng đơ ở Indrapura và đã cho dựng tấm bia ở Mỹ Sơn vào năm 991. Thế nhưng, chỉ ít năm sau, vào năm 1000, vị vua kế vị Harivarman II mà cho đến nay chúng ta chỉ biết với tên gọi không đầy đủ là Yang Puku Vijaya Sri đã cho dời đô về Vijaya.
Từ Harivarman II trở đi, lịch sử Chămpa lật tiếp sang một trang mới – thời kỳ Vijaya.
Từ sau thời điểm năm 1000 đến năm 1050 chúng ta khơng hề có một tài liệu bia ký nào để xác định tên tuổi các vua Chămpa và để hiểu về tình hình đất nước Chămpa trong giai đoạn này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"> Vào năm 1042, tư liệu mới cho biết vị vua mới của Chămpa lúc này là Sạ Đẩu. Ngay sau khi lên ngôi được một năm, vào năm 1043, Sạ Đẩu đã sai quân đi cướp bóc vùng ven biển của Đại Việt và đã bị tướng của Lý Cao Tông là Đào Xứ Trung dẹp yên.
Sau thất bại nặng nề này, vào năm 1044, một quý tộc có nguồn gốc khơng rõ đã lên ngôi vua Chămpa và lấy tên hiệu là Jaya Paramesvaravarman. Bắt đầu từ ông vua này trở đi, chúng ta lại có những bia ký nói về nội tình của Chămpa. Theo các bia ký, Jaya Paramesvaravarman phải đương đầu với chính người Chiêm ở Panduranga « ln luôn nổi dậy chống lại nhà vua » và khơng thừa nhận ơng. Vì thế nên vào năm 1050, vị tân vương đã phái cháu mình là Yuvaraja Sri Devaraja Mahasenapati đi chinh phục Panduranga. Yuvaraja Sri Devaraja Mahasenapati đã ổn định được tình hình ở Panduranga và đã cho dựng lên ở đây một linga và một cột chiến thắng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"> Ngoài ra, việc triều cống triều đình nhà Lý và giữ quan hệ tốt với Trung Quốc vẫn được Jaya Paramesvaravarman quan tâm. Không chỉ Jaya Paramesvaravarman mà hai vị vua kế nghiệp ông là Bhadravarman III và Rudravarman II vẫn tiếp tục giữ những mối quan hệ tốt với Đại Việt. Riêng Rudravarman (lên ngôi năm 1061) đã liên tiếp cử ba sứ bộ sang triều đình nhà Lý vào những năm 1063, 1065 và 1068.
Thế nhưng ngay từ lúc lên ngôi, Rudravarman III đã bắt đầu lo chuẩn bị lực lượng để đánh Việt Nam. Và năm 1068 Rudravarman III (tức Chế Củ) đem quân đánh vào biên giới Đại Việt. Lập tức, ngay năm sau (năm 1069) vua Lý Thánh Tôn thân chinh đem quân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính/ Bố Chánh để được tha về nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"> vào năm 1074, một vị hồng thân có tên là Than với sự giúp đỡ của em trai ơng là hồng thân Pan đã nắm chính quyền và ra sức « mang lại cho nước Chămpa sự tráng lệ cũ vốn có». Than lên ngôi vua với danh hiện là Harivarman IV. Trong suốt thời gian trị vì, Harivarman IV đã làm cho Chămpa trở nên hùng mạnh.
Sau khi Harivarman IV mất vào năm 1081, con trai ông là Jaya Indravarman II đã lên ngôi. Nhưng vị tân vương còn quá trẻ và bất lực trong việc cai trị đất nước nên đã sau một tháng đã bị phế truất để ông chú là hoàng thân Pan nắm giữ vương quyền
Đến năm 1139, các tư liệu lại nhắc đến tên một vị vua mới của Chămpa là Jaya Indravarman III. Trong thời kỳ này, Jaya Indravarman III đã liên kết với Chân Lạp để chống lại Đại Việt nhưng thất bại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"> Bị thất bại trước Đại Việt, vua Chân Lạp quay sang xâm lược Chămpa và làm chủ toàn bộ đất nước này. Vua Chămpa Jaya Indravarman III bị mất tích. Bắt đầu từ đây là cả một thời kỳ xảy ra chiến tranh triền miên giữa Chămpa và Chân Lạp.
Khi thủ đô và phần lớn đất nước bị người Khmer chiếm đóng, vị tân vương Jaya Indravarman IV lên nối ngôi năm 1145 phải bỏ chạy vào ẩn náu ở Panduranga. Một vài năm sau ông mất, con trai ông là Sivanandana lên ngôi vua Chăm vào năm 1147, lấy danh hiệu là Jaya Harivarman I.
Trong suốt 17 năm trị vì, Jaya Harivarman I phải chống trả lại cả thù trong lẫn giặc ngoài để bảo vệ và củng cố đất nước. Ngay sau khi vừa mới lên ngôi (1147), vị tân quân này phải đương đầu với cuộc tiến đánh của người Khmer. Đánh đuổi xong người Chân Lạp, Jaya Harivarman I lại phải dẹp loạn ngay trong nội bộ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">