Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

NGHIÊN CỨU YẾU TỐ TÂM LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI RA QUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 89 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>HỌC VIỆN NGÂN HÀNGKHOA TÀI CHÍNH</b>

<b>KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP</b>

<i><b>ĐỀ TÀI:</b></i>

<b>NGHIÊN CỨU YẾU TỐ TÂM LÝ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI RAQUYẾT ĐỊNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN THỊ TRƯỜNG</b>

<b>CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM</b>

<b> Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Thu Trang Lớp : K22TCI</b>

<b> Khóa học: : 2019-2023 Mã sinh viên : 22A4011017</b>

<b> Giảng viên hướng dẫn : TS. Phạm Tiến Mạnh</b>

<b>Hà Nội, tháng 05 năm 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nghiên cứu yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập, dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo của TS. Phạm Tiến Mạnh. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Các số liệu báo cáo trong bảng biểu phục vụ việc nhận xét, đánh giá các chỉ tiêu trong đề tài được chính tác giả thu thập và thống kê từ các nguồn hợp lệ khác nhau và được ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các số liệu, thơng tin, trích dẫn sử dụng trong khóa luận có nguồn gốc rõ ràng, trích dẫn theo đúng quy định. Nếu có phát hiện bất kỳ sự gian lận nào, tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung bài khóa luận tốt nghiệp của mình.

<i>Hà Nội, ngày … tháng … năm 2023</i>

<b>Sinh viên</b>

<b> Nguyễn Thị Thu Trang</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Với tình cảm và lịng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Học viện Ngân Hàng, các thầy cô và đặc biệt là các thầy cơ khoa Tài chính đã cho em một quãng thời gian học tập, trau dồi kiến thức trong suốt bốn năm sinh viên vô cùng ý nghĩa và đáng nhớ. Thầy cô đã luôn nhiệt tình giảng dạy, chia sẻ kiến thức và đồng hành cùng chúng em trong suốt quãng thời gian qua.

Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn đến TS. Phạm Tiến Mạnh, giảng viên đã hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Cảm ơn thầy đã ln hỗ trợ hết mình và ln cố gắng giải đáp tất cả những thắc mắc về kiến thức cũng như luôn đồng hành cổ vũ, động viên tinh thần trong suốt quá trình làm bài của em. Cảm ơn thầy đã dành thời gian góp ý, chỉnh sửa cho bài nghiên cứu được hoàn thiện một cách đầy đủ và chỉn chu nhất. Em luôn biết ơn và trân trọng những lời chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của thầy giúp em có những hành trang q giá khơng chỉ trong bài nghiên cứu này mà còn là trong suốt quá trình học tập và làm việc sau này của em.

Cuối cùng, em xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã luôn đồng hành, động viên ủng hộ em hồn thành bài khóa luận này.

Tuy nhiên, vì kiến thức chun mơn và khả năng lý luận cịn hạn chế nên nội dung của khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận sự góp ý, chỉ bảo và chỉnh sửa thêm của các thầy cơ để em có thể hồn thiện nghiên cứu và rút kinh nghiệm trong những bài nghiên cứu tới.

Em xin chân thành cảm ơn!

<i>Hà Nội, ngày … tháng … năm 2023</i>

<b>Sinh viên</b>

<b>Nguyễn Thị Thu Trang</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÂM LÝ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ CÁ</b>

<b>1.1. Tâm lý hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán 4</b>

<b>1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý, hành vi giao dịch của nhà đầu</b>

<b>1.2. Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của nhà đầu tư cá</b>

<b>1.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi</b>

<b>1.3.2. Các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam</b> 21

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>2.2. Dữ liệu nghiên cứu</b> 24

<b>2.3.2. Cơ sở lý thuyết của các hệ số trong đánh giá mơ hình</b> 26

<b>4.2. Kiến nghị giải pháp kiểm soát tâm lý trong quá trình ra quyết định đầu</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>DANH MỤC BẢNG BIỂUDANH MỤC BẢNG</b>

Bảng 3. 2: Hệ số Outer Loadings (đã loại bỏ các biến không hợp lệ) 40 Bảng 3.3: Hệ số Cronbach’s alpha và Composite reliability 41 Bảng 3.4: Hệ số Cronbach’s alpha và Composite reliability 42

Bảng 3.6: Hệ số tải chéo Crossing Loading và hệ số tải ngồi 43

Bảng 3.8: Hệ số R bình phương và R bình phương hiệu chỉnh 45

Bảng 3.11: Kết quả về chiều hướng tác động của các biến độc lập lên biến

<b>DANH MỤC BIỂU ĐỒ</b>

Biểu đồ 3.1: Giới tính của các nhà đầu tư đã tham gia khảo sát 35 Biểu đồ 3.2: Độ tuổi của các nhà đầu tư tham gia khảo sát 36 Biểu đồ 3.3: Trình độ học vấn của các nhà đầu tư tham gia khảo sát 37 Biểu đồ 3.4: Ngành nghề của các nhà đầu tư tham gia khảo sát 37 Biểu đồ 3.5:Thu nhập của các nhà đầu tư tham gia khảo sát 38 Biểu đồ 3.6: Số năm tham gia đầu tư của các nhà đầu tư tham gia khảo sát 38

<b>LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Ngày nay, thuật ngữ “chứng khoán” hay “thị trường chứng khoán” đã dần trở nên phổ biến trong đời sống xã hội nói chung và đời sống kinh tế nói riêng. Tuy

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nhiên, TTCK Việt Nam so với thế giới vẫn được coi là một thị trường non trẻ. Theo đó, từ năm 1980 trở lại đây, nền kinh tế nước ta có sự chuyển mình quan trọng về bản chất: chuyển từ nền kinh tế tập trung – bao cấp thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dẫn theo đó, khu vực kinh tế tư nhân được phát triển cả về số lượng lẫn quy mô, tạo tiền đề hình thành nên TTCK tự do, hiện đại. Song, phải đến năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 75-CP về việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước năm 1998, với sự ra đời của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khốn, TTCK tại Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động. Ngoài ra, đến khi Luật chứng khoán đầu tiên của nước ta được ra đời vào năm 2007, hoạt động của TTCK mới chính thức được hoạt động dựa trên một khung pháp lý cơ bản đầy đủ.

Căn cứ các thông tin nêu trên, có thể rút ra rằng TTCK của Việt Nam cịn vơ cùng mới mẻ, kéo theo đó là việc các NĐT, đặc biệt là các NĐT cá nhân cũng khó có được những nhận thức, tư duy thực sự hiệu quả khi tham gia thị trường. Thực tiễn cho thấy NĐT cá nhân là chủ thể dễ bị “tổn thương” nhất trên TTCK. Bởi lẽ, phần lớn họ là những người chưa trang bị đủ kiến thức, tư duy đầu tư đúng đắn, dễ bị dao động, thậm chí thao túng bởi những thông tin liên quan tới thị trường. Dưới sự tác động bởi các yếu tố khách quan lẫn yếu tố chủ quan của chính NĐT, việc giao dịch của các chủ thể này bị chi phối tương đối lớn bởi các hiện tượng tâm lý sai lệch, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi ra quyết định đầu tư. Trong khi đó, NĐT cá nhân lại đóng vai trị vơ cùng lớn đối với TTCK. Theo thống kê năm 2021, dù thị trường đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của Đại dịch Covid-19, tại Việt Nam, NĐT cá nhân chiếm tới xấp xỉ 90% tổng lượng giao dịch trên TTCK, khiến chỉ số tăng của VN-Index đạt khoảng 20%. Trong khi đó, giao dịch của NĐT cá nhân tại Hàn Quốc và Đài Loan trong cùng năm là 75% và 70%; mức tăng trưởng của thị trường hai quốc gia này chỉ đạt 10% (Diệu Thanh, 2021).

Từ số liệu nêu trên, có thể thấy một chủ thể góp phần tối quan trọng vào sự tăng trưởng của TTCK nhưng lại có hành vi ra quyết định phụ thuộc vào các trạng thái tâm lý sai lệch thì hồn tồn có thể dẫn tới khả năng gây ra những đe dọa mất ổn định kinh tế vĩ mơ, an ninh tài chính khơng được bảo đảm. Hậu quả này sẽ xảy ra khi xuất phát từ những tâm lý sai lệch, phần đông các NĐT cá nhân đưa ra những

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

quyết định đầu tư phản khoa học, trái với thực tiễn thị trường và dẫn đến gây hại cho TTCK.

Nhận thức được vấn đề như trên, tác giả quyết định thực hiện đề tài “Nghiên cứu yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam” để làm rõ các yếu tố tâm lý ảnh hưởng lớn tới hành vi quyết định đầu tư của NĐT cá nhân, từ đó rút ra kiến nghị để khắc phục những mặt tiêu cực, phát huy những mặt tích cực của các loại tâm lý nêu trên, nhằm mục đích trang bị cho NĐT các kiến thức, kỹ năng mới khi tham gia TTCK.

<b>2. Mục đích nghiên cứu</b>

Thứ nhất, định nghĩa và chỉ rõ một số yếu tố tâm lý sai lệch ảnh hưởng tới hành vi ra quyết định của NĐT cá nhân trên TTCK.

Thứ hai, trên cơ sở phân tích số liệu khảo sát thực tế và các phương pháp thống kê, phân tích khoa học, chỉ ra các yếu tố tâm lý ảnh hưởng lớn tới quyết định của NĐT cá nhân trong thời điểm hiện nay.

Thứ ba, từ thực tiễn và kết quả nghiên cứu, đưa ra những kiến nghị, đề xuất về bài học cho các NĐT cá nhân trong việc hình thành trạng thái tâm lý đúng đắn, hiệu quả khi tham gia giao dịch trên thị trường; cũng như các kiến nghị khác về chính sách và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trên TTCK.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

Thứ nhất, về đối tượng nghiên cứu, đề tài nghiên cứu các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi ra quyết định của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam. Trong đó, bài viết tập trung làm rõ các yếu tố này ảnh hưởng ra sao đối với hiệu quả của quyết định đầu tư của các NĐT.

Thứ hai, về phạm vi nghiên cứu, đề tài nghiên cứu tâm lý của các NĐT trên TTCK ở Việt Nam tại Sở Giao dịch Chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh (sàn HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (sàn HNX).

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Những phương pháp định tính và định lượng được kết hợp sử dụng trong bài bao gồm phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê mô tả, điều tra thông qua bảng hỏi và khảo sát thực tế đối với 203 NĐT cá nhân.

<b>5. Những đóng góp mới của khóa luận</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Đề tài chỉ ra những yếu tố tâm lý và mức độ tác động của chúng tới hành vi ra quyết định của NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đề xuất những kiến nghị cụ thể đối với các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các chủ thể tham gia TTCK.

<b>6. Kết cấu của khóa luận</b>

Đề tài này được cấu thành bởi các chương và luận điểm như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về tâm lý hành vi nhà đầu tư cá nhân trên TTCK Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả nghiên cứu Chương 4: Kết luận và khuyến nghị

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÂM LÝ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂNTRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN</b>

<b>1.1. Tâm lý hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán1.1.1. Các khái niệm liên quan</b>

<i><b>1.1.1.1 Chứng khoán và thị trường chứng khoán</b></i>

Chứng khoán theo Luật Chứng khoán 2019 quy định, được gọi là các công cụ hay tài sản tài chính bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu kí và các loại chứng khốn khác do Chính phủ quy định. Chứng khốn được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử (Nguyễn Thanh Phương, 2017, tr.29), thể hiện quyền sở hữu hợp pháp của người sở hữu (hay còn gọi là NĐT) với các tài sản đó. Chứng khốn là một loại hàng hóa đặc biệt, được giao dịch trên TTCK từ những người có nguồn vốn nhàn rỗi với mục đích tạo ra giá trị và thu lại lợi nhuận trong tương lai.

TTCK được chia làm hai loại là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. “Đây là thị trường để giao dịch, mua bán các loại chứng khoán giữa những cá nhân, tổ chức tham gia vào thị trường (Nguyễn Thanh Phương, 2017, tr.21). Họ trao đổi cung- cầu các chứng khoán nợ và chứng khoán vốn. Trên thị trường, các tổ chức tham gia giao dịch bao gồm tổ chức phát hành, các NĐT chứng khoán,…

<i><b>1.1.1.2 Nhà đầu tư cá nhân và tâm lý hành vi</b></i>

<b>* Nhà đầu tư cá nhân:</b>

Một trong những chủ thể tham gia và đóng vai trị quan trọng, đảm bảo tính thanh khoản của thị trường là các NĐT cá nhân. Theo khoản 16 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019, nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư trên thị trường chứng khốn. Như vậy, có thể hiểu NĐT cá nhân là các cá nhân/thể nhân có hoạt động đầu tư trên TTCK. Họ, cùng với các NĐT tổ chức, là một trong các chủ thể tham gia TTCK với mục đích sinh lời.

NĐT cá nhân có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, mức độ đa dạng hóa danh mục đầu tư cũng như khối lượng và giá trị giao dịch nhỏ hơn nhiều so với NĐT tổ chức. Bởi lẽ, các tổ chức, đặc biệt là các tổ chức kinh tế, trên TTCK thường tập hợp những người có chun mơn về đầu tư nên

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thường có chiến thuật, phương pháp đầu tư hiệu quả hơn những cá nhân trên cùng thị trường. Mặt khác, các tổ chức có nguồn lực tài chính (nguồn vốn), về mặt bằng chung, dồi dào hơn từng cá nhân cụ thể. Do đó, khối lượng và giá trị giao dịch của các cá nhân trên TTCK cũng nhỏ hơn so với tổ chức.

Thứ hai, các NĐT cá nhân thường có kiến thức tài chính về chứng khốn hạn chế. Theo đó, kiến thức tài chính về chứng khốn ở đây được hiểu là sự hiểu biết về TTCK và trong lĩnh vực kinh doanh, tài chính doanh nghiệp. Về mặt bằng chung, NĐT cá nhân, khi tham gia đầu tư, chưa trang bị đầy đủ các kiến thức nói trên, ví dụ như chưa thực sự hiểu biết về thị trường mình tham gia (TTCK), chưa có những kiến thức vĩ mô, vi mô về lĩnh vực kinh tế - tài chính nói chung và lĩnh vực đầu tư chứng khốn nói riêng (TS. Đặng Cơng Hồn, 2022). Điều này khiến những NĐT cá nhân dễ trở thành đối tượng dễ bị “dẫn dắt” bởi những tâm lý sai lệch trong q trình đầu tư chứng khốn.

Thứ ba, các NĐT cá nhân thường khơng có chiến lược đầu tư dài hạn và tuân thủ các nguyên tắc đầu tư cụ thể. Họ dễ chạy theo xu hướng đám đông và ảnh hưởng từ bên ngồi, từ đó, tiến hành giao dịch theo những thông tin chưa được kiểm chứng (Tấn Minh, 2022). Cộng với sự thiếu hiểu biết về đầu tư chứng khoán, đặc điểm này khiến NĐT cá nhân xa rời khỏi những chiến lược, chiến thuật đầu tư bài bản và những tư duy đầu tư đúng đắn.

<b>* Tâm lý hành vi</b>

“Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nảy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ xã hội” (Giáo trình Tâm lý học đại cương của Trường Đại học Luật Hà Nội). Thêm vào đó, “hành vi là xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện ra bên ngồi bằng lời nói, cử chỉ nhất định. Hành vi có thể chỉ đơn thuần chứa đựng những nội dung kỹ thuật. Song, trong nhiều trường hợp, hành vi có thể vượt xa khỏi các giới hạn kỹ thuật, mang những ý nghĩa tích cực hoặc tiêu cực về mặt xã hội. Lúc này, hành vi đã chứa đựng những nội dung xã hội sâu sắc và được hiểu dưới một khái niệm mới: cách cử sự. Cách xử sự là những hành vi thể hiện quan điểm, thái độ của chủ thể đối với người khác, với xã hội, với

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

các chuẩn mực đạo đức của xã hội” (trích Giáo trình Tâm lý học đại cương- Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr.81).

Mối quan hệ giữa tâm lý và hành vi được thể hiện theo cơ chế các hiện tượng tinh thần nảy ra trong đầu óc con người (tâm lý) gắn liền và điều hành mọi hành động (biểu hiện của hành vi con người). Nói cách khác, tâm lý là nguyên nhân còn hành vi là kết quả các hiện tượng tâm lý.

<b>1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý, hành vi giao dịch của nhà đầu tư cánhân trên thị trường chứng khoán</b>

<i><b>1.1.2.1 Các yếu tố khách quan</b></i>

<b>a, Yếu tố kinh tế* Yếu tố vĩ mô:</b>

<i>Thứ nhất, yếu tố lạm phát: "Lạm phát là một căn bệnh mãn tính, những lúc</i>

ngớt cơn chỉ là thời kỳ ủ bệnh và khi phát cơn thì như một ngọn lửa bùng ( Maurice Flamant, 1992). Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông, dẫn tới sự mất giá của đồng tiền. Khi lạm phát tăng cao người tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ, khi đó sức mua sẽ giảm đi, nhu cầu về tiêu dùng giảm sút dẫn tới doanh thu giảm. Bên cạnh đó, lạm phát tăng làm chi phí đầu vào tăng, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận doanh nghiệp. Điều này làm cho cổ phiếu của doanh nghiệp trở nên kém hấp dẫn đối với NĐT. Việc kiểm sốt lạm phát ln là một trong những mục tiêu quan trọng trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Kinh tế có ổn định và phát triển bền vững, NĐT mới có thể yên tâm đầu tư trên thị trường tài chính và đặc biệt là thị trường chứng khoán.

<i>Thứ hai, yếu tố lãi suất: Theo kết quả của nhóm tác giả nghiên cứu, yếu tố vĩ</i>

mơ (trong đó bao gồm yếu tố lãi suất) có ảnh hưởng lớn nhất tới việc quyết định đầu tư chứng khoán của các NĐT trên thị trường (TS. Phùng Việt Hà, Ngô Thị Hồng Ngọc, Vũ Văn Thế, Hồ Diễm Quỳnh, 2022). Lãi suất giảm là một tín hiệu tích cực trên TTCK bởi khi lãi suất giảm sẽ làm giảm áp lực trả lãi, các cơng ty có thể dễ dàng huy động vốn, sử dụng địn bẩy tài chính để thúc đẩy, phát triển kinh doanh, gia tăng lợi nhuận và làm giá cổ phiếu tăng. Ngược lại khi lãi suất tăng, doanh nghiệp khó khăn hơn trong việc tiếp cận tới các nguồn vốn, áp lực trả lãi lớn,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

chi phí dùng cho sản xuất kinh doanh cũng tăng khiến lợi nhuận kinh doanh giảm. Từ đó khiến giá cổ phiếu giảm.

Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng có tác động không nhỏ đến tâm lý hành vi của NĐT trên TTCK. Chính sách tài khóa và tiền tệ là công cụ điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô, giúp nền kinh tế ổn định và phát triển. “Các cú sốc trong quyết định chính sách tiền tệ ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tâm lý NĐT” (A Kurov, 2010). Việc thực hiện chính sách tiền tệ thơng qua điều chỉnh mức cung tiền, lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động tới lượng cung tiền và số nhân tiền, tác động trực tiếp đến các lĩnh vực lưu thông tiền tệ, đồng thời thông qua tác động đến tỷ giá hối đoái bằng cách sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối. Việc tỷ giá tăng hay giảm cũng có bất lợi đối với từng mơ hình kinh doanh cơng ty. Tỷ giá tăng sẽ có tác động tiêu cực đến những doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài. Ngược lại khi tỷ giá giảm, lại có tác động khơng tốt đến các doanh nghiệp xuất khẩu. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hành vi NĐT khi tham gia vào các mã cổ phiếu của những doanh nghiệp liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.

Ngồi ra, cũng cịn những yếu tố vĩ mơ khác trên TTCK có tác động đến tâm lý đầu tư của các NĐT như tỷ lệ thất nghiệp, chính sách tài khóa, tăng trưởng GDP,..

<b>* Yếu tố vi mô:</b>

Bao gồm các yếu tố về ngành và lĩnh vực như: tiềm năng tăng trưởng, mức độ cạnh tranh, tỷ suất sinh lời và tỷ lệ rủi ro của ngành. Trước khi chọn một mã cổ phiếu cụ thể, các NĐT có xu hướng xem xét triển vọng của ngành, đánh giá về tiềm năng của ngành đó trong thời gian tới so với các ngành khác, đánh giá tỷ suất sinh lợi của ngành cũng như mức độ rủi ro đi kèm để có cái nhìn tổng quát về thị trường, về ngành mà bản thân lựa chọn đầu tư.

Thêm vào đó, yếu tố đến từ bản thân doanh nghiệp, về hiệu quả hoạt động cũng như mức độ cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong ngành là một trong những yếu tố then chốt dẫn đến các quyết định của NĐT như các dự án đang và sắp triển khai, tình hình doanh nghiệp, bộ máy lãnh đạo của công ty, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, truyền thông, v.v…là các yếu tố giúp NĐT quan tâm và cân nhắc. Có thể chỉ ra rằng, tám yếu tố có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư là: hiệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

quả hoạt động trong quá khứ của cổ phiếu công ty, sự ổn định của cơng ty, thiện chí của công ty, danh tiếng của công ty trong ngành, cổ tức đã trả, thu nhập dự kiến của công ty và cổ tức dự kiến (Lingesiya Kenghataran, 2019). Có thể thấy, đây là những yếu tố đến từ nội tại của doanh nghiệp và có ảnh hưởng lớn đến hành vi ra quyết dịnh đầu tư của các NĐT trên thị trường.

<b>b, Yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội</b>

Các yếu tố chính trị, văn hố, xã hội là các yếu tố có tính ảnh hưởng nhất định tới tâm lý NĐT trên TTCK, cụ thể như sau:

<i>Một là, các yếu tố chính trị: Đặc trưng của chính trị là sự áp đặt quyền lực của</i>

Nhà nước (hoặc các chủ thể gắn với quyền lực nhà nước) lên các mặt của đời sống xã hội, trong đó, có TTCK. Khi một mệnh lệnh chính trị được ban hành hoặc khi tình hình chính trị có biến động, TTCK cũng sẽ có những sự biến động theo. Nhận thức được điều này, các NĐT cá nhân cũng sẽ xuất hiện các tâm lý tác động đến hành vi đầu tư khi gặp các sự kiện này. Trong các nghiên cứu về yếu tố chính trị ảnh hưởng đến thị trường chứng khốn, từ đó tác động lên tâm lý nhà đầu tư, nhìn chung chúng đều khẳng định tầm quan trọng của yếu tố chính trị và thể chế trong quyết định đầu tư. Một mơi trường chính trị pháp luật tốt sẽ tạo điều kiện có lợi cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế (Globerman và Shapiro (2003), Daniel Kaufmann và cộng sự (2008), Shaomin Li và Larry Filer (2007).

<i>Hai là, văn hoá, xã hội cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động giao dịch</i>

chứng khoán của NĐT. Trong một nghiên cứu của Lucey, ơng đã phân tích ảnh hưởng của yếu tố xã hội đối với việc định giá cổ phiếu. Những người có tâm trạng tốt đưa ra quyết định tích cực hơn” (Lucey, 2005). Từ việc định giá cổ phiếu, NĐT sẽ đưa ra quyết định lựa chọn cổ phiếu hay nói cách khác chúng ảnh hưởng tới hành vi ra quyết định đầu tư của các NĐT trên thị trường. Thêm vào đó, sự kiện văn hoá, xã hội sẽ tác động tới nhận thức, từ đó hình thành nên các hiện tượng tâm lý của NĐT trên TTCK. Ví dụ, các hoạt động của một người nghệ sĩ đại diện nhãn hàng về bản chất là hoạt động văn hoá, xã hội. Song, nếu xảy ra bê bối, tâm lý NĐT có thể trở nên tiêu cực đối với chứng khoán của doanh nghiệp mà người nghệ sĩ này đại diện,...

<b>c, Thông tin trên Internet </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Tin tức là một trong những yếu tố quan trọng mà hầu hết các NĐT đều rất quan tâm. Việc tiếp nhận và chọn lọc thơng tin trên Internet giúp NĐT có thêm nhận thức, đánh giá về bức tranh toàn cảnh hay cụ thể từng doanh nghiệp một cách rõ nét, giúp NĐT có thêm dữ kiện để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, thơng tin trên Internet cũng có những ảnh hưởng tiêu cực như: có những thơng tin khơng chính xác, mang tính chất định hướng dư luận, hoặc mang tính Fomo<small>1</small>, … làm ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của NĐT bị sai lệch, hiệu quả đầu tư bị giảm sút. Một trong những ví dụ điển hình có thể kể đến thông qua sự kiện bán tháo cổ phiếu của Tập đồn Vingroup – Cơng ty Cổ phần (gọi tắt là Tập đồn Vingroup) trong tình trạng thơng tin thất thiệt tràn lan trên internet. Theo đó, ngày 10/7/2022, trên mạng xã hội xuất hiện tin đồn Chủ tịch Tập đồn Vingroup bị “cấm xuất cảnh”. Các NĐT nói chung và NĐT cá nhân nói riêng đã xuất hiện tâm lý hoang mang và bất an. Điều này khiến khối lượng bán nhóm cổ phiếu họ Vingroup tăng đáng kể, khiến nhóm cổ phiếu giảm sâu. Đến chiều ngày 11/7/2022, khi Bộ Cơng an khẳng định thơng tin nói trên là thất thiệt, các cổ phiếu họ Vingroup mới thu hẹp đà giảm (Sơn Nhung, 2022).

<i><b>1.1.2.2 Các yếu tố chủ quan</b></i>

Các yếu tố thuộc về bản thân NĐT bao gồm: giới tính, độ tuổi, kiến thức, mục tiêu lợi nhuận, khẩu vị rủi ro, tính cách và thu nhập của NĐT.

<i>Thứ nhất, yếu tố giới tính: đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự khác biệt về</i>

giới tính có thể dẫn đến sự khác biệt tương đối trong quan điểm, hành vi ra quyết định đầu tư trên thị trường. “Nữ giới ngại rủi ro hơn nam giới” (Bernasek & Shwiff, 2001), (Powell & Ansic, 1997), (Jianakoplos & Bernasek, 1998). Họ có xu hướng đầu tư ổn định, dễ quản lý, mức độ chấp nhận rủi ro cực thấp bởi vậy hành vi đầu tư của họ khá thận trọng. Ở nam giới họ ưa thích mạo hiểm và có sự tự tin thái q nên đơi khi hiệu quả đầu tư không cao. Với phụ nữ, họ rất cẩn thận và an tồn vì vậy họ nghiên cứu rất kĩ mỗi khi quyết định đầu tư. Kết quả là nữ giới thường giao dịch ít hơn, tuy nhiên mặt bằng chung lại có hiệu quả tốt hơn. Nhìn chung, sự khác biệt về giới tính có ảnh hưởng khá lớn đến hành vi giao dịch của các NĐT trên thị trường. Ngày xưa, phụ nữ đầu tư rất ít, nhưng ngày nay số lượng nữ giới tham gia đầu tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

ngày càng tăng lên. Điều đó chứng tỏ suy nghĩ và hành vi của họ cũng có nhiều thay đổi đáng kể trong lĩnh vực này.

<i>Thứ hai là yếu tố độ tuổi: nghiên cứu về tâm lý học cho thấy “Có ít các NĐT</i>

lớn tuổi bị cuốn vào các hoạt động đầu tư mạo hiểm trên TTCK” (Alok Kumar, 2008). Người lớn tuổi thường có xu hướng thích sự an tồn, khẩu vị rủi ro thấp. Bên cạnh đó, khả năng tiếp nhận những thông tin và cập nhật kiến thức mới là vô cùng hạn chế nên họ thường có xu hướng đầu tư các tài sản có mức độ an tồn cao, có rất ít NĐT lớn tuổi đầu tư mạo hiểm trên thị trường, họ thận trọng với quyết định đầu tư của mình, chính vì thế thường bỏ lỡ những cơ hội đầu tư tốt. Ngược lại, những NĐT trẻ tuổi lại có xu hướng chấp nhận rủi ro cao để mang lại lợi nhuận cao hơn.

<i>Thứ ba, kiến thức NĐT: Trước đây, khi TTCK còn khá mới lạ, đối tượng các</i>

NĐT tham gia hầu hết đều là những người có vốn hiểu biết và có kiến thức trên thị trường. Tuy nhiên, vài năm gần đây khi làn sóng uptrend vào thời điểm đại dịch Covid-19 đã thu hút rất nhiều NĐT thiếu kiến thức, thấy lợi nhuận cao nên lao vào thị trường, nghe theo những nguồn thông tin khơng tin cậy thay vì trang bị kiến thức đẩy đủ. Kết quả là, rất nhiều NĐT thất bại và mất rất nhiều tiền khi thị trường có nhiều biến động khơng mấy tích cực. Điều này chứng tỏ, kiến thức của NĐT có ảnh hưởng trong quyết định đầu tư và hành vi giao dịch của họ. “Hiểu biết tài chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư” (Van Rooij, Lusardi, Dan Alessie, 2011). “ Những người có hiểu biết về tài chính cao sẵn sàng tham gia vào thị trường chứng khoán và thị trường tài chính” (Bucher-Koenen, Lusardi, Alessie, & van Rooij, 2017). Hiểu biết về tài chính là một yếu tố thiết yếu hình thành hành vi tài chính của một NĐT. Những người có kiến thức, có sự hiểu biết sẽ tin vào lựa chọn của mình, khơng bị chi phối bởi đám đông hay những lời đồn đại, họ biết nắm bắt cơ hội và hành động đúng lúc.

<i>Thứ tư, mục tiêu lợi nhuận và khẩu vị rủi ro: “Rủi ro của một dự án đầu tư ảnh</i>

hưởng đến quyết định đầu tư của cá nhân” (Streidwolf, Engelhard Gift, 2018). Nói cách khác, mục tiêu lợi nhuận và khẩu vị rủi ro có tác động lớn tới tâm lý và khả năng đưa ra quyết định của các cá nhân NĐT. Bản thân hai khái niệm này cũng có mối quan hệ tương tác với nhau. Theo đó, khả năng sinh lời cao luôn đi kèm với rủi ro lớn. Khi mục tiêu sinh lời càng lớn thì đồng nghĩa rằng NĐT phải có khả năng

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

chịu đựng những rủi ro đi kèm. Tùy vào mục tiêu lợi nhuận, khả năng chịu đựng rủi ro, NĐT sẽ hình thành nên lối giao dịch riêng, quyết định lựa chọn các tài sản sao cho phù hợp khi tham gia đầu tư trên TTCK.

<i>Thứ năm, thu nhập và nghề nghiệp NĐT: Những NĐT cá nhân tham gia</i>

TTCK thường có nguồn vốn nhàn rỗi, mong muốn có thu nhập thụ động từ các khoản đầu tư. Bởi vậy, thu nhập có ảnh hưởng khơng nhỏ đến hành vi giao dịch của họ. Theo kết quả nghiên cứu của Streidwolf, Engelhard cho thấy hầu hết những người được hỏi đều đồng ý rằng thu nhập ảnh hưởng đến đầu tư của họ, chi phí đầu tư là một yếu tố quan trọng trong quyết định đầu tư cá nhân (Streidwolf, Engelhard, 2018). Thu nhập ổn định, nguồn vốn nhàn rỗi lớn, NĐT có xu hướng đầu tư nhiều hơn, giao dịch nhiều, khối lượng giao dịch cũng lớn hơn và khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác so với những người có thu nhập thấp và khoản tiền để dành cho đầu tư của họ hạn chế. Bên cạnh đó, tính chất cơng việc cũng ảnh hưởng đến hành vi giao dịch, những NĐT có cơng việc bận rộn, đầu tư chứng khốn khơng phải nghề nghiệp chính cũng như khơng có nhiều thời gian để theo dõi tin tức thường xuyên sẽ có những hành vi giao dịch khác so với những NĐT làm việc liên quan tới chun ngành chứng khốn, họ thường giao dịch ít hơn.

<i>Thứ sáu, tính cách, tâm trạng, cảm xúc: Tính cách, tâm trạng, cảm xúc là một</i>

trong những gốc rễ của các hiện tượng tâm lý, hành vi nói chung. Thơng thường, việc có tâm trạng tốt sẽ làm giảm sự thận trọng khi đưa ra quyết định đầu tư, tức là tâm trạng của NĐT có quyết định khơng nhỏ đối với tâm lý e ngại rủi ro (Kliger & cộng sự, 2003). Theo lẽ này, buồn, vui, thất vọng, hay sự háo thắng, nhút nhát,... có tác động rất lớn, định hình tâm lý đầu tư và hành vi đầu tư. Ví dụ, người có tính cách tự cao dễ mang tâm lý tự tin thái quá, ngược lại, người nhút nhát, an toàn lại thường mang tâm lý bi quan, sợ rủi ro khi giao dịch trên thị trường. Mặt khác, một người trong tâm trạng không ổn định cũng sẽ dễ dẫn đến các tâm lý gây ra sai lầm trong hoạt động đầu tư. Đầu tư chứng khoán cần sự logic, tỉnh táo khi đánh giá thơng tin và đưa ra quyết định. Trong khi đó, trạng thái buồn, vui,... khiến con người khó đạt được những u cầu nói trên.

<b>1.1.3. Lý thuyết tài chính hành vi</b>

Lý thuyết tài chính học hành vi ra đời vào những năm 1990, được nghiên cứu

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

từ hai nhà tâm lý học Daniel Kahneman và Amos Tversky, nó là sự kết hợp giữa tâm lý học và tài chính. Lý thuyết nghiên cứu và giải thích các yếu tố tâm lý con người và ảnh hưởng của chúng đến hành vi, lựa chọn quyết định đầu tư của các NĐT, nhà phân tích, nhà quản trị danh mục,... Giả thiết tài chính hành vi là các NĐT trên thị trường khơng hồn tồn suy nghĩ và hành động hợp lý, chưa thực hiện việc tối đa hóa lợi nhuận trong một thị trường hiệu quả. Họ thường có xu hướng lựa chọn theo cảm xúc, dễ đặt niềm tin sai lầm, gây thua lỗ và ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường.

“Lý thuyết tài chính học hành vi dựa trên nền tảng: tâm lý học nhận thức và các hạn chế của đầu tư chênh lệch. Các học thuyết căn bản của tài chính hành vi đều dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường xảy ra” (Giáo trình Quản trị danh mục đầu tư của Học viện Ngân Hàng, tr.207).

Tài chính hành vi bao gồm học thuyết thiên lệch về nhận thức và các hạn chế đối với việc đầu tư chênh lệch giá. Do bài viết có đối tượng nghiên cứu là tâm lý của NĐT trên TTCK nên bài viết chỉ chú trọng nghiên cứu học thuyết thiên lệch về nhận thức (là cơ sở lý luận cho đối tượng nghiên cứu). Theo đó, con người có các dạng hành vi thiên lệch về nhận thức tiêu biểu như sau:

<i>Một là giải quyết vấn đề dựa trên kinh nghiệm: NĐT thường dựa khá nhiều</i>

vào kinh nghiệm đầu tư của bản thân để phân tích và đưa ra lựa chọn, giải quyết vấn đề. Ví dụ, NĐT thường đối chiếu lại với những tình huống đã từng xảy ra trong quá khứ để nhìn nhận và đánh giá sự việc hiện tại, hoặc dựa vào những thông tin mà bàn thân tự thu thập được để đưa ra quyết định đầu tư. Mặc dù, điều đó giúp NĐT có thể nắm bắt và giải quyết vấn đề nhanh chóng nhưng đôi khi lại không hiệu quả với những trường hợp xảy ra những tình huống và chuyển biến ngồi kiểm sốt. Hậu quả là NĐT có thể đưa ra quyết định khơng chính xác và khơng đem lại lợi nhuận tối đa.

<i>Hai là tự tin thái quá: xảy ra khi NĐT tự tin mù quáng vào những lập luận, suy</i>

nghĩ cảm tính về năng lực, kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm của bản thân có thể kiểm sốt được tình huống và đưa ra được những quyết định đúng đắn hoặc quá lạc quan về tương lai. Những NĐT như vậy thường có xu hướng đánh giá quá cao khả năng của mình mà phớt lờ những rủi ro.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>Thứ ba, kế toán theo tâm lý: đề cập đến suy nghĩ, quan điểm của mọi người về</i>

tài chính, nó mang tính chủ quan và thường gây kết quả bất lợi. Nhiều người thường tách bạch các khoản tiền và nghĩ làm như vậy sẽ dễ dàng quản lý được dịng tiền song điều đó chưa thực sự hợp lý. Với những NĐT này, họ thường dùng nhận thức về kế tốn, tài chính của mình để đưa ra những quyết định. Tuy nhiên, vì mang tính chủ quan nên trong quá trình đầu tư, họ sẽ có những nhận thức sai lệch về tiền và lợi nhuận của các khoản đầu tư. Ví dụ, một NĐT chứng khoán đang sở hữu những danh mục đầu tư cổ phiếu gồm: một cổ phiếu đang lãi và một cổ phiều đang lỗ. Thơng thường, kế tốn theo tâm lý thường lựa chọn bán cổ phiếu có lãi thay vì các cổ phiếu lỗ. Bởi lợi ích thuế nhận được cũng như xét về lợi nhuận thì cổ phiếu thua lỗ đang là một khoản đầu tư kém hơn.

<i>Thứ tư, lập khung tư duy: đặc tính này được hiểu là NĐT khơng bao qt cả</i>

tình hình và chỉ tập trung vào một vấn đề hạn hẹp mà bản thân đang suy nghĩ và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho khn khổ đó.

<i>Thứ năm, tư duy đại diện ngắn hạn: Những NĐT này thường có xu hướng</i>

đánh giá, nhận định không đúng tác động của dài hạn. Họ thường dựa vào những kinh nghiệm ngắn hạn, gần đây để tác động trong dài hạn.

<i>Thứ sáu, tư duy bảo thủ: thị trường ln có nhiều biến động mới mẻ song</i>

NĐT thường phản ứng khá chậm, thậm chí từ chối tiếp nhận thơng tin mới. Hiện tượng này phản ánh lối tư duy cũ, dựa trên các thông tin cũ và không kịp hoặc không chịu đổi mới để phù hợp với những điều kiện mới. Điều này dẫn đến hậu quả rằng, khi thị trường biến đổi đủ lâu để NĐT cảm thấy cần thay đổi, họ sẽ có những phản ứng thái quá theo hướng tiêu cực.

Cuối cùng là hiệu ứng ngược vị thế: đây là hiệu ứng trong đầu tư khi các NĐT thường tránh ghi nhận thua lỗ mà chỉ sẵn sàng ghi nhận lợi nhuận. Họ chỉ chấp nhận lợi nhuận nhỏ nhưng khơng chấp nhận khoản lỗ nhỏ.

Ví dụ, NĐT đang nắm giữ một cổ phiếu X, khi cổ phiếu đó có dấu hiệu giảm, NĐT thường sẽ hành động là duy trì gồng lỗ với hy vọng cổ phiếu sẽ bật tăng trở lại. Trong khi đó, khi cổ phiếu đó tăng, NĐT lại vội vàng quyết định ghi nhận lãi. Đôi khi chỉ cần lãi rất nhỏ và họ cũng quyết định bán CP mà đáng lẽ phương án tốt nhất là nên giữ lại cổ phiếu đem lại lợi nhuận tốt và cắt lỗ nó khi có những diễn biến

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

xấu đi. Tuy nhiên, tâm lý con người luôn dẫn dắt đến những hành động phi logic và thiên lệch về nhận thức.

<b>1.2. Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của nhà đầu tư cá nhântrên thị trường chứng khoán</b>

<b>1.2.1. Tâm lý tự tin thái quá</b>

“Tự tin thái quá là một trạng thái tâm lý phổ biến ở các NĐT trên TTCK. “Quá tự tin xảy ra khi mọi người đánh giá quá cao kỹ năng, kiến thức và độ chính xác của họ về thơng tin hoặc quá lạc quan về tương lai và khả năng kiểm sốt tình huống” (Camerer & Lovallo, 1999; Hirshleifer, 2001; Glaser & Weber, 2007). Sự tự tin thái quá được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, xuất phát từ quan điểm, suy nghĩ và cách nhìn nhận vấn đề của mỗi NĐT về thị trường. Hay hiểu theo một cách dễ hiểu, tâm lý tự tin thái quá là sự khác biệt giữa niềm tin của NĐT về năng lực của mình và năng lực thực sự của họ.

<i>Tâm lý thái quá được chia thành hai loại: một là, đánh giá quá cao bản thân họ</i>

so với người khác đánh giá, ln có suy nghĩ rằng khả năng, thành tích, mức độ kiểm sốt hơn người khác hoặc xác suất đầu tư thành công của họ vượt trội hơn.

<i>Hai là, đánh giá khả năng cao hơn mức trung bình. Trong đó, mọi người thường</i>

đánh giá bản thân có kiến thức thực tế cao hơn mức trung bình hoặc có quan điểm khơng thực tế.

Tâm lý tự tin thái quá trong nhiều trường hợp đầu tư đều không tối ưu được lợi nhuận. Odean (1988) chỉ ra rằng: “các nhà đầu tư quá tự tin có xu hướng tin rằng họ vượt trội so với người khác về khả năng lựa chọn tốt nhất chứng khoán cũng như thời điểm tốt nhất để tham gia và thoát khỏi TTCK. Tuy nhiên, trung bình họ thường nhận được tỷ suất sinh lợi thấp hơn tỷ suất sinh lợi trung bình của thị trường”. Tâm lý này rất dễ khiến con người có thái độ bất chấp trong đầu tư, dễ cuốn vào đầu tư mù quáng mặc dù đang thua lỗ nhưng không biết điểm dừng và khi thua lỗ quá lớn dần dần sẽ chuyển sang trạng thái bi quan (nội dung này sẽ được phân tích kỹ tại mục 1.2.5). Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến khác cho rằng “các nhà đầu tư quá tự tin có thể kiếm được lợi nhuận kỳ vọng cao hơn hoặc tiện ích kỳ vọng lớn hơn so với các NĐT hợp lý vì sự tự tin q mức đóng một vai trị quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

trọng trong việc tăng khối lượng giao dịch” (Kyle và Wang, 1997).

Nhìn chung, TTCK ln biến động khơng ngừng, chứa rất nhiều điều bất ngờ trong quá trình đầu tư. Vì thế, ngồi việc ln cập nhật các kiến thức mới, các nhận định về thị trường. NĐT nên trao đổi kĩ hơn với các NĐT khác hay các chuyên gia để có góc nhìn đa dạng hơn, từ đó tìm ra phương án tối ưu cho chiến lược đầu tư của mình.

<b>1.2.2. Tâm lý bầy đàn</b>

“Hành vi hay tâm lý bầy đàn là hành vi của một nhà đầu tư bắt chước hành động của các nhà đầu tư khác hoặc theo sự chuyển động của thị trường thay vì dựa vào thơng tin chiến lược của riêng họ” (Bikhchandani và Sharma, 2001). Tâm lý này rất phổ biến trên thị trường, sở dĩ các NĐT có những hành vi và quyết định đầu tư theo số đông như vậy vì họ ln mặc định trong đầu những NĐT khác biết được những thơng tin mà mình chưa biết nên họ hành động theo vì nghĩ rằng đi theo số đơng sẽ an tồn hơn. Tâm lý sợ hãi khi hành động riêng lẻ hay không muốn đi ngược lại số đông đã dẫn tới việc các cá nhân bắt chước nhau, hầu hết tất cả những hành vi giao dịch đều bị chi phối bởi người khác và từ những nguồn tin fomo trên các trang mạng xã hội làm họ dễ bị cuốn vào “trò chơi làm giá” của các tổ chức, có xu hướng hành xử sai trong hoặc cùng một thời điểm, tạo thành một tổ chức lớn, tác động mạnh mẽ đến thị trường, khiến giá cổ phiếu không phản ảnh đúng giá trị thực của nó.

Một số biểu hiện của dạng tâm lý này:

<i> Thứ nhất, tham gia chứng khoán “theo mốt”: NĐT trên thị trường rất đa</i>

dạng, họ đến từ các ngành nghề, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Bởi vậy, sự hiểu biết của họ với thị trường cũng có nhiều sự khác biệt. Có nhiều người tham gia đầu tư xuất phát bởi sự ảnh hưởng của những người thân xung quanh như: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong cơng ty,…thấy họ đầu tư cũng đầu tư theo, muốn được thể hiện bản thân hoặc bị cuốn theo vì thấy sinh lời cao, kiếm tiền dễ dàng. Họ lao vào thị trường khi còn rất nhiều lỗ hổng kiến thức, thiếu thông tin đáng tin cậy. Một lượng lớn NĐT mới liên tục tham gia mua bán, trao đổi cổ phiếu theo số đông đã khiến giá cổ phiếu tăng mạnh, tạo bong bóng trên thị trường.

<i> Thứ hai, NĐT phản ứng thái q trên quy mơ tồn thị trường: Vào một số</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

thời điểm, toàn bộ thị trường đều tràn ngập trong sắc xanh hoặc đỏ, tăng giảm điểm với biên độ kịch trần hoặc sàn. Tức là, số đông NĐT trên thị trường đang “bắt chước” nhau cùng mua/bán chứng khoán trên thị trường tại cùng một thời điểm. Sự “bắt chước này” xuất phát chính từ tâm lý bầy đàn, khi mà NĐT thấy NĐT khác giao dịch và làm theo hành vi giao dịch này, dần dần dẫn đến một khối lượng lớn cùng mua/bán làm thị trường biến động lớn.

<i> Thứ ba, trường hợp đối với các nhà tư vấn, quản lý chuyên nghiệp trong lĩnh</i>

vực đầu tư chứng khoán trong một số thời điểm nhất định, có xu hướng thuận theo đám đơng để đưa ra phân tích, đánh giá thị trường. Bởi lẽ, nếu các khuyến nghị khơng tn theo xu hướng nói trên, khả năng tư vấn, quản lý của họ sẽ bị đánh giá tiêu cực bởi khách hàng của họ và họ lo sợ các NĐT sẽ rời bỏ.

<b>1.2.3. Tâm lý lạc quan quá mức</b>

“Sự lạc quan đến trong con người khi anh ta đánh giá thấp những điều tiêu cực xảy ra và sẽ luôn hy vọng kết quả thuận lợi” (Lipkus, Martz, Panter, Drigotas & Feagane, 1993). Năm 1980, Weinstein đã tiến hành một nghiên cứu về những người lạc quan và kết luận rằng “họ tin rằng họ có thể thu được kết quả tích cực từ khoản đầu tư của mình so với đồng nghiệp”. Lạc quan quá mức phản ánh rằng mọi thứ đều tốt hơn so với phân tích. Lạc quan thái quá bắt nguồn từ việc quá tự tin và niềm tin rằng các sự kiện và diễn biến trên thị trường sẽ diễn ra tốt hơn thực tế. Những NĐT có tâm lý lạc quan là những người ln có suy nghĩ tích cực về các mặt vĩ mô, vi mô trên thị trường như: sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tình hình ngành có nhiều tiềm năng, triển vọng về cơng ty, … Và họ nghĩ rằng một vài những thông tin xấu, những chuyển biến sẽ không ảnh hưởng nhiều đến quyết định cũng như kết quả đầu tư của họ.

Sự lạc quan có thể giúp con người có những cảm xúc tích cực, nhưng sự lạc quan thái q hoặc lạc quan khơng thực tế có thể sẽ phải trả giá. Những lầm tưởng về tình hình thị trường sẽ dẫn NĐT đến những hành vi và quyết định sai lầm. Họ cố chấp trong suy nghĩ và hành động bởi tâm lý này và khi không đạt được như kì vọng, mục tiêu đề ra, họ sẽ trở nên bi quan và cảm thấy bị mất uy tín trong xã hội. Xa hơn, tâm lý này cịn gây lãng phí cả về thời gian và tiền bạc nếu như cứ theo đuổi những mục tiêu phi thực tế, chấp nhận vào những dự án đầu tư có NPV âm

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

hoặc các tài sản có tính rủi ro cao.

<b>1.2.4. Tâm lý tiếc nuối</b>

Là một tâm lý thường gặp đối với các NĐT trên TTCK. “Hối hận là cảm xúc tự trách bản thân dựa trên so sánh, trải qua khi mọi người nhận ra hoặc tưởng tượng rằng tình hình hiện tại của họ sẽ tốt hơn nếu họ quyết định khác trong quá khứ”. “Tiếc nuối có khả năng khiến các nhà đầu tư trở nên quá bảo thủ và đánh giá thấp rủi ro đối với thị trường do liên tục thua lỗ và có thể dẫn đến tình trạng bầy đàn” (Pompian và Wood, 2006).

Một NĐT thành công là một NĐT có kỷ luật và tuân thủ theo kỷ luật về chốt lời hay cắt lỗ. Điều này sẽ không tránh khỏi tâm lý tiếc nuối khi thị trường có những phản ứng tích cực hơn sau khi NĐT đưa ra quyết định mua hay bán. Bản chất, con người luôn lưỡng lự và luôn cố né tránh những kết quả mang tính quyết định vì họ sợ rằng đó chưa phải là phương án tốt nhất để tối đa hóa lợi nhuận hoặc giảm thiểu rủi ro. NĐT ln cảm thấy khó quyết định khi nếu bán cổ phiếu thì giá cổ phiếu tăng, vừa mua vào thì giá cổ phiếu giảm. Đó là ngun nhân hình thành tâm lý tiếc nuối của con người. Trong nhiều trường hợp để tránh rơi vào tâm lý này, họ thường cố gồng lỗ đủ lâu để đợi tín hiệu tích cực hơn, không muốn thừa nhận thua lỗ hay nắm giữ trạng thái lãi quá lâu vì lo sợ bỏ lỡ khoản lợi nhuận tiềm năng. Chính vì thế, tâm lý tiếc nuối – nó vừa là rào cản vừa là thách thức bản lĩnh của NĐT trong những lần đưa ra quyết định then chốt. Đồng thời, mở ra cho NĐT có thể tìm kiếm và đầu tư vào những cơ hội khác nhiều triển vọng hơn.

<b>1.2.5. Tâm lý bi quan</b>

Bi quan là thái độ tuyệt vọng, luôn suy nghĩ về những chuyện tiêu cực. “Các nhà đầu tư bi quan tin rằng các sự kiện trong tương lai sẽ tệ hơn và tiêu cực hơn” (Tơn Hồng Thanh Huế, 2014). “Các nhà đầu tư bi quan có thể thích đầu tư vào một tài sản kém thanh khoản hơn là đầu tư vào một tài sản thanh khoản. Những người bi quan thường tập trung vào những mặt tiêu cực của vấn đề và nhìn đâu cũng thấy tồi tệ” (Alexdaner Ludwig và Alexander Zimper, 2006). Tâm lý này có thể xuất phát từ những trải nghiệm khơng tốt trong quá khứ đến từ thất bại nhiều lần trong đầu tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hay ảnh hưởng từ những người xung quanh qua các quan điểm, câu chuyện của họ mang đậm tính bi quan sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý. Thêm vào đó, yếu tố về lòng tin như niềm tin tiêu cực, suy nghĩ tự phân tích và cho rằng mọi việc sẽ tồi tệ hơn, ảnh hưởng bởi truyền thông và xuất phát từ chính bản thân NĐT như lo âu, tự ti, trầm cảm, …

Trên TTCK, tâm lý bi quan xảy ra khi thông tin về bức tranh vĩ mô, vi mô không mấy khả quan, có nhiều biến động và một phần đến từ tâm lý ngại rủi ro, sợ thua lỗ. Trong đầu tư, hầu hết mọi người đều khơng thích trải nghiệm của sự thua lỗ mất mất chính vì thế những NĐT này thường dễ dàng bán chứng khoán với xu hướng tăng điểm vì họ sợ giá sẽ giảm nhanh chóng. Việc đưa ra quyết định, lựa chọn ln trong trạng thái lo sợ rằng bản thân có thể mắc sai lầm nên đôi khi không tối đa hóa được lợi nhuận hoặc ngăn cản đến với những cơ hội tốt chỉ vì những nỗi sợ hãi và tiêu cực.

Tâm lý bi quan nếu có tính hệ thống và được tạo bởi số đông NĐT sẽ khiến thanh khoản thị trường rất yếu, khối lượng giao dịch ảm đạm. Điều này có tác động trực tiếp đến sự phát triển của TTCK và nền kinh tế, tài chính.

<b>1.2.6. Tâm lý ngại rủi ro</b>

Đây là một loại tâm lý rất dễ gặp phải ở các NĐT trên TTCK. Ngại rủi ro là một xu hướng phòng tránh rủi ro. “Định nghĩa ngại rủi ro mô tả NĐT chọn cách bảo toàn vốn hơn các khoản đầu tư mang lại mức lợi nhuận tiềm năng cao hơn trung bình” (James Chen, 2022). Theo đó, hiện tượng tâm lý này phản ánh xu hướng sợ đương đầu với rủi ro của NĐT cá nhân. Hiện tượng này có nhiều điểm tương đồng với tâm lý bi quan. Tức là, NĐT ngại rủi ro thường mang tâm trạng tiêu cực, tập trung nghĩ về việc rủi ro sẽ xảy ra. Từ đó, họ trở nên lo âu, tập trung quá mức vào rủi ro thay vì tiềm năng đầu tư, dễ dẫn đến các đánh giá và đưa ra quyết định sai lầm. Những người mang tâm lý này thường đầu tư vào những chứng khốn tương đối an tồn, ví dụ như trái phiếu, các loại cổ phiếu trả cổ tức đều đặn,... Người mang tâm lý ngại rủi ro thường đầu tư sai lầm là vì trên TTCK, lợi nhuận ln đi kèm với rủi ro, nói cách khác, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Do đó, nếu NĐT e ngại rủi ro xảy ra, khả năng cao họ sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội có được lợi nhuận đầu tư lớn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<b>1.2.7. Tâm lý tư duy chắp vá</b>

Tâm lý này được hiểu là khi đưa ra quyết định đầu tư ban đầu dựa theo những thơng tin có sẵn, sau đó lại nhận được những thơng tin khác và chúng có ảnh hưởng đến những quyết định ban đầu, thay vì phân tích, đánh giá, xem xét những thơng tin mới thì NĐT lại chú tâm đến việc chỉnh sửa thông tin cũ. Theo Tversky và Kahneman: “Hiệu ứng mỏ neo là một xu hướng nhận thức khiến mọi người phụ thuộc quá nhiều vào thông tin đầu tiên họ nhận được khi đưa ra quyết định, cho dù thơng tin đó có đúng hay khơng” (Tversky và Kahneman, 1974). Điều đó làm cho NĐT khơng có cái nhìn tổng qt, chính xác và đầy đủ về các thông tin mới. Đây được coi là tâm lý tư duy lối mịn và phiến diện trong cách nhìn nhận và phân tích vấn đề.

Dạng tâm lý này dễ bị nhầm lẫn với tâm lý bảo thủ trong đầu tư chứng khoán bởi NĐT đều tập trung chú ý vào những thông tin cũ. Điểm khác biệt nằm ở điểm, NĐT có tâm lý tư duy chắp vá sẵn sàng tiếp nhận thông tin mới song họ vẫn có niềm tin vào các thơng tin, tình hình cũ, dẫn đến sai lầm trong hoạt động đầu tư. Mặt khác, tâm lý bảo thủ của NĐT phản ánh sự từ chối tiếp nhận thêm thông tin của thị trường.

<b>1.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi giaodịch của nhà đầu tư cá nhân</b>

<b>1.3.1. Các nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài</b>

Đề tài nghiên cứu “Relationship Between Behavioral Biases and Investment Decisions: The Mediating Role of Risk Tolerance” (Saloni Raheja, 2019) tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa các xu hướng hành vi, khả năng chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư và mối quan hệ giữa các xu hướng hành vi và quyết định đầu tư của các NĐT. Dữ liệu được thu thập từ 500 NĐT thông qua LSC Securities Ltd bằng cách sử dụng bảng câu hỏi. Đồng thời, dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các tạp chí, sách, trang web và qua các tài liệu tham khảo. Kiểm định hồi quy bội được áp dụng thông qua SPSS để kiểm tra tầm quan trọng của mối quan hệ giữa các biến. F. Hayes đã được sử dụng để kiểm tra sự hòa giải giữa các thành kiến hành vi (sự tự tin thái quá, bảo thủ, tâm lý bầy đàn và tâm lý tiếc nuối) và các quyết định đầu tư. Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa các khả năng chấp nhận rủi ro, xu hướng

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

hành vi và quyết định đầu tư có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có một mối quan hệ giữa các quyết định đầu tư với xu hướng tự tin thái quá và xu hướng tiếc nuối. Do đó, những thành kiến về hành vi có thể giải thích tốt hơn các quyết định đầu tư thơng qua khả năng chấp nhận rủi ro. Nghiên cứu giúp các NĐT cá nhân đầu tư theo mức độ chấp nhận rủi ro và xu hướng hành vi của họ.

<i>Bài nghiên cứu “Decision-Making in the stock market: IncorporatingPsychology with Finance” (Abhijeet Chandra, 2008) đã tìm hiểu tác động của các</i>

yếu tố hành vi – tâm lý đến việc ra quyết định của NĐT. Nghiên cứu dựa trên dữ liệu thứ cấp liên quan đến đầu tư, tài chính và kinh tế có sẵn trên Internet, các ấn phẩm trước đây của tác giả và một số ấn phẩm khác. Thơng tin sau đó được tích hợp để hiểu mối quan hệ qua lại giữa nhận thức của NĐT về rủi ro, các yếu tố hành vi và quá trình ra quyết định hành vi của TTCK Ấn Độ. Kết quả chỉ ra rằng tâm lý, tình cảm ảnh hưởng tương đối lớn đến quyết định đầu tư. Các yếu tố ảnh hưởng nói trên có thể là lịng tham, sự sợ hãi, mâu thuẫn về nhận thức, phương pháp giải quyết vấn đề dựa trên kinh nghiệm, tính tốn trí óc, sự tham khảo, đầu tư đánh bạc,… Những yếu tố hành vi này được tính đến như những yếu tố rủi ro trong khi đưa ra quyết định đầu tư. Các nhà cố vấn, các chuyên gia tài chính phải kết hợp các vấn đề về hành vi như các yếu tố rủi ro để xây dựng các chiến lược đầu tư hiệu quả cho các NĐT.

<i>Đề tài “Interaction between demographic and financial behavior factors interms of investment decision making” (Gunay, S.G, Demirel, E., 2011) đã thực hiện</i>

điều tra khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của các NĐT cá nhân và tổ chức. Trong bài, tác giả đã chỉ ra các hành vi tài chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư như: tính tốn trí óc (mental accounting bias), lạc quan thái quá (optimism bias), tự tin thái quá (overconfidence bias), sai lệch trong nhận thức (cognitive dissonance bias), sai lệch trong tình huống điển hình (representative bias), sai lệch neo tham chiếu và hiệu chỉnh, sai lệch do ác cảm với sự hối tiếc. Kết quả cụ thể rằng sự thiên vị về hành vi của cá nhân đầu tư với mâu thuẫn về nhận thức chiếm 67%, lạc quan thái quá 39%, tính đại diện 33%, sự hối tiếc 32%, tự tin thái quá 26%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i>Baiq Fitri Arianti trong đề tài nghiên cứu “The influence of financial literacy,financial behavior and income on investment decision” nhằm mục đích phân tích và</i>

đo lường ảnh hưởng của hiểu biết tài chính, hành vi và thu nhập của NĐT đối với các quyết định đầu tư. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là định lượng phương pháp nghiên cứu mô tả. Dữ liệu nghiên cứu đến từ thu thập số liệu 29.231 sinh viên và kỹ thuật lấy mẫu là ngẫu nhiên bằng cách sử dụng công thức Slovin. Dữ liệu thu thập từ bảng hỏi từ 100 sinh viên, sử dụng phân tích thống kê mô tả, kiểm tra chất lượng dữ liệu, kiểm tra giả định cổ điển, kiểm tra hồi quy tuyến tính bội, kiểm tra F và t, hệ số xác định trên phầm mềm SPSS phiên bản 22. Kết quả cho thấy rằng hiểu biết về tài chính khơng có ảnh hưởng đáng kể đến các quyết định đầu tư, trong khi hành vi tài chính và thu nhập có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định đầu tư.

<b>1.3.2. Các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam</b>

<i>Đề tài nghiên cứu “Xây dựng chỉ số tâm lý để đo lường yếu tố tác động lêntâm lý nhà đầu tư ở Việt Nam” (Phan Thị Nhã Trúc, 2019) đã sử dụng phương pháp</i>

phân tích thành tố và bình phương nhỏ nhất để xác định mối tương quan giữa biến chỉ số tâm lý thị trường và các biến thành tố để thực hiện kiểm định giả thuyết. Các thành tố tác động lên tâm lý NĐT được đo lường bởi doanh thu, phần bù cổ tức, giao dịch của chứng chỉ quỹ đóng, số lượng cổ phiếu phát hành lần đầu, số lượng cổ phiếu mới.

Bài nghiên cứu đã tiến hành thu thập dữ liệu lấy từ giá đóng cửa của 341 công ty niêm yết trên TTCK từ 2005-2017. Nghiên cứu sử dụng Phân tích thành tố dựa vào các biến cấu tạo nên tâm lý NĐT. Từ đó tạo ra một biến mới là tập hợp của các biến tác động lên nó, biến mới được định nghĩa là biến chỉ số tâm lý thị trường. Tiếp theo, nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để xác định mối tương quan giữa biến chỉ số tâm lý thị trường và 5 biến thành tố để thực hiện kiểm định giả thuyết với mơ hình nghiên cứu:

SENTt= 0.1268TURN+ 0.121DIV2+ 0.061CEFD-0.168NIPOs+2.31S+ ε(i,t) Trong đó: TURN, DIV, CEF, NIPOs, S lần lượt là: thanh khoản thị trường; phần bù cổ tức; giao dịch của chứng chỉ quỹ đóng và các quỹ hốn đổi danh mục; số lượng cổ phiếu phát hành lần đầu tiên trên thị trường; số lượng cổ phiếu mới.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tâm lý NĐT và các thông tin liên

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

quan đến phát hành mới, thông tin cổ tức, thông tin các quỹ đầu tư và khối lượng giao dịch.

<i> Bài nghiên cứu “Behavior Pattern of Individual Investors in Stock Market”(Lưu Thị Bích Ngọc, 2013), đã điều tra các yếu tố tâm lý ảnh hưởng tới quyết định</i>

của NĐT cá nhân tại các Cơng ty chứng khốn Tp. Hồ Chí Minh. Theo đó, tác giả đã gửi bảng câu hỏi trực tiếp đến các NĐT, từ 300 bảng câu hỏi được gửi đi, có 188 câu hỏi hồn chỉnh được gửi lại với tỷ lệ phản hồi là 63%. Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật thống kê bao gồm: Phân tích nhân tố: rút gọn các biến quan sát thành một tập nhân tố ngắn gọn và ý nghĩa đồng thời sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha- thước

<i>đo đo lường độ tin cậy của thang đo mà tác giả sử dụng. Nghiên cứu đã chỉ ra một</i>

số yếu tố tâm lý của NĐT cá nhân tại TTCK Tp. Hồ Chí Minh tác động sâu sắc đến quyết định của các NĐT cá nhân trên thị trường như: tâm lý bày đàn, tâm lý lạc quan, tâm lý tự tin thái quá, tâm lý đầu tư con bạc,…

<i>Ngoài ra, đề tài nghiên cứu“Tác động của các yếu tố hành vi đến quyết địnhvà hiệu quả đầu tư của NĐT cá nhân trên thị trường chứng khốn thành phố HồChí Minh” (Võ Thị Hiếu, Bùi Hữu Phước, Bùi Nhất Vương, 2020) có mục đích</i>

khám phá các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và hiệu quả đầu tư của NĐT cá nhân qua. Tác giả đã sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp từ 411 NĐT cá nhân tại TTCK Tp. Hồ Chí Minh, sau đó sử dụng phân tích hồi quy bội qua phần mềm SPSS 20.0 đã đưa ra kết quả của một số yếu tố tiêu biểu ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các NĐT cá nhân trên thị trường bao gồm hiệu ứng neo quyết định, sự tự tin thái quá, khuynh hướng sẵn có, tâm lý bầy đàn (hiệu ứng đám đơng) và tình huống điển hình. Bên cạnh đó, nghiên cứu cịn chỉ ra rằng nam giới có kinh nghiệm đầu tư cao hơn những NĐT nữ ít kinh nghiệm và những NĐT càng lớn tuổi có khuynh hướng đầu tư ít hiệu quả hơn các NĐT trẻ tuổi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1</b>

Trong Chương 1, tác giả đã đề cập đến những khái niệm liên quan đến đối tượng nghiên cứu của bài như TTCK, nhà đầu tư cá nhân, tâm lý hành vi của NĐT trên thị trường. Từ đó chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý, hành vi giao dịch của họ. Với cơ sở nghiên cứu là Lý thuyết tài chính hành vi, tác giả đã đưa ra những tâm lý ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của NĐT như: tâm lý tự tin thái quá, tâm lý bầy đàn, lạc quan quá mức, tiếc nuối, tâm lý bi quan, ngại rủi ro và tâm lý tư duy chắp vá. Đồng thời, nghiên cứu các thực nghiệm trong nước và nước ngoài với cùng đề tài, tác giả đã tìm ra những mặt hạn chế và tìm ra hướng đi mới, phát triển về đề tài tâm lý này, giúp NĐT có thể cân bằng cảm xúc, đem lại hiệu quả tốt hơn khi tham gia thị trường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU2.1. Quy trình nghiên cứu</b>

Quy trình nghiên cứu đề tài được thực hiện qua 5 bước sau:

Bước 1: Tác giả tìm hiểu và xác định đề tài nghiên cứu dựa trên một số yếu tố, điều kiện nhất định, ví dụ như có thể thu thập số liệu, tìm kiếm thơng tin và các tài liệu tham khảo cũng như tìm ra tính mới của đề tài nghiên cứu. Thêm vào đó, yếu tố chủ quan liên quan đến từ năng lực và kiến thức của bản thân là một trong những yếu tố quan trọng để lựa chọn đề tài phù hợp.

Bước 2: Sau khi lựa chọn đề tài nghiên cứu, cần tiến hành tìm hiểu các nghiên cứu thực nghiệm trước đó ở trong và ngồi nước. Đọc kĩ nội dung của các bài nghiên cứu đó để nắm vững kiến thức, cách thức triển khai và các phương pháp mà những người đi trước đã áp dụng. Sau đó, chỉ ra được ưu điểm và những mặt còn hạn chế của các phương pháp nghiên cứu trong đề tài trước. Từ đó khắc phục và tìm ra tính mới trong bài khóa luận nghiên cứu của bản thân.

Bước 3: Lập đề cương chi tiết và lên kế hoạch cụ thể như timeline hoàn thành từng phần. Chuẩn bị và tiến hành làm bảng hỏi khảo sát để thu thập dữ liệu nghiên cứu. Đồng thời tìm kiếm các thơng tin, tài liệu trích dẫn cho các chương để bài nghiên cứu tăng thêm tính thuyết phục và có cơ sở.

Bước 4: Từ những nghiên cứu đi trước, tác giả sẽ tìm tịi và lựa chọn các biến và mơ hình phù hợp với đề tài. Sử dụng phần mềm SmartPLS4 để chạy mô hình và tiến hành phân tích nghiên cứu.

Bước 5: Dựa trên những kết quả đã có được ở bước 4, tác giả sẽ phân tích, đánh giá các kết quả. Từ đó đối chiếu, so sánh với kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm trước. Điều đó làm nổi bật tính mới mà tác giả nghiên cứu trong bài viết này.

Bước 6: Từ tác động của những yếu tố phân tích ở trên, đưa ra khuyến nghị cũng như giải pháp phù hợp để khắc phục lỗ hổng, cải thiện được thực trạng về vấn đề nghiên cứu trong bài.

<b>2.2. Dữ liệu nghiên cứu</b>

Sử dụng kết quả thu thập được từ bảng hỏi khảo sát làm dữ liệu nghiên cứu. Bảng khảo sát thu thập được 216 NĐT tham gia đánh giá khảo sát. Tuy nhiên có 13

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

trường hợp phản hồi không thỏa mãn yêu cầu của form khảo sát sẽ bị coi là phiếu khơng hợp lệ. Thơng qua kết quả khảo sát thì có 203 NĐT tham gia phản hồi hợp lệ và sử dụng được kết quả làm dữ liệu nghiên cứu.

Trong phiếu khảo sát, đối tượng tham gia là các NĐT cá nhân trên TTCK Việt Nam bao gồm hai sàn là Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khốn thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Dựa vào các mối quan hệ cá nhân, những người có link khảo sát sẽ giới thiệu cho những người khác để tham gia. Những người tham gia khảo sát là những NĐT đã có ít nhất 6 tháng kinh nghiệm trên TTCK và vẫn đang đầu tư vào cổ phiếu trong Quý 1 năm 2023. Bảng câu hỏi được thiết kế nhằm khảo sát và đánh giá thông tin về các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của các NĐT. Các thang đo được sử dụng trong từng nhóm câu hỏi đối với mỗi tâm lý NĐT là thang điểm 5. Trong đó:

<b>2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp nghiên cứu</b>

Sau khi thu thập và tổng hợp các dữ liệu trong bảng khảo sát. Tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu bằng cách sử dụng phần mềm SmartPLS4 để đo lường, lượng hóa các ảnh hưởng yếu tố tâm lý đến hành vi giao dịch của các NĐT cá nhân trên thị trường. Để kiểm định dữ liệu, mơ hình và các biến độc lập, phụ thuộc có tốt và có mối liên hệ chặt chẽ không, tác giả tiến hành đánh giá mơ hình đo lường và mơ hình cấu trúc. Trong đánh giá mơ hình đo lường, ta kiểm định các thông số về chất lượng biến quan sát (sử dụng outer loading), độ tin cậy thang đo Reliability (Cronbach’s Alpha và chỉ số CR), kiểm tra tính hội tụ Convergence (AVE) và tính phân kì Discriminant (Cross Loading). Sau đó tiến hành đánh giá mơ hình cấu trúc gồm có: phân tích Bootstrap, đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến (VIF), đánh giá các mối quan hệ tác động (p-values), mức độ giải thích của biến độc lập cho biến phụ thuộc (R bình phương và R bình phương hiệu chỉnh), và giá trị Effecrt size (f bình phương). Thêm vào đó phân tích hồi quy để xác định mức độ ảnh hưởng của các

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<b>2.3.2. Cơ sở lý thuyết của các hệ số trong đánh giá mơ hình</b>

<i><b>2.3.1.1. Đánh giá mơ hình đo lường</b></i>

Mơ hình đo lường (Measurement model) hay cịn gọi là mơ hình bên ngồi Outer model của các biến nghiên cứu, nó biểu thị mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu và biến quan sát. Mục đích khi đánh giá mơ hình đo lường để tìm ra các biến tốt, biến khơng đạt u cầu để loại bỏ, từ đó hồn thiện mơ hình đáp ứng yêu cầu cho bài nghiên cứu.

Để đánh giá mơ hình đo lường, ta phải dựa vào các hệ số sau:

<i>Thứ nhất, xét về chất lượng biến quan sát cần xét đến hệ số Outer loading hay</i>

còn gọi là hệ số tải ngồi. Nó được dùng để đánh giá chất lượng của các biến quan sát của một nhân tố dạng thang đo kết quả. Về bản chất, Outer loading chính là căn bậc hai trị tuyệt đối giá trị R bình phương phép hồi quy tuyến tính từ biến tiềm ẩn mẹ lên biến quan sát con. Hair và cộng sự (2014) cho rằng: “hệ số tải ngoài cần lớn hơn hoặc bằng 0.708 biến quan sát đó đạt chất lượng”. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã đặt ngưỡng 0.7 để dễ dàng ghi nhớ hơn. Nếu biến quan sát có Outer loading dưới 0.7 sẽ bị loại bỏ khỏi mơ hình nghiên cứu.

<i>Thứ hai, để đánh giá độ tin cậy của thang đo cần xét qua hai chỉ số chính là</i>

Cronbach Alpha và Composite Reliability. Với Cronbach’s Alpha, đây là một thước đo đo lường độ tin cậy của thang đo mà mình sử dụng, tức là tính nhất quán, logic và mối liên hệ chặt chẽ bên trong của một nhóm với nhau như thế nào, chúng phải có sự tương quan chặt chẽ với nhau và cũng giải thích một khái niệm. Nó đánh giá mức độ tin cậy và phù hợp của các giá trị đang sử dụng trong thang đo. “Một thang đo tốt nên có độ tin cậy Cronbach’s Alpha từ 0.7 trở lên” (Nunnally, 1978), Hair và cộng sự (2009) cũng đồng tính với quan điểm đó. Tuy nhiên, ở một số nghiên cứu mang tính chất khám phá sơ bộ, ngưỡng 0.6 cũng có thể chấp nhận được và không bị loại trừ. Đối với bài nghiên cứu này, tác giá sẽ sử dụng ngưỡng 0.7 làm ngưỡng để đưa ra đánh giá.

Với hệ số Composite Reliability (viết tắt là CR), là độ tin cậy tổng hợp. “Hệ số này có ưu điểm vượt trội hơn so với Cronbach’s Alpha do đánh giá độ tin cậy cao hơn, dùng để đo lường cho tính nhất quán nội bộ của các chỉ báo trong một thang đo” (Netemeyer và cộng sự, 2003). Cũng giống như Cronbach’s Alpha, “giá

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

trị của chúng cần bằng hoặc lớn hơn 0.7” (Bagozzi&Yi, 1988). Ở một số nghiên cứu, “giá trị này đòi hỏi phải nằm từ khoảng 0.7-0.9 để được chấp nhận” (Nunnally và Bernstein, 1994). Tuy nhiên nếu hệ số đạt cao quá (> 0.95) khả năng cao có thể mơ hình đang trùng lặp biến quan sát có chứa nội dung như nhau. Ngược lại, nếu giá trị thấp quá dưới 0.6 lại chưa đảm bảo độ tin cậy nhất quán (Hair và cộng sự, A Primer on Partial Least Squares Structural Equation Modeling, 2014) , cần xem xét để loại bỏ các biến không phù hợp để đảm bảo thang đo đạt độ tin cậy và ý nghĩa.

<i>Thứ ba, kiểm định tính hội tụ Convergence, giá trị hội tụ là việc các biến quan</i>

sát của một biến tiềm ẩn có tương quan thuận với nhau khơng và mức độ của chúng như thế nào. Để đánh giá giá trị hội tụ, ta sử dụng giá trị phương sai trích trung bình AVE (Average Variance Extracted) tức là tổng giá trị trung bình của bình phương hệ số tải chuẩn hóa của các biến quan sát trong một biến tiềm ẩn chia cho số lượng biến quan sát.

“Giá trị AVE từ 0.5 trở lên cho thấy biến tiềm ẩn sẽ giải thích nhiều hơn phân nửa phương sai các biến quan sát của nó, lúc này thang đo có tính hội tụ tốt. Ngược lại AVE nhỏ hơn 0.5 nghĩa là trung bình có nhiều sai số vẫn còn tồn tại trong các biến quan sát hơn là phương sai được giải thích bởi biếm tiền ẩn” (Hair và cộng sự, 2021) .

<i>Thứ tư, đánh giá tính phân biệt qua bảng Cross Loading trong SmartPLS.</i>

Đánh giá tính phân biệt là việc xem xét rằng một khái niệm nghiên cứu có phải duy nhất và phản ánh khác biệt so với các khác niệm nghiên cứu khác trong mơ hình hay khơng. Cross loading là hệ số tải chéo của các biến quan sát. Với tiêu chí đánh giá, tất cả các hệ số tải ngồi của biến quan sát trong nhân tố mẹ đều phải lớn hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

hệ số tải chéo của biến quan sát đó với các nhân tố khác trong mơ hình.

Khi đánh giá mơ hình đo lường, kiểm định từng chỉ số. Nếu đến chỉ số nào có biến bị vi phạm và bị loại bỏ khỏi mô hình nghiên cứu, cần phải thay đổi lại Diagram, xóa các biến đó và chạy lại PLS-SEM Althorihm. Sau đó kiểm tra lại cách thông số. Lưu ý các thông số hiện màu xanh là đạt yêu cầu của phần mềm SmartPLS, màu đỏ là dấu hiệu của việc biến đó đã vi phạm ngưỡng và cần xem xét loại bỏ.

<i><b>2.3.1.2 Đánh giá mơ hình cấu trúc</b></i>

Mơ hình cấu trúc tên tiếng anh là Structural model hay cịn gọi là mơ hình bên trong Inner model. Mơ hình cấu trúc hiển thị các mối quan hệ đường dẫn giữa các biến nghiên cứu.

Để đánh giá mô hình cấu trúc, cần phải chạy và phân tích Bootstrap, đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến, đánh giá các mối quan hệ tác động, mức độ giải thích của biến độc lập cho biến phụ thuộc và giá trị f bình phương.

<i>Thứ nhất, đa cộng tuyến là hiện tượng xảy ra khi mối tương quan cao giữa hai</i>

hay nhiều biến độc lập trong mơ hình, điều này sẽ gây dư thừa thông tin, sai lệch kết quả của mơ hình. Để đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến, ta thường xem xét đến chỉ số VIF mục Inner VIF values. Inner VIF values đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến tiềm ẩn. Theo Hair và cộng sự (2019), nếu VIF từ 5 trở lên mô hình khả năng cao sẽ có hiện tượng đa cộng tuyến và ngưỡng đánh giá được tổng hợp bảng sau:

VIF < 3 Khơng có hiện tượng đa cộng tuyến 3 ≤ VIF ≤ 5 Có thể gặp hiện tượng đa cộng tuyến

VIF ≥ 5 Khả năng xuất hiện đa cộng tuyến rất cao

<i>Thứ hai, đánh giá các mối quan hệ tác động dựa vào kết quả sử dụng của phân</i>

tích Bootstrap phần Path Coeffecients. Để đánh giá chúng, cần quan tâm đến 2 giá trị Original Sample và P-values. Trong đó, Original Sample là hệ số tác động chuẩn hóa, p-values là mức ý nghĩa của kiểm định t, giá trị sig so sánh với mức ý nghĩa, thường khi so sánh mức ý nghĩa sẽ thường lấy ngưỡng là 0.05, 0.1 hay 0.01 (thông thường là sử dụng 0.05) ứng với độ tin cậy tương ứng là 95%, 90%, 99%. Khi giá trị của p-values < mức ý nghĩa (0.05), ta có thể kết luận mối tác động đều có ý

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

nghĩa thống kê. Trường hợp giá trị p-values > mức ý nghĩa (0.05) tức là mối tác động của biến khơng có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, sẽ không loại biến ra khỏi mô hình nghiên cứu, phần lọc các biến chất lượng và tốt sẽ thực hiện ở đánh giá mơ hình đo lường ở phần trên.

Hệ số Original Sample là hệ số tác động chuẩn hóa Beta được dùng trong phương trình hồi quy chuẩn hóa. Hệ số này sử dụng phổ biến để kết luận thứ tự tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc nhờ sự đồng nhất về đơn vị và độ lệch chuẩn các biến tham gia vào mơ hình. Từ đó có thể đánh giá biến độc lập sẽ có tác động và ảnh hưởng như thế nào đến biến phụ thuộc.

Thứ ba, xét mức độ giải thích của biến độc lập cho biến phụ thuộc dựa vào hệ số R bình phương và R bình phương hiệu chỉnh. Nó giúp đánh giá mức độ phù hợp của mơ hình nghiên cứu với ý nghĩa là các biến, đồng thời hệ số sẽ giải thích nhân tố đó phụ thuộc bao nhiêu phần trăm trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, ưu tiên sử dụng hệ số R bình phương hiệu chỉnh do nó đã bỏ qua một số chỉ số thổi phồng về mức độ phù hợp mơ hình, giá trị của chúng sẽ có kết quả sát và phù hợp hơn. Giá trị R bình phương và R bình phương hiệu chỉnh đều chưa có nghiên cứu nào đặt ra ngưỡng cụ thể phù hợp với mơ hình nhưng hệ số này càng lớn, tiến gần về 1 càng cho thấy các biến độc lập giải thích cho biến phụ thuộc càng nhiều. Ngược lại, hệ số này càng nhỏ chứng tỏ các biến độc lập giải thích cho biến phụ thuộc càng ít và khơng có nhiều ảnh hưởng.

Thứ tư, giá trị Effect size (f bình phương) là hệ số đánh giá hiệu quả hoạt động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc. Giá trị này khá tương đồng và giống với hệ số Original Sample nhưng với hệ số hồi quy chuẩn hóa chỉ đánh giá được tác động mạnh hay yếu, còn mức độ tác động là bao nhiêu thì hệ số này chưa giải thích được. Bởi vậy, f bình phương có những ưu điểm vượt trội hơn.

Cohen (1988) đã đưa ra bảng chỉ số f Square với các ngưỡng tương ứng sau:

Từ đó có thể đánh giá, đưa ra kết luận về mức độ ảnh hưởng, tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc là nhiều hay ít và cho ra số liệu cụ thể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>d2.4. Mơ hình nghiên cứu2.4.1. Mơ hình nghiên cứu</b>

Các biến trong kiểm định được biểu diễn như sau:

Võ Thị Hiếu, Bùi Hữu Phước, Bùi Nhất Vương, (2020)

Võ Thị Hiếu, Bùi Hữu Phước, Bùi Nhất Vương, 2020

Mơ hình kiểm định sự tin cậy thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha được xây dựng từ 7 nhóm nhân tố trên với 22 biến quan sát tương ứng với các câu hỏi trong bảng hỏi.

<b>*Phân tích hồi quy:</b>

Phương trình hồi quy bội biểu diễn mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc như sau:

<b>Y = β1 + β2OV + β3HB + β4OP + β5RE + β6PS + β7AN + β8RI + ℇRI + ℇ</b>

Trong đó: OV, HB, OP, RE, PS, RI là các biến độc lập được dùng thang đo Scale-Likert 5 điểm.

Y: biến phụ thuộc thể hiện hành vi giao dịch của NĐT cá nhân

<b>2.4.2. Các biến độc lập</b>

OV: viết tắt của từ Overconfidence, là tâm lý tự tin thái quá. Như Kyle và Wang (1997), Hirshleifer và Luo (2001), và Wang (2001) đã chỉ ra rằng các NĐT quá tự tin có thể tồn tại trên TTCK, đóng một vai trị quan trọng làm tăng khối

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

lớn đến hành vi ra quyết định giao dịch của các NĐT trên thị trường.

HB: viết tắt của Herd Behavior - tâm lý bầy đàn. TTCK ngày càng phát triển và là kênh đầu tư hấp dẫn của nhiều đối tượng. Một số lượng không nhỏ các NĐT tham gia thị trường trong khi kiến thức còn hạn chế. Bởi vậy, họ dễ ảnh hưởng bởi yếu tố bên ngoài, bất kể ai đưa ra nhận định nào cũng thấy đúng và thực hiện đầu tư dẫn đến kết quả đầu tư không như kỳ vọng. Khi hiện tượng này lan rộng, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của NĐT. Hệ số của biến HB càng lớn tức là mức độ ảnh hưởng của nó đến biến phụ thuộc Y càng nhiều.

OP: là tâm lý lạc quan quá mức (Excessive optimism) : Tâm lý lạc quan quá mức rất dễ làm cho NĐT khó kiểm sốt khi thị trường có nhiều biến động và dẫn đến những quyết định sai lầm. Khi tâm lý lạc quan tăng lên đồng thời sẽ làm hành vi đầu tư của NĐT có nhiều ảnh hưởng và tác động của chúng đến quyết định càng lớn.

RE: là tâm lý tiếc nuối. Trên thị trường tài chính,đặc biệt là TTCK, tâm lý này chi phối rất mạnh mẽ tới các quyết định của NĐT. Khi đó, nhiều quyết định mang cảm tính cá nhân nhiều hơn là theo sự mách bảo của lý trí. Tâm lý tiếc nuối ln khiến NĐT rơi vào tình trạng đắn đo, khơng dám đưa ra quyết định dứt khoát trước các cơ hội đầu tư do họ không chắc chắn vào quyết định bản thân và thường luôn trong trạng thái lo lắng, tiếc nuối các cơ hội đã qua.. Sự tiếc nuối càng nhiều, quyết định càng chi phối và tác động mạnh tới hành vi ra quyết định của các NĐT.

PS: viết tắt của từ Excessive pessimistic- tâm lý bi quan. Đây là một dạng tâm lý rất phổ biến của NĐT trên thị trường. Một NĐT quá bi quan về thị trường, nhìn đâu cũng thấy tiêu cực, không thấy điểm sáng cũng như cơ hội mới trên thị trường, họ sẽ giao dịch ít hơn và dần rút khỏi kênh đầu tư này, dẫn tới quyết định của họ mang lại kết quả không như mong đợi, mức sinh lời thấp. Khi hệ số PS càng tăng cao tức là tâm lý bi quan càng lớn, tác động của hệ số lên biến phụ thuộc (Y) càng lớn.

RI: Psychology of risk- tâm lý ngại rủi ro, mức chịu đựng rủi ro thấp và sợ mất mát, thua lỗ. Tâm lý này có tác động rõ rệt đến hành vi NĐT, ví dụ như: các NĐT sẽ xây dựng danh mục và đầu tư vào những cổ phiếu, những khoản đầu tư có mức độ an tồn lớn, có thanh khoản cao, trái ngược hẳn với những NĐT ưa mạo

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<small>H1</small> <sub>H5</sub>

hiểm, có hệ số rủi ro cao, họ thường quan tâm nhiều đến các khoản đầu tư sinh lời cao đồng thời rủi ro cũng lớn. Khi tâm lý ngại rủi ro tăng lên, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi ra quyết định của NĐT. NĐT có khẩu vị rủi ro thấp sẽ hứng thú với tài sản an toàn, tỷ suất sinh lời cũng ít hơn so với những NĐT có mức chịu rủi ro tốt.

AN: là tư duy chắp vá (hay tư duy neo vào các thông tin cũ). AN là viết tắt của “Anchoring” (tâm lý neo). Tư duy chắp vá là cách tư duy, phân tích các vấn đề và thơng tin theo lối mịn, khơng phản ảnh đầy đủ thơng tin mới để đưa ra quyết định đầu tư mà chắp vá thông tin, sửa và bổ sung dựa trên những gì đã thu thập trước đó. Hệ số AN càng cao chứng tỏ NĐT đang bị rối bởi những thông tin mới, họ chưa thể đưa ra được nhận định và đánh giá phù hợp cho những trường hợp này ở thời điểm đầu tư. Điều đó dẫn tới chất lượng giao dịch, ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi giao dịch của các NĐT trên thị trường.

<b>2.5. Giả thuyết nghiên cứu</b>

Các giải thuyết nghiên cứu như sau:

H1: Nhân tố tâm lý tự tin thái quá có tác động đến hành vi ra quyết định của các NĐT cá nhân trên TTCK

H2: Nhân tố tâm lý lạc quan quá mức có tác động đến hành vi ra quyết định của các NĐT cá nhân trên TTCK

H3: Nhân tố tâm lý bầy đàn có tác động đến hành vi ra quyết định của các

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Trong nội dung ở Chương 2, tác giả đã tập trung làm rõ phương pháp và giả thuyết nghiên cứu của bài. Với dữ liệu nghiên cứu từ việc thu thập số liệu qua form khảo sát với đối tượng tham gia là các NĐT cá nhân ở hai sàn HNX và HOSE, tác giả đã tiến hành nghiên cứu thông qua phần mềm SmartPLS4 nhằm đo lường các biến đã xây dựng. Để kiểm định dữ liệu, tác giả dựa vào đánh giá mơ hình đo lường và mơ hình cấu trúc thông qua các hệ số đánh giá. Cơ sở lý thuyết của các hệ số này, tác giả đã trình bày rất kỹ ở trong chương. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra mơ hình nghiên cứu, các biến độc lập và phụ thuộc cùng với giả thuyết nghiên cứu để biểu diễn mối quan hệ giữa các biến trong bài. Đây chính là tiền đề giúp đánh giá và đưa ra kết luận ở chương sau.

Tâm lý tư duy chắp vá Tâm lý lạc quan quá

Tâm lý bầy đàn

Tâm lý tiếc nuối

Tâm lý ngại rủi ro Quyết

định đầu tư

</div>

×