Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 143 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––––––– </b>
<b>HOÀNG THỊ THẢO </b>
<b>GIÁO DỤC KĨ NĂNG BẢO VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>LỜI CAM ĐOAN </b>
<small>Tôi xin cam đoan đã thực hiện việc kiểm tra mức độ tương đồng nội dung luận văn qua phần mềm Turnitin một cách trung thực và đạt kết quả mức độ tương đồng 21%. Bản luận văn kiểm tra qua phần mềm là bản cứng đã nộp để bảo vệ trước hội đồng. Nếu sai tơi hồn tồn chịu trách nhiệm. </small>
<small> ` </small>
<i>Thái Nguyên, tháng 06 năm 2023 </i>
<b><small>Tác giả </small></b>
<b><small>Hoàng Thị Thảo </small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI CẢM ƠN </b>
<i>Luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục với đề tài “Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên”, được hoàn thành, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất </i>
đến Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo và các phòng chức năng, Ban chủ nhiệm Khoa và các giảng viên Khoa Giáo dục mầm non, Trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
<b>Đặc Biệt, tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Lê Thị Thương Thương, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tận tình trong thời </b>
gian thực hiện nghiên cứu luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến các đồng chí cán bộ phịng Giáo dục và Đào tạo thành phố Điện Biên Phủ; các đồng chí cán bộ quản lý và giáo viên ở các trường mầm non trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tận tình để tác giả có thể khai thác được những thơng tin, tư liệu phục vụ cho việc viết luận văn.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu và tập thể giảng viên trường Cao đẳng sư phạm Điện Biên, gia đình, bạn bè ln động viên khuyến khích và tạo điều kiện tốt nhất, giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành được luận văn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song khơng tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo tận tình của q thầy cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
<i>Xin chân thành cảm ơn! </i>
<i>Thái Nguyên, tháng 6 năm 2023 </i>
<b>Tác giả </b>
<i><b>Hoàng Thị Thảo </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">2. Mục tiêu nghiên cứu ... 3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ... 3
4. Giả thuyết khoa học ... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ... 4
6. Phạm vi nghiên cứu ... 4
7. Phương pháp nghiên cứu ... 4
8. Cấu trúc luận văn ... 5
<b>Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG BẢO VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON ... 7 </b>
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề... 7
1.2.3. Kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ... 14
1.2.4. Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ... 15
1.3. Kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non ... 16
1.3.1. Đặc điểm sinh lý, tâm lý của trẻ 5-6 tuổi ... 16
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1.3.2. Vai trò của kĩ năng bảo vệ bản thân đối với sự phát triển của trẻ
5-6 tuổi ... 18
1.3.3. Biểu hiện của kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non .... 20
1.4. Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non ... 21
1.4.1. Mục tiêu của giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở
1.4.5. Các lực lượng tham gia giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non ... 29
1.4.6. Đánh giá hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non ... 30
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non ... 32
1.5.1. Yếu tố chủ quan ... 32
1.5.2. Yếu tố khách quan ... 32
Kết luận chương 1 ... 34
<b>Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG BẢO VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN ... 36 </b>
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội và giáo dục mầm non của thành phố Điện Biên Phủ ... 36
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Điện Biên Phủ .... 36
2.1.2. Khái quát về giáo dục mầm non của thành phố Điện Biên Phủ ... 37
2.2. Khái quát quá trình khảo sát ... 39
2.2.1. Mục đích khảo sát ... 39
2.2.2. Nội dung khảo sát ... 39
2.2.3. Phương pháp khảo sát và cách xử lý số liệu ... 39
2.2.4. Đối tượng khảo sát ... 40
2.2. Kết quả khảo sát ... 40
2.2.1. Thực trạng kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 40
2.2.2. Thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 45
2.3. Đánh giá chung về thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 63
2.3.1. Những ưu điểm ... 63
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân ... 64
Kết luận chương 2 ... 66
<b>Chương 3: BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG BẢO VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN... 67 </b>
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp ... 67
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu giáo dục ... 67
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, phù hợp ... 67
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi, thực tiễn ... 67
3.2. Một số biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 68
3.2.1. Đa dạng hóa nội dung giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi trong các chủ đề ở trường mầm non ... 68
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">3.2.2. Tổ chức giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi thơng qua
các hoạt động ngồi trời ở các trường mầm non ... 73
3.2.3. Sử dụng các tình huống có vấn đề nhằm giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non ... 75
3.2.4. Phối hợp với cha mẹ trẻ trong giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi trong các trường mầm non ... 77
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp ... 78
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ </b>
Bảng 2.1. Thực trạng biểu hiện kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên .. 41 Bảng 2.2. Thực trạng thực hiện mục tiêu giáo dục kĩ năng bảo vệ bản
thân cho trẻ 5-6 tuổ1i ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên... 46 Bảng 2.3. Thực trạng nội dung giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho
trẻ 5-6 tuổi ở các trường MN thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 48 Bảng 2.4. Thực trạng phương pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho
trẻ 5-6 tuổi ở các trường MN thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 53 Bảng 2.5. Thực trạng hình thức giáo dục giáo dục kĩ năng bảo vệ bản
thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên... 56 Bảng 2.6. Thực trạng các lực lượng giáo dục KNBVBT cho trẻ 5-6 tuổi ở
các trường MN thành phố Điện Biên Phủ. ... 59 Bảng 2.7. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục kĩ
năng BVBT cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên ... 62 Bảng 3.1. Kết quả đánh giá KNBVBT của trẻ trước thực nghiệm ... 80 Bảng 3.2. Kết quả đánh giá KNBVBT của trẻ sau thực nghiệm ... 81 Biểu đồ 3.1. Biểu đồ đánh giá biểu hiện KNBVBT của trẻ trước và sau TN ... 82
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>MỞ ĐẦU </b>
<b>1. Lý do chọn đề tài </b>
Giáo dục (GD) trong những năm đầu đời đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát triển năng lực của trẻ. Trẻ nhỏ được học tập từ nhiều môi trường khác nhau như gia đình, bạn bè và môi trường xung quanh. Trong đó mơi trường vơ cùng cần thiết để trẻ học tập chính là trường mầm non - nơi chuẩn bị cho trẻ những kiến thức, kĩ năng (KN) nền tảng, đồng thời hình thành hứng thú đối với việc học tập, tăng khả năng sẵn sàng bước vào giai đoạn giao dục phổ thông.
Giáo dục tại các trường mầm non có mục tiêu là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, hình thành và phát triển ở trẻ em những những kĩ năng sống (KNS) cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dạy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Để đạt được mục tiêu tổng quát đó việc giáo dục kĩ năng sống trong đó có kĩ năng bảo vệ bản thân đóng vai trị rất quan trọng. Điều này được lý giải bởi giai đoạn mầm non là giai đoạn trẻ dễ gặp phải nhiều mối nguy hiểm, giai đoạn này trẻ đang thích khám phá, tìm tịi mọi thứ xung quanh nhưng lại chưa có kĩ năng cơ bản để bảo vệ bản thân, những tai nạn có thể xảy ra khơng chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần và trí tuệ của trẻ mà cịn ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ. Do đó, Thông tư số 45-TT-BGDTT ban hành năm 2021, quy định về việc xây dựng trường học an tồn, phịng, chống tai nạn thương tích trong cơ sở giáo dục mầm non đã nêu “Tăng cường giáo dục trẻ em về kiến thức, kĩ năng đảm bảo an toàn”, giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ có thể lồng ghép trong các hoạt động ni dưỡng, chăm sóc và hoạt động học trong các cơ sở mầm non.
Việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân (KNBVBT) cho trẻ mầm non đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với trẻ 5-6 tuổi. Giai đoạn này trẻ ý thức rất rõ
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">về bản thân, thích khám phá, hiếu động, ham chơi, khả năng tư duy logic và ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển hơn giai đoạn trước đó nên ở giai đoạn này việc giáo dục cho trẻ có khả năng nhận biết và tránh được nguy hiểm, bảo vệ an toàn cho bản thân là hết sức cần thiết và hiệu quả cao hơn những giai đoạn trước đó. Có thể nói đây là thời điểm vàng để giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ.
Xã hội hiện đại ngày nay mang đến cho con người nhiều tiện ích, sự thoải mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm đặc biệt là đối với trẻ em mầm non. Theo số liệu thống kê trong báo cáo tổng hợp về phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ em của Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) cho thấy các tại nạn như: bỏng, ngã, ngộ độc, động vật cắn, tai nạn giao thông, đuối nước, điện giật là những nguyên nhân nhân hàng đầu gây tử vong cho trung bình 8000 trẻ em ở Việt Nam mỗi năm. Điều này là minh chứng rõ rệt cho sự cấp thiết cần trang bị cho trẻ kĩ năng cần thiết để ứng phó, xử lý các tình huống nguy hiểm gặp phải để bảo vệ bản thân.
Thực tế hiện nay ở các trường mầm non trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ đã quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ em nói chung và trẻ em 5- 6 tuổi nói riêng. Việc tổ chức thực hiện giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ có nhiều yếu tố thuận lợi như: Nhà trường đã trang bị ti vi, mạng internet phục vụ cho việc học của trẻ, trẻ được xem tranh ảnh, video về các tình huống cần bảo vệ bản thân; trang thiết bị của lớp tương đối đầy đủ, mơi trường trong và ngồi lớp sạch sẽ, thoáng mát, đồ dùng sắp xếp gọn gàng, bảo đảm an toàn cho trẻ; giáo viên đã bước đầu chú ý dạy trẻ kĩ năng bảo vệ bản thân mọi lúc, mọi nơi, giờ học trong lớp, giơ học ngoài trời… Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, hoạt động này còn gặp một số khó khăn như: Khơng gian và đồ chơi của trẻ tại sân chơi, khu vận động còn hạn chế; một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ; các hoạt động nhằm giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ của giáo viên còn đơn
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">điệu, chưa đa dạng, sinh động thu hút sự quan tâm, tham gia của trẻ nên hiệu quả giáo dục còn hạn chế, thể hiện ở việc nhiều trẻ vẫn chưa thật sự có kĩ năng để nhận biết, phán đốn và phản ứng tích cực với những mối nguy hiểm có thể xẩy ra với bản thân mình và những người xung quanh … Thực trạng này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ hiện tại và tương lai…
<b>Vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên” để nghiên cứu. </b>
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu </b>
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non, đề tài đề xuất một số biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Qua đó, nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
<b>3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu </b>
<i><b>3.1. Khách thể nghiên cứu </b></i>
Quá trình giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở
<i><b>trường mầm non. </b></i>
<i><b>3.2. Đối tượng nghiên cứu </b></i>
<i><b> Biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các </b></i>
trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
<b>4. Giả thuyết khoa học </b>
Nếu đề xuất được một số biện pháp đảm bảo tính khoa học, phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn thì sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện
<b>Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>5. Nhiệm vụ nghiên cứu </b>
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
- Khảo sát thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên và thực nghiệm.
<b>6. Phạm vi nghiên cứu </b>
<i><b>6.1. Nội dung nghiên cứu </b></i>
<i><b> Nghiên cứu biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi </b></i>
thông qua một số hoạt động giáo dục của trẻ ở các trường mầm non thành phố
<i><b>Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên . </b></i>
<i><b>6.2. Địa bàn nghiên cứu và khách thể khảo sát </b></i>
Đề tài khảo sát giáo viên và trẻ 5-6 tuổi tại 3 trường mầm non trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên: Trường Mầm Non Noong Bua, Trường Mầm Non 20/10, Trường Mầm Non Thanh Trường.
Khảo sát trên 90 trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và 54 GV ( trong đó bao gồm: 9 CBQL, 45 GV) của 3 trường trong địa bàn khảo sát. Thực nghiệm trên một nhóm trẻ gồm 30 trẻ.
<b>7. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i><b>7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết </b></i>
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Phân tích và tổng hợp lý thuyết bằng việc đọc sách, báo và các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi thông nhằm làm rõ cơ
<b>sở lí luận của đề tài. </b>
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: Trên cơ sở phân tích lí thuyết, tơi tiến hành phân loại và hệ thống lý thuyết tạo điều kiện thuận lợi
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">cho việc xây dựng cơ sở lý luận về giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
<i><b>7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn </b></i>
- Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát trực tiếp một số hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân được giáo viên tổ chức cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Để khảo sát thực trạng kĩ năng và giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường
<b>mầm non trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ. </b>
- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại trực tiếp với giáo viên và trẻ nhằm thu thập những thông tin liên quan đến thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
- Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra anket để thu thập thông tin từ giáo viên về thực trạng kĩ năng và giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Nghiên cứu các kế hoạch giáo dục của giáo viên các trường mầm non được khảo sát để làm rõ hơn thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Trưng cầu ý kiến chuyên gia để khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên được đề xuất trong đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: dùng để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên được đề xuất trong đề tài.
<i><b>7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu </b></i>
Sử dụng phương pháp thống kê trong toán học để xử lý và phân tích các số liệu từ các bảng hỏi thu thập được.
<b>8. Cấu trúc luận văn </b>
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục; luận văn được cấu trúc thành ba chương như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>Chương 1: Cơ sở lí luận về giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 </b>
ở trường mầm non.
<b>Chương 2: Thực trạng giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi </b>
ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
<b>Chương 3: Biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi </b>
ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><b>Chương 1 </b>
<b>CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC KĨ NĂNG BẢO VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON </b>
<b>1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề </b>
<i><b>1.1.1. Trên thế giới </b></i>
<small>Từ lâu, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa (UNESCO) và Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) đã xây dựng chương trình giáo dục kĩ năng sống và phân loại chúng. UNESCO đã đưa ra kĩ năng đề phịng tai nạn thương tích hay có thể gọi là kĩ năng bảo vệ bản thân nằm trong nhóm kĩ năng chuyên biệt</small><i><b>. </b></i><small>UNICEF đã chia thành hai nhóm kĩ năng cơ bản và kĩ năng nâng cao, trong đó kĩ năng bảo vệ bản thân thuộc nhóm kĩ năng nâng cao. </small>
<small>Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ trong trường học, đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm. Trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em khẳng định ““Không ai được phép làm tổn hại đến trẻ em. Nghĩa vụ của chúng </small>
<i>ta là tôn trọng và bảo vệ các em. Không ai được ngược đãi trẻ em trai và gái về mặt thể chất, bằng ngôn ngữ và tình cảm, kể cả cha mẹ, thầy cô hay những người chăm sóc trẻ” [8] </i>
<i><b> </b></i> Tác giả Diane TillMan trong cuốn "Những giá trị sống cho tuổi trẻ" cho
<i>rằng: “Giáo dục kĩ năng sống để có kĩ năng sống ngày càng được nhìn nhận là có sức mạnh vượt lên khỏi lời răn dạy đạo đức chi tiết đến mức hạn chế trong cách nhìn hoặc những vấn đề thuộc về tư cách công dân” [7] </i>
Ở Nga, đã xây dựng luật bảo vệ an toàn cho trẻ, và ban hành chương trình giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ và phụ huynh để ứng phó tích cực trước các tình huống nguy hiểm gặp phải trong cuộc sống. Tại Nhật Bản, đã xây dựng những bài học tình huống mơ phỏng về động đất, sóng thần để giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ từ bậc mẫu giáo [16]
<i>Tác giả Debbie và Mike Gardnert Trong cuốn sách “Raisingthe kids who can protect them self” (Nuôi dạy những đứa trẻ có thể tự bảo vệ mình) đã </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">hướng dẫn phương pháp dạy trẻ nhận biết và thoát khỏi các tình huống khơng an tồn, cách tìm kiếm cửa thốt hiểm, và cách để trẻ có phản ứng tích cực với các tính huống nguy hiểm gặp phải khi khơng có người lớn bên cạnh. [ 16].
<small>Năm 2012, các tác giả trường Đại học sư phạm Ulinaov viết trong đề tài </small>
<i><small>“Giáo dục các kĩ năng an toàn cho trẻ mẫu giáo” rằng : “báo cáo đáng sợ của tội phạm đối với trẻ em đã chứng minh về sự thụ động của trẻ khi đối mặt với sự nguy hiểm. Nhiệm vụ chính của giáo viên và phụ huynh là lựa chọn các hình thức, nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp với sự phát triển của trẻ. Qua đó dạy cho trẻ cách phòng tránh những mối đe dọa, sự nguy hiểm trong thực tế, nếu gặp phải thì trẻ có thể biết cách xử lý và tự bảo vệ mình” [28]. </small></i>
<i>Theo tác giả Gavin De Becker trong nghiên cứu “Protecting the gift: Keeping children and teenagers safe (and parents sane)”, ông đã đã đưa ra </i>
những phương pháp hướng dẫn cha mẹ có thể dạy trẻ xác định các tình huống nguy hiểm và cách thốt khỏi những tình huống nguy hiểm khi trẻ phải đối mặt. Cụ thể như làm thế nào nếu con mình bị lạc, làm thế nào để nhận biết con mình bị lạm dụng tình dục (dẫn theo [20])
Theo các tác giả Sandy K. Wurtele và Julie Sarno Owens trong nghiên
<i>cứu: “Teaching personal safety skills to young children: an investigation of age and gender across five studies” thì đã nghiên cứu trên trẻ mầm non nhằm xác </i>
định mức độ kĩ năng an tồn cá nhân, phịng chống lạm dụng tình dục ở trẻ từ đó đưa ra các biện pháp nâng cao kĩ năng an toàn cho trẻ ( [27]).
Tác giả Jayneen Sanders and Anna Hancock đã trình bày nghiên cứu với các bộ sách “An tồn cho con u”, tác giả đã trình bày các nội dung cần hình thành kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ em đó là: Trao quyền cho trẻ; Dạy trẻ về an toàn thân thể; Nhận diện sự an tồn và khơng an tồn; Thiết lập mạng lưới vệ sĩ an toàn; Tránh đụng chạm cơ thể; Phân biệt điều bất ngờ thú vị khác với bí mật xấu xa; Hiểu về các bộ phận riêng tư. Các tác giả đã đưa ra 5 quy tắc để giúp trẻ bảo vệ bản thân mình gồm: Cơ thể của bạn do bạn quyết định; Mạng lưới vệ sĩ an toàn; Dự cảm bất an; Vùng riêng tư và khơng giữ bí mật. Cuốn
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">sách có nhiều hình ảnh đẹp, gần gũi, phù hợp lứa tuổi trẻ nhỏ. Trong từng nội dung, tác giả khuyến khích trẻ nói lên suy nghĩ của mình và biết chia sẻ cảm xúc với những người lớn đáng tin cậy (dẫn theo [29])
<i><b>1.1.2. Ở Việt Nam </b></i>
Thuật ngữ “Kĩ năng sống” được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương trình của UNICEF(1996) mang tên “ Giáo dục kĩ năng sống nhằm bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngồi nhà trường” .Tham gia chương trình này đầu tiên gồm có các nghành GD và Hội chữ thập đỏ chỉ bao gồm những kĩ năng sống cốt lõi như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng đưa ra quyết định, kĩ năng kiên định, kĩ năng đặt ra mục tiêu…nhằm vào các chủ đề GD sức khỏe do các chuyên gia Úc tập huấn.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình là một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ thống về kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam. Tác giả đã xuất bản một loạt các bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và giáo trình, tài liệu tham khảođã góp phần đáng kể vào việc tạo ra những hướng nghiên cứu về kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả đã chỉ rõ: Chương trình, tài liệu giáo dục kĩ năng sống được thiết kế cho giáo dục khơng chính quy là phổ biến và rất đa dạng về hình thức.[3]
Trong cuốn “Giáo trình Giáo dục kĩ năng sống” Nguyễn Thanh Bình khẳng định những yêu cầu cụ thể đối với việc đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học. Tác giả cho rằng:“Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng vào học tập chủ động, chống thói quen thụ động, đồng thời coi dạy học thông qua tổ chức hoạt động của học sinh là đặc trưng thứ nhất của phương pháp dạy học tích cực”.[3]
Bộ GD&ĐT phối hợp với ngành công an, Ủy ban an tồn giao thơng quốc gia đưa ra “Chương trình giảng dạy thí điểm và tổ chức nhiều cuộc thi tìm
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">hiểu luật an tồn giao thơng” cho trẻ từ mẫu giáo đến phổ thơng để giúp cho các em có nền tảng kiến thức, kĩ năng cơ bản để xử lý những tình huống giao thơng khi gặp phải và biết cách tuân thủ, chấp hành luật giao thông... [ 16]
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành luật số 04/2004/QH11 về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hay gần đây nhất là Luật trẻ em số 102/2016/QH13... cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước dành cho trẻ em nước nhà [dẫn theo 14]
Riêng đối với giáo dục kĩ năng sống và đặc biệt là giáo dục kĩ năng tự bảo vệ, trong “Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi”, Bộ GD&ĐT (2009) đã tích hợp KNS trong các năng lực thuộc lĩnh vực phát triển tình cảm và quan hệ xã hội nhằm rèn luyện các kĩ năng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chuẩn bị vào lớp 1, như: Trẻ thể hiện sự nhận thức về bản thân, tin tưởng vào khả năng của bản thân, biết cảm nhận và thể hiện cảm xúc, có mối quan hệ tích cực với bạn bè và người lớn, hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh, có các hành vi thích hợp trong ứng xử xã hội, thể hiện sự tôn trọng người khác [2]
Các tác giả Lê Xuân Hồng, Lê Thị Khang, Hồ Lai Châu và Hoàng Mai
<i>với nghiên cứu “Những kỹ năng sư phạm mầm non- Thiết lập môi trường học tập cho trẻ em mầm non (tập 1)” đã nghiên cứu về việc duy trì một lớp học an </i>
toàn bằng việc giám sát trẻ và làm mẫu về các hành động an toàn. Các tác giả cho rằng giáo viên cần phải giám sát khu vực lớp học, đốn trước các hành vi khơng an tồn, làm đổi hướng các hành vi khơng an toàn, làm mẫu các hành vi an toàn, để trẻ tham gia vào các quy tắc an toàn. Trẻ cần được học về các quy tắc an toàn và sự thận trọng đối với các bậc thềm, lối ra, phịng vệ sinh, buổi học ngồi trời, trị chơi đóng vai và các hoạt động khác. Cần biết rõ các bước thực hiện trong trường hợp gặp thời tiết xấu hoặc sơ tán khẩn cấp. Trẻ cần được thực tập các tình huống thực tế để có hướng xử lí đúng khi nó thực sự xảy ra.
<i>Các tác giả Vũ Thị Ngọc Minh, Nguyễn Thị Nga trong cuốn sách “Giúp bé có kĩ năng nhận biết và phịng tránh một số nguy cơ khơng an tồn” đã đưa </i>
ra 9 tình huống trẻ thường hay gặp trong cuộc sống, dễ gây nguy hiểm đối với
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">trẻ. Qua đó, tác giả đưa ra những biện pháp giúp các bậc phụ huynh và giáo viên giáo dục cho trẻ để giúp trẻ có kĩ năng tự bảo vệ cho bản thân, giữ cho bản thân được an toàn [27].
<i>Các tác giả Nam Hồng, Dương Phong và Lê Ngọc Lan với bộ sách “Tủ sách trường học an toàn” đã đưa ra các nội dung như: Ngơi nhà an tồn cho </i>
trẻ; An toàn cho trẻ trên đường phố và nơi thiên nhiên; An toàn cho trẻ trong cộng đồng xã hội; Sơ cấp cứu các loại tổn thương do tai nạn ở trẻ em. Bộ sách giúp trẻ đối mặt có hiệu quả trước những nguy hiểm có thể xảy ra khi tự mình tiếp xúc với mơi trường thiên nhiên và bên ngồi xã hội cũng như giúp trẻ biết rõ nguyên nhân của các tai nạn có thể xảy ra đối với trẻ ở nơi công cộng [ 27].
Từ lâu, bắt đầu trong nội dung chương trình của các trường mầm non đã đưa việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ vào trong nội dung giáo dục phát triển thể chất.
Tác giả Phan Tú Anh với đề tài “Biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ mầm non”, Luận văn thạc sĩ Giáo dục học năm 2013 cũng đã chỉ rõ được sự cần thiết, mục tiêu, những nội dung và hình thức giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ mầm non, phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục kĩ năng tự bảo vệ hiện nay và đồng thời từ đó xác định được những biện pháp phù hợp và khả thi để giáo dục có hiệu quả kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ <small>[1</small>].
<i>Tác giả Nguyễn Hoàng Phương Thảo với đề tài nghiên cứu “Biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi thơng qua trị chơi đóng vai theo chủ đề”. Qua điều tra thực trạng giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân </i>
(kĩ năng tự bảo vệ) của trẻ 5-6 tuổi, tác giả nhận thấy mức độ thực hiện kĩ năng tự bảo vệ của trẻ 5-6 tuổi chỉ đạt mức trung bình. Giáo viên chưa kịp thời khơi gợi vốn kĩ năng tự bảo vệ riêng biệt của từng trẻ. Từ đó, tác giả đã nghiên cứu và đề xuất được 5 biện pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi thơng qua trị chơi đóng vai theo chủ đề [21].
<i>Gần đây, tác giả Hoàng Thị Yến Thoan với đề tài “ Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ em 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Thái Nguyên, Tỉnh Thái Nguyên”. Qua điều tra thực trạng tác giả nhận thấy kết quả của quá trình </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi cịn ở mức trung bình. Từ đó tác giả đã đề xuất các biện pháp sau để nâng cao hiệu quả giáo duc: Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên; Thiết kế kế hoạch giáo dục kĩ năng thông qua hoạt động vui chơi; Lồng ghép giáo dục kĩ năng mọi lúc, mọi nơi; Phối hợp giữa gia
<i>đình và nhà trường; sử dụng các trò chơi trong GD kĩ năng. [27] </i>
Như vậy, đã có nhiều tác giả và nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu vấn đề giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ ở nhiều độ tuổi khác nhau, xong những nghiên cứu này chưa tiếp cận tồn diện, chỉ trên cơ sở lí thuyết hoặc đưa ra cơ sở thực tiễn tại địa phương tác giả nghiên cứu, chưa hệ thống thành tài liệu tồn diện, do đó nghiên cứu đề tài “Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên” góp phần có cái nhìn tổng qt về q trình giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân
<i>cho trẻ mầm non tại địa phương hiện nay. </i>
<b>1.2. Một số khái niệm công cụ của đề tài </b>
<i><b>1.2.1. Giáo dục </b></i>
<i>Theo Từ điển tiếng viết – Nxb Hồng Đức, giáo dục là: “Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [32, tr 205]. </i>
<i>Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh: “ Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ. Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu” [17]. </i>
<i>Tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết lại cho rằng: “Theo nghĩa rộng, nói đến giáo dục là nói đến sự tác động tới con người của toàn xã hội và của thực tiễn </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><i>xung quanh. Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của đời người( từ lọt lòng đến 6 tuổi) giáo dục nhằm phát triển các chức năng tâm lí, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, chuẩn bị cho những giai đoạn phát triển sau được thuận lợi” [27]. </i>
Như vậy, các tác giả trên đều cho rằng giáo dục chính là hình thành nhân cách, phẩm chất và năng lực cho người được giáo dục, thông qua hệ thống các hoạt động được nhà giáo dục tổ chức có mục đích tác động đến người được giáo dục, giúp người được giáo dục lĩnh hội được những tri thức kinh nghiệm của xã hội loài người.
Từ các quan điểm trên, chúng tôi cho rằng: Giáo dục là quá trình hình thành cho đối tượng được giáo dục những phẩm chất và năng lực cá nhân, phù hợp với yêu cầu của xã hội. Qúa trình này được thực hiện, thông qua các tác động do chủ thể giáo dục tổ chức (có mục đích, có kế hoạch và phương pháp cụ thể) tác động đến đối tượng được giáo dục.
<i><b>1.2.2. Kĩ năng </b></i>
Có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước có những quan điểm khác nhau về kĩ năng. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy quan điểm về kĩ năng khác nhau chủ yếu ở phần phạm vi vận dụng tri thức của chủ thể hành động:
Theo tác giả V.A. Krucchetxki cho rằng: “ Kĩ năng là thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó nhờ sử dụng những kĩ thuật, những phương thức đúng đắn” [25]. Còn theo Trần Trọng Thủy: “Kĩ năng là mặt kỹ thuật của hành động, con người nắm được hành động tức là có kĩ thuật hành động, có kĩ năng” [23, tr49]. Theo quan điểm này, kĩ năng được xem là việc vận dung tri thức về các phương thức, các kĩ thuật trong hành động và hoạt động. Người được xem là có kĩ năng là người biết sử dụng các tri thức về hành động đó để thực hiện hành động theo yêu cầu đề ra nhưng chưa tính đến kết quả của hành động.
Tác giả P.A. Ruđích: “Kĩ năng là tác động mà cơ sở của nó là sự vận dụng thực tế của kiến thức đã tiếp thu được để đạt được kết quả trong một hình
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">thức hoạt động cụ thể”. N.D.Levitov thì cho rằng: “Kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một tác động nào đó hay một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng đúng đắn các hình thức hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả” .Theo Vũ Dũng: “Kĩ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [dẫn theo 9]. Theo các tác giả này, kĩ năng không chỉ là việc vận dụng tri thức vào các hành động, hoạt động cụ thể, mà nó cịn thể hiện năng lực của chủ thể hành động, và việc vận dụng này cịn phải đem lại hiệu quả.
Quan điểm của K.K.Platơnơp: Kĩ năng là khả năng của con người thực hiện một hoạt động bất kì nào đó hay các hoạt động trên cơ sở của kinh nghiệm cũ. Đặng Thành Hưng lại cho rằng: “Kĩ năng là dạng hành động được thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những điều kiện sinh học – tâm lí khác của cá nhân (chủ thể của kĩ năng đó) như nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân…để đạt được kết quả theo mục đích hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành cơng theo chuẩn hay quy định” [13,tr25]. Ở đây các tác giả cho rằng, kĩ năng không chỉ là việc vận dụng tri thức liên qua đến hành động, hoạt động cần thực hiện; mà kĩ năng còn vận dụng những kiến thức kinh nghiệm cũ và điều kiện tâm sinh lý của chủ thể hành động để hực hiện hành động đó.
Như vậy, qua các nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy rằng: Kĩ năng là khả năng vận dụng vốn tri thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động hay một hành động nào đó và đạt được kết quả theo yêu cầu của hành động.
<i><b>1.2.3. Kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi </b></i>
Theo từ điển Tiếng Việt “bảo vệ” là: “che chở, gìn giữ ”, với cách cắt nghĩa này, bảo vệ có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là giữ gìn, chống xâm phạm, hư hỏng và mất mát. Nghĩa thứ hai là dùng lí lẽ để giữ vững ý kiến, quan điểm, học thuyết. Do đó, “bảo vệ” chính là dùng lí lẽ hoặc hành động để bênh vực, giữ ý kiến, quan điểm, hay gữi gìn, chống sự xâm phạm gây hại đến mình hay người xung quanh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">“Bảo vệ bản thân” là khả năng tự biết cách phịng tránh và giải quyết các tình huống khơng an tồn, nguy hiểm xung quanh mình, bảo vệ an tồn cho chính mình về mặt thể xác cũng như tinh thần.
Kĩ năng bảo vệ bản thân là một dạng kĩ năng sống, là khả năng cá nhân vận dụng kiến thức, vốn kinh nghiệm để nhận biết và ứng phó với những mối nguy hiểm, khơng an tồn xảy ra trong cuộc sống của mình và những nười xung quanh.
Đối với trẻ 5-6 tuổi là lứa tuổi mần non, trẻ bắt đầu nhận thức rõ hơn về bản thân, nhận biết và điều chỉnh được hành vi của bản thân sao cho dần dần phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Nên ở độ tuổi này trẻ có khả năng nhận biết và phòng tránh các trường hợp nguy hiểm cho bản thân.
Như vậy, có thể hiểu: Kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi là khả năng trẻ nhận biết, phịng tránh và giải quyết được các tình huống nguy hiểm đến bản thân từ môi trường xung quanh trẻ.
<i><b>1.2.4. Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi </b></i>
Chương trình giáo dục mầm non được xây dựng giúp trẻ phát triển hài hịa về các mặt thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, từ đó hình thành nững yếu tố đầu tiên của nhân cách, những năng lực và phẩm chất mang tính bền vững, những kĩ năng cần thiết phù hợp với lứa tuổi…Chính vì vậy, giáo dục kĩ năng sống cho trẻ được thực hiện xuyên suất trong quá trình giáo dục trẻ tại trường mần non. Quá trình tác động sư phạm này có kế hoạch và mục tiêu cụ thể phù hợp với từng bậc tuổi của trẻ mầm non.
Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân, là một trong những nội dung giáo dục kĩ năng sống thông qua các hoạt động học tập nhằm giúp trẻ có đủ kiến thức, hiểu biết về những tình huống nguy hiểm, khơng an tồn xung quanh trẻ; từ đó giúp trẻ biết vận dụng để hình thành và phát triển những thói quen hành vi, thái độ tích cực, lành mạnh trong phịng tránh và ứng phó với các tình huống khơng an tồn, giúp trẻ bảo vệ bản thân sống an toàn và khỏe mạnh.
Như vậy, theo chúng tôi giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân là: Giáo dục những kĩ năng mang tính cá nhân và xã hội, giúp trẻ vận dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có để trẻ biết cách phòng tránh và phản ứng tích
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">cực với các tình huống khơng an toàn, nguy hiểm xung quanh trẻ, đảm bảo an tồn cho bản thân.
Theo đó, có thể hiểu: Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi là tổ chức các hoạt động nhằm hình thành và phát triển cho trẻ 5-6 tuổi khả năng vận dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có để nhận biết và ứng phó với các tình huống khơng an toàn, hoàn cảnh nguy hiểm xảy ra để đảm bảo an toàn cho bản thân.
<b>1.3. Kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b>
<i><b>1.3.1. Đặc điểm sinh lý, tâm lý của trẻ 5-6 tuổi </b></i>
* Đặc điểm sinh lý:
Ở giai đoạn 5-6 tuổi, chiều cao và khối lượng cơ thể của trẻ tăng với tốc đọ chậm hơn gian đoạn trước (1-3 tuổi). Mỗi năm chiều cao tăng trung bình 6-7cm, cịn khối lượng cơ thể tăng trung bình 1-2 kg [14].
Các hệ cơ quan trong cơ thể tiếp tục hoàn thiện và phát triển. Hệ thần kinh tăng trưởng về hình thái và cấu trúc. Não trẻ tiếp tục phát triển, trọng lượng não tăng lên khoảng 1100 gram đến 1150 gram. Hiện tượng mielin hóa các sợi thần kinh tiếp tục được diễn ra, đặc biệt tại các vùng đại diện của cơ quan phân tích sự mielin diễn ra sớm hơn cả. Hệ thống tín hiệu thứ hai và các cơ quan phân tích phát triển mạnh, tốc độ hình thành phản xạ có điều kiện tăng nhanh [ 14].
* Đặc điểm tâm lý: - Ngôn ngữ:
Ở cuối tuổi mẫu giáo phát triển ngôn ngữ mạch lạc hơn so với giai đoạn trước. Ngôn ngữ mạch lạc thể hiện tư duy trẻ tốt, GD MN giúp trẻ. Các tính chất ngơn ngữ thường gặp ở trẻ 5 - 6 tuổi là: Ngơn ngữ giải thích; ngơn ngữ tình huống; tính mạch lạc rõ ràng; tính địa phương trong ngơn ngữ; tính cá nhân [ 14]
Khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc phần lớn vào việc hướng dẫn và sự gương mẫu về lời nói của người lớn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">- Ý thức bản ngã:
Thể hiện rõ nhất trong sự đánh giá về thất bại hay thành công của mình, về những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân. Trẻ biết thể hiện hành vi cho phù hợp với đặc điểm tâm lý và giới tính của bản thân; phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Trẻ sẽ dần hiểu rõ bản thân, và có khả năng so sánh mình với người khác. Và từ biết noi gương theo người tốt, việc tốt. [ 14]
- Đặc điểm nhận thức:
Trẻ 5-6 tuổi tự nhận thấy mình lớn hơn các trẻ lớp dưới trong trường MN. Những biểu tượng về những thuộc tính của đối tượng cụ thể và quen biết được dùng làm thước đo đối với trẻ.
Giai đoạn này tri giác trẻ đã tiếp tục phát triển mạnh, giúp trẻ nhận thức nhanh và tốt hơn. Giai đoạn này trẻ đã chuyển từ tri giác ở giai đoạn kể ra sang giai đoạn mô tả.Và trong tri giác trẻ vẫn cịn chịu tác động bởi ngơn ngữ tư duy. [14]
Khả năng tập trung và chú ý của trẻ dài và bền vững hơn giai đoạn trước. Khi xem tranh, lượng thời gian tăng gấp đôi so với trẻ 3-4 tuổi. Trẻ biết tự giác hướng chú ý , điều khiển chú ý của mình vào những đối tượng nhất định. Cuối độ tuổi đã có khả năng chú ý thực hiện hành động theo một chiến lược tối ưu. [dẫn theo 14]
Trẻ 5-6 tuổi có khả năng HĐ ngày càng phức tạp, hình thức ghi nhớ và nghi nhớ có chủ đích phát triển mạn. Trẻ bắt đầu có thể sử dụng đa dạng các điểm tựa như: sơ đồ, chữ viết, dấu hiệu quy ước… để ghi nhớ có chủ đích. Ở giai đoạn này trẻ tư duy chủ yếu là tư duy qua hình ảnh, nên trẻ dễ dàng giải quyết vấn đề dựa vào hình ảnh cụ thể. Nên GV nên đưa nhiều hình ảnh minh hạo trong quá trình GD trẻ.
Khả năng tư duy logic cũng phát triển trong trong giai đoạn lứa tuổi này. Tưởng tượng sáng tạo của trẻ được hình thành và phát triển: các dạng HĐ mang tính sáng tạo như vẽ, nặn, trò chơi xây dựng…đã được trẻ thực hiện rất tốt [ 14]
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">- Ý chí:
Ý chí của trẻ được phát triển rõ riệt, điều này khẳng định nhận thức được phát triển và nhân cách được định hình. Trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hồn thành nhiệm vụ. Hình thành tinh thần trách nhiệm qua các công việc trẻ được giao. Ý chí của trẻ mạnh hay yếu ảnh hưởng lớn do sự GD của gia đình và nhà trường. [dẫn theo 14]
- Đời sống tình cảm:
Trẻ 5-6 tuổi, tình cảm vẫn là mặt phát triển phong phú và sâu sắc nhất so với các chức năng tâm lý khác, chi phối mạnh mẽ đến trẻ.
+ Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển: Nảy sinh nhiều tình cảm tích cực trong trẻ như niềm vui, hứng thú, thích khám phá, ham hiểu biết. Bên cạnh đó tình cảm xuất hiện khi gặp thất bại và khi không như mong cầu cũng xuất hiện rõ nét hơn ở trẻ. Tất cả điều này đều củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ cho trẻ. [dẫn theo 14] + Tình cảm đạo đức: Trẻ phân biệt và lĩnh hội được các chuẩn mực hành vi tốt, xấu và có cách ứng xử cho phù hợp. Điều này càng được củng cố khi trẻ được giao tiếp, tương tác với nhiều người trong gia đình, họ hàng, làng xóm và với bạn bè cùng cơ giáo ở trường. [ 14]
+ Tình cảm thẩm mỹ: Qua các giờ học nghệ thuật tạo hình, múa, âm nhạc, Trẻ nhận biết một cách rõ nét về cái xấu, cái đẹp theo chuẩn, cảm thụ thẩm mỹ phát triển, cùng với đó cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cách bày trí thẩm mỹ của phịng học và gia đình .[ 14]
<b>1.3.2. Vai trò của kĩ năng bảo vệ bản thân đối với sự phát triển của trẻ 5-6 tuổi </b>
Thực tế xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày càng hiện đại, thì những mầm xanh tương lai, những thế hệ trẻ ngày nay lại đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ gây mất an tồn mà chúng ta cũng khơng thể lường trước. Do đó trẻ có kĩ năng sống, kĩ năng tự bảo vệ trước các mối nguy hiểm là hết sức cần thiết.
Trẻ 5-6 tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách như: giàu trí tưởng tượng, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tịi song cịn thiếu nhiều kiến thức hiểu biết về xã hội, kinh nghiệm sống, dễ bị rơi vào những tình huống nguy
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">hiểm mất kiểm sốt, khơng an tồn… nên trẻ cần có các kĩ năng sống khác nhau, trong đó khơng thể thiếu kĩ năng bảo vệ bản thân để trẻ được hình thành và phát triển nhân cách một cách tốt nhất.
Kĩ năng sống trong đó có kĩ năng bảo vệ bản thân có vai trị quan trọng đối với sự phát triển cá nhân của trẻ, cụ thể:
+ Giúp trẻ tự tin: Người ta thấy rằng, với cùng một vấn đề liên quan đến vấn đề giữ an tồn, những trẻ có q trình rèn luyện kĩ năng bảo vệ bản thân sẽ bình tĩnh, tự tin để giải quyến vấn đề của mình. Trẻ bộc lộ bản lĩnh, tự tin vào năng lực của bản thân
+ Giúp trẻ tự lập: Trẻ phụ thuộc phần lớn vào cha mẹ, hoặc cô giáo, từ nhu cầu ăn uống, vui chơi, trẻ luôn chờ mệnh lệnh từ cô giáo hoặc từ cha mẹ. Tuy nhiên, với những trẻ được giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân, sự tự lập sẽ khác hơn rất nhiều, trẻ biết thể hiện nhu cầu của mình, trẻ mong muốn và được tự mình thực hiện những nhu cầu ăn uống vệ sinh an toàn, nhu cầu vui chơi trong an toàn,...
+ Giúp trẻ biết hợp tác với các bạn: Một trong những điểm quan trọng của giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân chính là giúp trẻ biết hợp tác với bạn, cùng chơi, cùng chia sẻ, cùng bảo vệ chính mình và những người xung quanh, qua đó trẻ tự điều chỉnh các hành vi. Trong sinh hoạt vui chơi tập thể, trẻ biết hợp tác tốt với các bạn nhằm giữ an toàn và đem chiến thắng về cho đội của mình. Điều này giúp trẻ khơng sống ích kỷ mà hịa đồng với mọi người, từ đó cùng góp phần phát triển những kĩ năng giao tiếp.
+ Giúp trẻ biết sáng tạo trong việc tìm ra cách giải quyết vấn đề. Ở trường mầm non, các cô giáo thường tổ chức cho các em chơi thi đua tập thể qua đó rèn luyện kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ. Khi quan sát các hoạt động nhóm, người ta nhận thấy nhóm trẻ đã được giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân sẽ không chỉ đơn thuần thực hiện các động tác thi đua mà rất sáng tạo tìm cách giải quyết
<i><b>vấn đề. </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><i><b>1.3.3. Biểu hiện của kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
<small>Không tự ý uống thuốc </small>
<small>Không ăn uống các thức ăn ôi thiu, đồ ăn lạ dễ bị ngộ </small>
<small>Không lôi kéo, xô đẩy nhau khi di chuyển Không leo trèo lên lan can, bàn ghế, tủ đồ… Không tự ý ra khỏi cổng trường, ra khỏi nhà Trẻ chủ động đội mũ/áo mưa/ô khi trời mưa/nắng. 3 Kĩ năng nhận biết và </small>
<small>không chơi những nơi khơng an tồn, nguy hiểm đến tính mạng bản thân </small>
<small>Trẻ chủ động không đến chơi gần bể chứa nước, giếng, ao, hồ, sông suối, bụi rậm. </small>
<small>Trẻ biết không chơi những nơi mất vệ sinh: vũng </small>
<small>Trẻ biết và không chơi bàn là, bếp ga, bếp điện, bếp lửa đang đun, ổ điện, phíc nước nóng </small>
<small>Trẻ không chơi dao, kéo, kim tiêm, cốc thủy tinh, bát gọi người giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm </small>
<small>Biết gọi người lớn khi có: cháy nổ, bạn ngã xuống nước, bạn chảy máu </small>
<small>Khi bị lạc đứng tại chỗ, hỏi gọi người giúp đỡ (công an, bảo vệ, người quen) </small>
<small>Không nghe theo, đi theo và nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ, khi khơng có sự cho phép của người lớn. Biết bảo vệ cơ thể, không cho người khác tự ý chạm vào vùng “áo tắm” trên cơ thể khi không có sự cho </small>
<small>Đọc được địa chỉ gia đình, số điện thoại người thân. Sau giờ học không tự ý ra về và đi chơi </small>
<small>Không leo trèo, tường rào, ban công… </small>
<small>Đi bộ trên vỉa hè, sang đường phải có người lớn dắt Đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy; ngồi trong ơtơ thắt dây an tồn </small>
(Nguồn dẫn theo: [ 24] ,[30], )
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><b>1.4. Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b>
<i><b>1.4.1. Mục tiêu của giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Mục tiêu giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ mầm non là hướng tới mục tiêu chung của giáo dục mầm non, hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ một cách tồn diện. Trong đó giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi với mục tiêu trang bị cho trẻ những kiến thức, hình thành những kĩ năng để trẻ biết cách phịng tránh và ứng phó tích cực trước các tình huống khơng an tồn, nguy hiểm cho bản thân và những người xung quanh. Từ đó trẻ bình tĩnh, tự tin, sáng tạo trong việc tìm cách giải quyết vấn đề, nâng cao chất lượng cuộc sống của trẻ và góp phần phát triển bền vững cho xã hội.
+ Mục tiêu về kiến thức:
Trẻ hiểu được tầm quan trọng của KNBVBT và các kiến thức về: Hành động khơng an tồn khi ăn uống; những hành động nguy hiểm cho bản thân và những người xung quanh; những nơi, vật dụng, chất gây nguy hiểm cho tính mạng bản thân; nhận biết các trường hợp nguy hiểm cho bản thân và người xung quanh, cách gọi người giúp đỡ; quy tắc an toàn ở trường và nơi công cộng. Cung cấp kiếm thức về cách thức rèn luyện , thao tác rèn luyện để hình thành kĩ năng bảo vệ bản thân.
+ Mục tiêu kĩ năng:
Hình thành các KNBVBT cho trẻ: Kĩ năng nhận biết và không thực hiện những hành động nguy hiểm khi ăn uống. Kĩ năng nhận biết và không thực hiện những hành động nguy hiểm đến bản thân. Kĩ năng nhận biết và không chơi những nơi khơng an tồn, nguy hiểm đến tính mạng bản thân. Kĩ năng nhận biết và không chơi những vật dụng, chất nguy hiểm đến tính mạng bản thân. Kĩ năng nhận biết một số trường hợp khẩn cấp, kêu gọi người giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm. Kĩ năng thực hiện các quy định ở trường và nơi công cộng để đảm bảo an tồn.
+ Mục tiêu thái độ:
Hình thành được thái độ bình tĩnh, tự tin, tích cực trong các tình huống khơng an tồn, nguy hiểm khi trẻ gặp phải. Trẻ tự tin đưa ra quyết định của mình, khơng phụ thuộc vào người khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31"><i><b>1.4.2. Nguyên tắc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non cần đảm bảo các nguyên tắc chung trong quá trình giáo dục trẻ mần non, và quá trình giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Đảm bảo tính mục tiêu của giáo dục; Đảm bảo tính hệ thống, tiến trình thực hiện; Đảm bảo phù hợp với lứa tuổi; Đảm bảo sự tương tác và trải nghiệm của trẻ; Đảm bảo phù hợp với địa phương; Đảm bảo sự phối hợp với các lượng lực giáo dục
+ Đảm bảo tính mục tiêu của giáo dục:
Hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non cần đảm bảo phù hợp với mục tiêu chung của chương trình giáo dục mầm non. Chính vì vậy mọi hoạt động, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức…để hướng đến mục tiêu giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ phải đảm bảo cho trẻ phát triển hài hòa về thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm, kĩ năng xã hội và thẩm mỹ.
+ Đảm bảo tính hệ thống, lộ trình thực hiện:
Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi cần phải đảm bảo có tính hệ thống, nhất qn trong tiến trình giáo dục. Điều này được thể hiện qua bản kế hoạch năm, tháng, tuần, ngày của nhà trường và giáo viên. Và đảm bảo việc hình thành kĩ năng phải đi theo lộ trình từ việc hình thành kiến thức, nhận biết giá trị đến việc rèn luyện thực hành, vận dụng vào thực tiễn.
+ Đảm bảo phù hợp với lứa tuổi:
Tổ chức giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi cần đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non, đặc biệt là hoạt động chủ đạo của trẻ 5-6 tuổi. Hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này là hoạt động vui chơi mà trung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề.
+ Đảm bảo sự tương tác và trải nghiệm của trẻ:
Để hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi hiệu quả, cần tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, quan sát, đóng vai, tạo sự tương tác
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">của trẻ với nhau và những người xung quanh. Trong quá trình tương tác tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ vốn hiểu biết, kinh nghiệm đã có của bản thân để giải quyết vấn đề gặp phải. Trẻ tự trải nghiệm sẽ biết phân tích những gì đã làm và những gì đã thấy, suy đốn về các hành động có thể thay thế để giải quyết vấn đề hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
+ Đảm bảo phù hợp với địa phương:
Mỗi địa phương điều có đặc điểm kinh tế - xã hội khác nhau. Chính vì vậy trẻ cũng sẽ có kinh nghiệm sống và sự tương tác với môi trường sống khác nhau. Trẻ sống ở nông thôn được tự do tham gia nhiều hoạt động vui chơi và lao động gần gũi với thiên nhiên, nhờ sự trải nghiệm đó trẻ nơng thơn thường có các kĩ năng bảo vệ bản thân khi tiếp xúc với bếp lửa, ao hồ, sông suối … hơn trẻ ở thành thị. Ngược lại, đối với trẻ sống ở thành thị cũng sẽ có các kĩ năng bảo vệ bản thân tốt hơn trẻ nông thôn khi tham gia giao thông đơ thị, giao tiếp với người lạ…Dó đó để giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ cần xét đặc điểm kinh tế- xã hội nơi trẻ sinh sống, để xác định các kĩ năng bảo vệ bản thân cần giáo dục cho trẻ.
+ Đảm bảo sự phối hợp với các lượng lực giáo dục:
Giáo dục kĩ năng là quá trình liên tục và lâu dài, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, đòi hỏi sự phối kết hợp chặt chẽ của nhiều lực lượng xã hội, nhất là sự quan tâm đúng mức của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội. Việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ cũng cần sự chung tay của các lực lượng giáo dục nói trên. Do đó, nhà trường cần phải làm cho tồn xã hội thấy rõ vai trò của việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ, từ đó huy động sự tham gia có trách nhiệm của gia đình và các tổ chức xã hội. Nhằm chung tay giáo dục, rèn luyện các phẩm chất và năng lực tích cực giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện.
<i><b>1.4.3. Nội dung giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Nội dung giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trườn mầm non được thể hiện như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">* Nhóm kĩ năng nhận biết và không thực hiện những hành động nguy hiểm khi
ăn uống:
- Không cười đùa trong khi ăn uống hoặc khi ăn các loại quả có hạt dễ bị hóc sặc…
- Khơng tự ý uống thuốc
- Không ăn uống các thức ăn ôi thiu, đồ ăn lạ dễ bị ngộ độc - Không uống rượu,bia, cà phê, hút thuốc lá
* Nhóm kĩ năng nhận biết và không thực hiện những hành động nguy hiểm đến bản thân:
- Không lôi kéo, xô đẩy nhau khi di chuyển - Không leo trèo lên lan can, bàn ghế, cây cối… - Không tự ý ra khỏi cổng trường, ra khỏi nhà - Trẻ chủ động đội mũ/áo mưa/ơ khi trời mưa/nắng
* Nhóm kĩ năng nhận biết và không chơi những nơi không an tồn, nguy hiểm đến tính mạng bản thân:
- Trẻ chủ động không đến chơi gần bể chứa nước, giếng, ao, hồ, sông suối, bụi rậm
- Trẻ biết không chơi những nơi mất vệ sinh: vũng nước bẩn,đất cát bùn bẩn. * Nhóm kĩ năng nhận biết và không chơi những vật dụng, chất nguy hiểm đến tính mạng bản thân:
- Trẻ biết và không chơi bàn là, bếp ga, bếp điện, bếp lửa đang đun, ổ điện, phíc nước nóng.
- Trẻ khơng chơi dao, kéo, kim tiêm, cốc thủy tinh, bát sứ - Trẻ không tiếp xúc với lửa, nước sôi, chất tẩy rửa độc hại
* Nhóm kĩ năng nhận biết một số trường hợp khẩn cấp, kêu gọi người giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm:
- Biết gọi người lớn khi có: cháy nổ, bạn ngã xuống nước, bạn chảy máu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">- Khi bị lạc đứng tại chỗ, hỏi gọi người giúp đỡ (công an, bảo vệ, người quen).
- Không nghe theo, đi theo và nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ khi khơng có sự cho phép của người lớn.
- Biết bảo vệ cơ thể, không cho người khác tự ý chạm vào vùng áo tắm trên cơ thể khi khơng có sự cho phép của người lớn.
* Nhóm kĩ năng thực hiện các quy định ở trường và nơi công cộng để đảm bảo an tồn:
- Sau giờ học khơng tự ý ra về và đi chơi. - Không leo trào, tường rào, ban công…
- Đi bộ trên vỉa hè, sang đường phải có người lớn dắt.
- Đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy; ngồi trong ơtơ thắt dây an tồn.
<i><b>1.4.4. Phương pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Việc giáo dục cho trẻ phải từ nhận thức đến thái độ, cuối cùng hình thành hành vi. Do đó, để giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi có hiệu quả thì phải sử dụng các phương pháp giáo dục tác động vào cả ba mặt này. Có thể đề cập đến các phương pháp cơ bản sau:
* Nhóm phương pháp trực quan:
Nhóm phương pháp trực quan bao gồm các phương pháp: làm mẫu, chỉ dẫn trực quan (cùng làm), làm gương. Phương pháp này tổ chức cho trẻ được quan sát, được tiếp xúc và giao tiếp với đối tượng, phương tiện (vật thật, mơ hình, đồ chơi…); trẻ được quan sát hành động mẫu ( cô làm mẫu, xem video, tranh ảnh…). Đồng thời kết hợp với lời nói miêu tả chỉ dẫn trẻ. Trẻ sử dụng giác quan của mình để quan sát, bắt chước/ tập theo, thực hành thường xuyên sẽ trở thành kĩ năng
Sử dụng phương pháp này trong giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ giáo viên cần lưu ý khi làm mẫu cần chậm rãi, rõng ràng, chỉ dẫn ân cần để trẻ tri giác được trọn vẹn. Giáo viên tạo bầu khơng khí thoải mái vui vẻ khi làm cùng trẻ, và luôn làm gương mọi lúc mọi nơi.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">* Nhóm phương pháp thực hành
Nhóm phương pháp này tổ chức cho trẻ được bắt chước, tập thử và rèn luyện liên tục để hình thành kĩ năng. Nhóm phương pháp này bao gồm các phương pháp: trải nghiệm, trò chơi, giao việc. Đây là phương pháp chủ đạo để hình thành kĩ năng cho trẻ.
Phương pháp trải nghiệm: trẻ thực hành những điều đang học, nhằm củng cố kiến thức và kĩ năng đã được thu nhận. Giáo viên tạo môi trường thân thiện, hấp dẫn cho trẻ được thực hành, khuyến khích trẻ tự tập, và thực hiện thường xuyên. Tạo cơ hội cho trẻ được giao tiếp và sử dụng nhiều đồ dùng để rèn luyện hằng ngày.
Phương pháp trò chơi: Phương pháp này sử dụng các trò chơi với các yếu tố phù hợp để kích thích trẻ tự nguyện, hứng thú, tích cực thực hành nhằm giúp các trẻ rèn luyện kĩ năng. Giáo viên ban đầu nên chơi cùng trẻ, có thể lựa chọn các trị chơi sẵn có hoặc tự sáng ra sao cho nội dung trò chơi hướng tới việc rèn luyện kĩ năng cần hình thành cho trẻ. Nên tạo các tình huống chơi đa dạng, phong phú, để trẻ có cơ hội thử nghiệm, thực hiện kĩ năng.
Phương pháp giao việc: giáo viên dùng các công việc hàng ngày, vừa sức trẻ, phù hợp với mục tiêu hình thành kĩ năng cho trẻ . Khuyến khích trẻ thực hiện mỗi ngày, điều đặn vào thời điểm nhất định trong chế độ sinh hoạt để trẻ luyện tập kĩ năng . Tạo hứng thú cho trẻ bằng cách cho trẻ tự nhận một cơng việc mình thích, cần chuẩn bị dụng cụ vừa tầm vóc trẻ.
* Nhóm phương pháp dùng lời nói:
Phương pháp này sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm giúp trẻ thu nhận thông tin, khơi mở suy nghĩ, chia sẻ ý tưởng, bộc lộ cảm xúc, gợi nhớ những hình ảnh sự kiện bằng lời nói. Từ đó, giúp trẻ ghi nhớ kiến thức và kĩ năng được học. Nhóm phương pháp này gồm các phương pháp: trò chuyện, giảng giải, khen gợi.
Phương pháp trò chuyện: Giáo viên sử dụng các tình huống hàng ngày để trị chuyện, đặt câu hỏi với trẻ…để huy động tối đa kinh nghiệm về kĩ năng cần giáo dục trẻ. Cũng có thể đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe, cho trẻ kể lại giúp nâng cao được hiệu quả giáo dục kĩ năng cần hình thành cho trẻ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Phương pháp giảng giải: Giáo viên sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (hành động mẫu, hàng động mô phỏng hoặc tranh ảnh) nhằm giải thích diễn giải cho trẻ hiểu sự cần thiết cũng như cách thức thực hiện, những điều cần lưu ý trong quá trình rèn luyện hình thành kĩ năng cho trẻ. Lời hướng dẫn cần dễ hiểu, dễ nhớ, thích thú, lặp đi lặp lại để trẻ dễ làm theo.
Phương pháp khen ngợi: Sử dụng hình thức khen chê phù hợp, đúng lúc, đúng việc, đúng trẻ. Tuy nhiên biểu dương là chính, nhưng khơng q lạm dụng và đồng thời khiển trách, phê bình phải đúng mực. Giáo viên sử dụng lời nói, hành động, quà tặng, điểm số…để khen ngợi, khích lệ trẻ hăng hái thực hiện đúng, thường xuyên kĩ năng cần giáo dục.
<i><b>1.4.4. Hình thức giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Qúa trình giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ, giáo viên có thể sử lồng ghép các nội dung giáo dục bảo vệ bản thân thông qua hoạt động học, hoạt động vui chơi và các hoạt động khác. Có các hình thức cơ bản sau để tổ chức giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ:
* Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ thông qua hoạt động học: Hoạt động học của trẻ là hoạt động được tổ chức có chủ định, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có thể lồng ghép giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ với các hoạt động học của trẻ như: khám phá thế giới xung quanh, làm quen với các biểu tượng toán, làm quen với các tác phẩm văn học (kể chuyện, đọc thơ…), hoạt động tạo hình ( vẽ, nặn, cắt, dán, xếp hình), hoạt động âm nhạc (hát, vận động theo nhạc, nghe hát, nhạc). Thông qua các hoạt động phát triển nhận thức, thể chất, ngơn ngữ, thẩm mĩ giáo viên hình thành và rèn luyện cho trẻ kĩ năng bảo vệ bản thân.
* Giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi: Đối với trẻ mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Khi vui chơi, trẻ tích cực, chủ động trong việc vận dụng các kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện ý tưởng chơi. Đồng thời, trẻ dễ dàng lĩnh hội kiến thức, kĩ năng thông qua việc
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">thực hiện các hành động của vai chơi, qua giao tiếp với giáo viên, với bạn bè. Để giáo dục kĩ năng an toàn khi tự chơi, cơ giáo có thể tổ chức như sau: Ở góc học tập, giáo viên chuẩn bị các bức tranh vẽ những đồ dùng nguy hiểm/không nguy hiểm trong gia đình để trẻ lựa chọn, tơ màu, nối hình... Tổ chức hoạt động ngồi trời, cơ giáo nói để trẻ biết chơi trong bóng mát, biết chơi cầu trượt, đu quay đúng cách, biết nghỉ khi thấy mệt, không chạy nhanh, không xô đẩy, tranh giành đồ chơi với bạn, không lại gần khi đu quay đang quay, không bước lên/xuống khi đu quay chưa dừng hẳn... Với một số nội dung như chăm sóc vườn hoa, giúp bác làm vườn xới đất trồng cây hay thu hoạch rau củ, trẻ còn học được cách sử dụng dụng cụ lao động đơn giản như cuốc, xẻng, bình tưới cây. Khi giáo dục trẻ KN đảm an toàn khi đi trên đường, giáo viên có thể tổ chức vào thời điểm chơi ngồi trời. Giáo viên chuẩn bị mơ hình đường phố trên sân trường, biển hiệu đèn giao thông, xe đạp ba bánh, xe đồ chơi; cho trẻ chơi lái xe theo hiệu lệnh, theo tín hiệu đèn giao thơng. Giáo viên cũng có thể đưa trẻ đến góc phố và thực hành đi bộ trên vỉa hè, sang đường. Qua đó, trẻ biết đi đúng làn đường quy định, đi bộ với tốc độ thong thả, thận trọng, không đùa nghịch, không nghĩ về việc khác, không chạy; sang đường ở những chỗ có vạch trắng dành cho người đi bộ và phải quan sát.
Trẻ 5-6 tuổi học bằng chơi - chơi mà học, đối với trẻ hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường. Thông qua giờ chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, khi đóng vai được tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua hoạt động vui chơi.
* Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ thông qua các hoạt động sinh hoạt hằng ngày: Việc học, tiếp nhận thông tin, kiến thức của trẻ diễn ra ở mọi lúc mọi nơi, trong các hoạt động trong ngày của trẻ như: giờ đưa đón trẻ, giờ ăn vệ sinh…
* Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ thông qua tổ chức các hoạt động ngày lễ, ngày hội: tổ chức rèn luyện kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ vào các sự kiện: Ngày quốc tế thiếu nhi 1/6, ngày tết nguyên Đán
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">* Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ thông qua các hoạt động ngoài trời: Khi cho trẻ chơi ngồi trời ln nhắc trẻ chơi an toàn, khi chơi trên sân trường không được chạy đùa, xô đẩy bạn vào đồ chơi sẽ bị ngã chảy máu.
Ngoài ra, Giáo dục kĩ năng tự bảo vệ cịn phối hợp với gia đình trẻ.
<i><b>1.4.5. Các lực lượng tham gia giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Để đạt được hiệu quả cao nhất và đảm bảo tính thống nhất, liên tục, tồn vẹn của quá trình giáo dục KN bảo vệ bản thân cho trẻ, thì cần có sự tham gia tích cực của các lực lượng sau:
Ban Giám hiệu: Là những người trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục đào tạo của nhà trường và có tính chất quyết định tới chất lượng giáo dục của cơ sở đó. Đặc biệt người đứng đầu là Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chính: khởi xướng đi đầu; xây dựng kế hoạch; điều hành tổ chức; động viên kích lệ giáo viên..trong q trình giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ. Do đó ban giám hiệu cần phải có năng lực quản lý, điều hành thì quá trình giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ mới đạt hiệu quả.
Giáo viên chủ nhiệm: Giáo viên là người trực tiếp cung cấp kiến thức và tổ chức rèn luyện để hình thành KNBVBT cho trẻ. Giáo viên là người gần gũi, chăm sóc, giáo dục trẻ hàng này, nên ln được các em bộ lộ tình cảm và nghe lời răn dạy của cơ giáo.
Gia đình: Là những người thân gần gũi nhất đối với trẻ, có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng và hành động của trẻ. Đây là lực lượng chính cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường và giáo viên trong việc giáo dục KNBVBT cho trẻ. Phòng giáo dục: Là lực lượng kết hợp với ban giám hiệu xây dựng kế hoạch, tổ chức chỉ đạo hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ. Đây cũng là lực tiến hành kiểm tra, thanh tra đôn đốc các trường MN trên địa bàn thực hiện hoạt động giáo dục theo chương trình GDMN của bộ ban hành, trong đó bao gồm cả hoạt động giáo dục KNBVBT cho trẻ.
Chính quyền địa phương: Đây là lực lượng tham gia hỗ trợ vào việc triển khai công tác giáo dục, đặc biệt triển khai công tác phổ cập giáo dục cho trẻ 5
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">tuổi. Xây dựng, phổ biến và thực hiện các biện pháp, các chế tài đủ mạnh, đủ hiệu quả trong cơng tác phịng chống cháy nổ, đảm bảo an toàn, an ninh trật tự ở địa phương. Chính vì vậy đây là lực lượng khơng thể thiếu trong việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ.
<i><b>1.4.6. Đánh giá hoạt động giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non </b></i>
Để đánh giá kết quả giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non cần căn cứ trên biểu hiện và mức độ kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ, giáo viên cần cụ thể hóa các biểu hiện của kĩ năng bảo vệ bản thân.
* Nhóm kĩ năng biết và không thực hiện những hành động nguy hiểm khi ăn uống:
- Không cười đùa trong khi ăn uống hoặc khi ăn các loại quả có hạt dễ bị hóc sặc…
- Khơng tự ý uống thuốc
- Không ăn uống các thức ăn ôi thiu, đồ ăn lạ dễ bị ngộ độc - Không uống rượu,bia, cà phê, hút thuốc lá
* Nhóm kĩ năng biết và khơng thực hiện những hành động nguy hiểm đến bản thân:
- Không lôi kéo, xô đẩy nhau khi di chuyển - Không leo trèo lên lan can, bàn ghế, cây cối… - Không tự ý ra khỏi cổng trường, ra khỏi nhà - Trẻ chủ động đội mũ/áo mưa/ô khi trời mưa/nắng
* Nhóm kĩ năng biết và khơng chơi những nơi khơng an tồn, nguy hiểm đến tính mạng bản thân:
- Trẻ chủ động không đến chơi gần bể chứa nước, giếng, ao, hồ, sông suối, bụi rậm
- Trẻ biết không chơi những nơi mất vệ sinh: vũng nước bẩn,đất cát bùn bẩn. * Nhóm kĩ năng biết và khơng chơi những vật dụng, chất nguy hiểm đến tính mạng bản thân:
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">- Trẻ biết và không chơi bàn là, bếp ga, bếp điện, bếp lửa đang đun, ổ điện, phíc nước nóng.
- Trẻ khơng chơi dao, kéo, kim tiêm, cốc thủy tinh, bát sứ - Trẻ không tiếp xúc với lửa, nước sôi, chất tẩy rửa độc hại
* Nhóm kĩ năng nhận biết một số trường hợp khẩn cấp, kêu gọi người giúp đỡ và chạy khỏi nơi nguy hiểm:
- Biết gọi người lớn khi có: cháy nổ, bạn ngã xuống nước, bạn chảy máu. - Khi bị lạc đứng tại chỗ, hỏi gọi người giúp đỡ (công an, bảo vệ, người quen).
- Không nghe theo, đi theo và nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ, khi khơng có sự cho phép của người lớn.
- <small>Biết bảo vệ cơ thể, không cho người khác tự ý chạm vào vùng áo tắm trên cơ thể khi khơng có sự cho phép của người lớn.</small>
* Nhóm kĩ năng thực hiện các quy định ở trường và nơi cơng cộng để đảm bảo an tồn:
- Sau giờ học không tự ý ra về và đi chơi. - Không leo trào, tường rào, ban công…
- Đi bộ trên vỉa hè, sang đường phải có người lớn dắt.
- Đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy; ngồi trong ôtô thắt dây an toàn.
* Từ các biểu hiện cụ thể trên, giáo viên cần quan sát sản phẩm hoạt động của trẻ, để xác định mức độ hình thành kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ, giáo viên có thể đánh giá theo 3 mức độ sau:
- Mức Tốt: Thường xuyên chủ động thực hiện đúng, đạt hiệu quả. - Mức Đạt: Đôi khi chủ động thực hiện đúng, đạt hiệu quả.
- Mức Chưa đạt: Không chủ động thực hiện, khi thực hiện còn thực hiện chưa đúng, chưa đạt hiệu quả.
<i>Mức độ biểu hiện của kĩ năng bảo vệ bản thân ở trẻ (Phụ lục 9) </i>
Thông qua việc đánh giá, nhà trường và giáo viên xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung mới trong việc giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ. Và tổng kết rút kinh nghiệm về các yếu tố tác động để có những điều kiện tốt hơn trong giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ.
</div>