Tải bản đầy đủ (.docx) (232 trang)

Tiểu thuyết lãng mạn trong văn học Việt Nam 1930 - 1945 dưới góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (953.82 KB, 232 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI***</b>

<b>PHẠM THỊ THIỂM</b>

<b>TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 -1945 </b>

<b>DƯỚI GĨC NHÌN THỂ LOẠI</b>

<b> ḶN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN</b>

<b>Hà Nội, 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>PHẠM THỊ THIỂM</b>

<b>TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 -1945 </b>

<b>DƯỚI GĨC NHÌN THỂ LOẠIChun ngành: Văn học Việt Nam</b>

<b>Mã số: 9.22.01.21 </b>

<b> LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN</b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Đăng Xuyền</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

thực hiện. Trong luận án này, tơi trình bày những kết quả nghiên cứu trung thực và khách quan, chưa được công bố bởi bất kỳ tác giả nào hay ở bất cứ cơng trình nào khác. Tất cả các thơng tin được trích dẫn trong luận án đều được định rõ nguồn gốc.

Tác giả

Phạm Thị Thiểm

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

1 CNLM Chủ nghĩa lãng mạn 2 TLVĐ Tự lực văn đoàn 3 TTLM Tiểu thuyết lãng mạn 4 VHLM Văn học lãng mạn 5 VHVN Văn học Việt Nam 6 HĐH Hiện đại hóa

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1. Lí do chọn đề tài...1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...6

4. Phương pháp nghiên cứu...7

5. Đóng góp mới của luận án...8

6. Cấu trúc luận án...8

<b>CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...9</b>

1.1. Chủ nghĩa lãng mạn và sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam...9

<i>1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn...9</i>

<i>1.1.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam...11</i>

1.2. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945...13

<i>1.2.1. Tiểu thuyết và những đặc điểm cơ bản của thể loại...13</i>

<i>1.2.2. Khái quát về tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945...18</i>

1.3. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945...21

<i>1.3.1. Đơi nét về tình hình nghiên cứu văn học lãng mạn trên thế giới...21</i>

<i>1.3.2. Lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết lãng mạn 1930 – 1945 ở Việt Nam...25</i>

Tiểu kết...48

<b>CHƯƠNG 2. SỰ XUẤT HIỆN VÀ CÁC CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂNCỦA TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 -1945...49</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX...49</i>

<i>2.1.2. Những ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XXđến đời sống văn học...52</i>

2.2. Ảnh hưởng một số nền văn học- văn hóa...56

<i>2.2.1. Văn học - văn hố Trung Quốc...57</i>

<i>2.2.2. Văn học - văn hoá phương Tây...59</i>

2.3. Sự xuất hiện tiểu thuyết lãng mạn và các chặng đường phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam...61

<i>2.3.1. Sự xuất hiện của tiểu thuyết lãng mạn ở Việt Nam...61</i>

<i>2.3.2. Các chặng đường phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam...62</i>

Tiểu kết...68

<b>CHƯƠNG 3. ĐỀ TÀI, CỐT TRUYỆN, KẾT CẤU VÀ CÁC KIỂU XUNGĐỘT NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>3.3.1. Kết cấu luận đề...97</i>

<i>3.3.2. Kết cấu tâm lý...104</i>

<i>3.3.3. Kết cấu lồng ghép...107</i>

<i>3.3.4. Kết cấu đa tầng bậc...109</i>

3.4. Xung đột nghệ thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945...112

<i>3.4.1. Xung đột giữa con người cá nhân với hoàn cảnh...114</i>

<i>3.4.2. Xung đột nội tâm...118</i>

Tiểu kết...121

<b>CHƯƠNG 4. THẾ GIỚI NHÂN VẬT VÀ NGHỆ THUẬT XÂY DỰNGNHÂN VẬT CỦA TIỂU THUYẾT LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 –1945...123</b>

4.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945...124

<i>4.1.1. Hình tượng nhân vật đại diện cho luân lý đạo đức phong kiến...124</i>

<i>4.1.2. Hình tượng người phụ nữ mới...135</i>

<i>4.1.3. Hình tượng người khách chinh phu...149</i>

4.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945. .156 <i>4.2.1. Miêu tả trực tiếp vẻ đẹp hình thể nhân vật bằng bút pháp tạo hình...156</i>

<i>4.2.2. Miêu tả tâm lý nhân vật qua hình thức lồng ghép thư tín, nhật ký...159</i>

<i>4.2.3. Miêu tả tâm lý nhân vật qua đối thoại, độc thoại nội tâm...163</i>

Tiểu kết...168

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

5.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật...169

<i>5.1.1. Người kể chuyện ngơi thứ ba với điểm nhìn tác giả...171</i>

<i>5.1.2. Người kể chuyện ngơi thứ nhất với điểm nhìn bên trong...173</i>

<i>5.1.3. Di chuyển ngơi kể và điểm nhìn trần thuật linh hoạt...176</i>

5.2. Giọng điệu trần thuật...179

<i>5.2.1. Giọng điệu mang đậm sắc thái trữ tình và suy tư...179</i>

<i>5.2.2. Giọng điệu giễu nhại, châm biếm, mỉa mai...185</i>

5.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930-1945...188

<i>5.3.1. Tính đối thoại trong ngơn ngữ tiểu thuyết...189</i>

<i>5.3.2. Ngôn ngữ giản dị, tinh tế, giàu sức biểu cảm...196</i>

Tiểu kết...200

<b>KẾT LUẬN...202</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...206</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tài</b>

1.1. Trong tiến trình văn học Việt Nam (VHVN), giai đoạn từ 1900 – 1945 được coi là thời kỳ vàng đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ từ hệ hình văn học truyền thống sang quỹ đạo văn học hiện đại. Trong đó, nếu ba mươi năm đầu được coi là giai đoạn giao thời, đặt bản lề cho sự hiện đại hóa (HĐH) thì mười lăm năm sau đó (1930 – 1945) là giai đoạn diễn ra vơ cùng quyết liệt q trình HĐH với sự nở rộ của nhiều khuynh hướng, trào lưu văn học, sự xuất hiện của những thể loại văn học mới gắn liền với những tác gia, tác phẩm để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn học. Góp phần tạo ra những bước chuyển quyết liệt đó, chúng ta khơng thể khơng nhắc đến tên tuổi của các nhà văn như Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng...

1.2. Theo M. Bakhtin, “Mỗi một thể loại, nhất là thể loại lớn, thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người…” [14, tr.7]. Cùng với việc đề cao vai trò của thể loại, M. Bakhtin đặc biệt coi trọng vai trò của tiểu thuyết vì nó là “thể loại chính”, “là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho thời đại mới…một thể loại chúa tể” [14, tr 8]. Bởi vậy, nghiên cứu tiểu thuyết là nghiên cứu một thể loại quan trọng, giữ vị trí trung tâm, kết tinh giá trị của tư duy văn học nhân loại nói chung và văn học dân tộc nói riêng. Sự phát triển của tiểu thuyết không chỉ phản ánh bước đi, sự dịch chuyển của đời sống văn chương mà còn ghi nhận những đổi mới trong tư duy nghệ thuật.

Gắn với đời sống VHVN 1930 – 1945, đề cập đến tiểu thuyết, ta không thể không nhắc đến tiểu thuyết lãng mạn (TTLM) với những sáng tác kết tinh tư tưởng và tài năng nghệ thuật của các nhà văn lớn như Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tn... Sáng tác của họ có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của văn học giai đoạn này – một giai đoạn “văn học phát triển rất mạnh mẽ, có thể nói là bùng nổ, đạt được nhiều thành tựu phong phú, rực

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

rỡ, đặc sắc... vừa mới mẻ về nội dung, vừa già dặn, điêu luyện về nghệ thuật” [167, tr.14]. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm này, dẫu gần một thế kỷ đã đi qua nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tập trung, chuyên biệt về TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại.

1.3. “Có một thực tế là văn học lãng mạn (VHLM) ở ta dường như bị lãng quên trong khi trên thế giới nó vẫn được nghiên cứu rất nghiêm túc, tồn diện. Thậm chí có nhiều tác phẩm lãng mạn được khám phá lại trong trường ảnh hưởng của lý thuyết mới” [124, tr.7]. Thực tế đó cho thấy, trong khi tiểu thuyết - một thể loại trung tâm – nhân vật chính trên sân khấu văn học, đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ, phong phú chưa từng có trong lịch sử VHVN nhưng dường như lại chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. Bởi vậy, việc nghiên cứu về TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại là hướng nghiên cứu có ý nghĩa nhằm đánh giá đúng mức giá trị của TTLM giai đoạn này.

1.4. Sau gần một thế kỷ, vấn đề nhận thức lại để tìm “những cách đọc khác” đã và đang trở thành một hướng đi mới trong nghiên cứu văn học lãng mạn (VHLM) ở Việt Nam. Gần một thế kỷ đã đi qua nhưng những ngổng ngang, dang dở trong định giá về bộ phận văn học này càng khiến cho vấn đề “nhận thức lại” trở nên cấp thiết hơn. Trong tình hình ấy, việc chọn góc nhìn mới- góc nhìn thể loại để nghiên cứu TTLM sẽ giúp cho việc nghiên cứu về bộ phận văn học này trở nên tồn diện, cơng tâm hơn.

Xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, chúng tôi quyết

<i><b>định lựa chọn Tiểu thuyết lãng mạn trong văn học Việt Nam 1930 - 1945 dưới góc</b></i>

<i><b>nhìn thể loại làm đề tài luận án của mình. </b></i>

<i>Khái niệm Tiểu thuyết lãng mạn ở đây được quan niệm tiểu thuyết</i>

thuộc khuynh hướng trào lưu lãng mạn Việt Nam 1930-1945. Nó khơng thuầntúy là lãng mạn chủ nghĩa mà cịn bao gồm cả những tác phẩm có yếu tố hiệnđại chủ nghĩa, thuộc chủ nghĩa hiện đại, mà cơ sở của nó là lãng mạn. Những

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cuốn tiểu thuyết mà luận án khảo sát có tính chất, đặc trưng khác với tiểu thuyết thuộc khuynh hướng, trào lưu hiện thực chủ nghĩa.

<b>2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>2.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>

Đối tượng nghiên cứu của luận án là TTLM Việt Nam dưới góc nhìn thể loại. Thực chất, TTLM bao chứa trong nó hai vấn đề: thể loại và trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật. Cụ thể hơn, trong luận án này, vấn đề thể loại (tiểu thuyết) luôn được xem xét trong mối quan hệ với trào lưu lãng mạn.

<i><b>2.2. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

Phạm vi nghiên cứu của luận án là tiểu thuyết Việt Nam sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn ra đời trong khoảng thời gian 1930 - 1945. Để khoanh vùng TTLM thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả luận án dựa vào các tiêu chí sau:

Thứ nhất: chỉ đưa vào phạm vi nghiên cứu của luận án những tiểu thuyết được sáng tác dựa trên nguyên tắc sáng tạo của chủ nghĩa lãng mạn (CNLM). Trên cơ sở lấy nguyên tắc sáng tạo của CNLM làm tiêu chí phân loại, tác giả luận án chủ yếu dựa vào những đặc điểm đã được khái quát như: thái độ phủ định với những chuẩn mực và những quy phạm đã lỗi thời; không mô tả - thậm chí thốt ly thực tại, trở về với thiên nhiên; đề cao tinh thần tự do và tính chủ quan trong sáng tạo nghệ thuật; đề cao tính dân tộc; tìm kiếm sự khác lạ và vươn tới cái phi thường…. Những nguyên tắc này sẽ được phân tích cụ thể hơn trong nội dung 1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn.

Thứ hai: chỉ đưa vào phạm vi nghiên cứu của luận án những TTLM được sáng tác trong khoảng thời gian 15 năm (từ 1930 – 1945).

Liên quan đến mốc thời điểm 1930 này, hiện nay có nhiều quan điểm đa dạng về các năm mốc và phân kỳ văn học có liên quan đến cơ sở cho việc lựa chọn năm 1930 hay 1932. Một trong những nguyên nhân đưa đến sự khác biệt trong lựa chọn các năm mốc này là vì năm 1932 được coi là năm ra đời của trào lưu văn học

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>lãng mạn Việt Nam (năm này gắn liền với sự xuất hiện của Hồn bướm mơ tiên của</i>

Khái Hưng và phong trào Thơ Mới). Điều này đã được khẳng định thơng qua một

<i>số cơng trình nghiên cứu như: Phong trào Thơ mới (1932 – 1945), Tự lực văn đoàn</i>

<i>– con người và văn chương của tác giả Phan Cự Đệ…</i>

Tuy nhiên, trong cơng trình này, tác giả luận án lại chọn mốc 1930 chứ không phải 1932. Tác giả lựa chọn mốc 1930 với ý nghĩa đây là một dấu mốc của một giai đoạn văn học mới – giai đoạn văn học hiện đại (quan điểm này được nhiều

<i>nhà nghiên cứu thừa nhận như: Phan Cự Đệ (Giáo trình Văn học Việt Nam (1900 </i>

<i>-1945), NXB Giáo dục, 1998; Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – -1945), NXB Văn</i>

<i>học, 2002; Văn học Việt Nam thế kỷ XX – những vấn đề lịch sử và lý luận, NXBGiáo dục, 2005); Trần Đăng Suyền và Lê Quang Hưng (công trình Văn học Việt</i>

<i>Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Đại học Sư phạm, 2017). Hơn nữa, trong</i>

cơng trình này, tác giả luận án muốn đặt tiểu thuyết lãng mạn trong tiến trình của văn học Việt Nam hiện đại để thấy được những đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn trong việc hiện đại hoá văn học hơn là chỉ đặt TTLM trong trào lưu VHLM nói chung.

Trên tinh thần ấy, người viết luận án cũng khẳng định rằng: việc người viết lựa chọn mốc 1930 không đồng nghĩa với việc mốc thời gian này sẽ là một lát cắt rạch ròi phân biệt giữa thời kỳ văn học trước và sau đó (1900 – 1930 và 1930 – 1945). Điều này cũng khơng có nghĩa là người viết phủ định mốc 1932 với những ý nghĩa hết sức quan trọng gắn liền với sự ra đời của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam.

Với những lí lẽ trên, việc lựa chọn khoảng thời gian 1930 – 1945 không đơn thuần là thời điểm chính xác gắn liền với sự ra đời của các TTLM thuộc phạm vi khảo sát mà thực chất nó là một giai đoạn văn học với những thành tựu nổi bật góp phần hiện đại hóa văn học nước nhà.

Ngồi tiêu chí về thời gian và lấy ngun tắc sáng tạo của CNLM làm kim chỉ nam định hướng, việc khoanh vùng TTLM Việt Nam vẫn thực sự là một cơng việc khó khăn, nhiều thách thức. Khó khăn trước hết là bởi sự thiếu rành mạch trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

việc lựa chọn khuynh hướng sáng tác của các nhà văn. Chính sự thiếu rành mạch này đã dẫn đến hiện tượng một số cây bút hiện thực xuất sắc (Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng…) đồng thời cũng là tác giả của một số tiểu thuyết

<i>đậm chất lãng mạn (trường hợp Tắt lửa lòng của Nguyễn Cơng Hoan là một ví dụ). </i>

Ngược lại, một số cây bút lãng mạn xuất sắc nhưng đồng thời cũng là tác giả

<i>của những tiểu thuyết hiện thực có giá trị (trường hợp Khái Hưng với Thốt ly</i>

). Đặc biệt, trong một số tiểu thuyết còn pha trộn cả yếu tố hiện thực và lãng mạn (những trang viết vừa đậm chất hiện thực (hiện thực nghiêm ngặt) nhưng cũng tràn

<i>đầy cảm hứng lãng mạn (Thời thơ ấu của Nguyên Hồng là một trường hợp). Bên</i>

cạnh sự không rành mạch trong khuynh hướng, sự đan xen trong bút pháp hiện thực và lãng mạn, việc xác định phạm vi nghiên cứu của luận án cũng gặp phải khó khăn

<i>bởi sự pha trộn giữa những yếu tố của CNLM và chủ nghĩa hiện đại (Bướm trắng,</i>

<i>Đôi bạn của Nhất Linh, Đẹp của Khái Hưng). </i>

Thừa nhận tính chất tương đối trong việc xác định phạm vi nghiên cứu, trong cơng trình này, chúng tơi khơng tham vọng bao quát toàn bộ TTLM Việt Nam 1930 – 1945 mà chỉ lựa chọn một số tác giả, tiêu biểu với những tác phẩm, có giá trị về nội dung và nghệ thuật, có đóng góp quan trọng trong việc HĐH thể loại tiểu thuyết. Theo đó, một số TTLM khơng thực sự tiêu biểu sẽ không thuộc phạm vi

<i>nghiên cứu chính của luận án (như TTLM của Nguyễn Bính (Hai người điên giữa</i>

<i>kinh thành Hà Nội), Thạch Lam (Ngày mới)…</i>

Bên cạnh đó, khi nghiên cứu TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại, chúng tơi dành sự quan tâm đặc biệt đến đóng góp của TTLM ở thể tài tiểu thuyết lịch sử (TTLS). Nói đến TTLS giai đoạn này, ta không thể không nhắc đến khối lượng tiểu thuyết khá đồ sộ của Lan Khai nhưng chúng tôi cũng không đưa tiểu thuyết của Lan Khai vào phạm vi khảo sát của luận án. Sở dĩ như vậy là vì: “Tuy cảm hứng lãng mạn cũng là một trong những cảm hứng chủ đạo của TTLS Lan Khai nhưng ta khơng thấy ở đó sự thốt li thực tế để đề cao, tuyệt đối hóa cái Tôi như các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới, cũng khơng phải là thứ tình u thốt li, trốn tránh hiện thực để tìm một cuộc sống hưởng thụ như trong tiểu thuyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

của Tự lực văn đoàn (TLVĐ) mà tất cả những nỗ lực của Lan Khai ở mảng TTLS chính là để “dân ta phải biết sử ta”, để khích lệ lịng u nước của cả dân tộc” [213, tr44].

Trên cơ sở những yếu tố kể trên, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của luận án gồm tiểu thuyết của các tác giả Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Huy Tưởng và

<i>Nguyễn Tuân như: Khái Hưng với Hồn bướm mơ tiên (1932-1933), Nửa chừng xuân(1934), Gia đình (1936), Trống mái (1936); Tiêu Sơn tráng sĩ (1937), Đẹp (1939 -1940), Băn khoăn (1943); Nhất Linh với Đoạn tuyệt (1934), Đôi bạn (1936-1937),</i>

<i>Lạnh lùng (1935), Bướm trắng (1939 - 1940), Nắng thu (1942); Nhất Linh và Khái</i>

<i>Hưng với Gánh hàng hoa (1934), Đời mưa gió (1934); Nguyễn Huy Tưởng với Đêm</i>

<i>hội Long Trì (1942), An Tư (1943) và Nguyễn Tuân với Thiếu quê hương (1940). </i>

<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

<i><b>3.1. Mục đích nghiên cứu </b></i>

Đề tài được thực hiện nhằm mục đích chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật của TTLM Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 trên phương diện thể loại. Trên cơ sở đó, tác giả luận án đặt TTLM Việt Nam giai đoạn này trong diễn trình phát triển của thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam để khẳng định những đóng góp, đổi mới, cách tân của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên phương diện thể loại (đặc biệt là trên phương diện đổi mới tư duy và thi pháp thể loại). Đây cũng chính là nền tảng quan trọng góp phần khẳng định những đóng góp quan trọng trong nỗ lực HĐH văn học dân tộc của TTLM Việt Nam 1930 – 1945.

<i><b>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</b></i>

Hướng tới thực hiện những mục đích nghiên cứu nói trên, chúng tơi xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:

Thứ nhất: chỉ ra đặc điểm của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên cả phương diện nội dung và hình thức như đề tài, cốt truyện, kết cấu, xung đột, nhân vật, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Trên cơ sở phân tích và chỉ ra sự HĐH trên nhiều phương diện của TTLM Việt Nam 1930 – 1945, luận án hướng tới khẳng định những đổi mới trong tư duy và thi pháp thể loại của TTLM Việt Nam giai đoạn này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Thứ hai: phân tích đặc điểm TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại trong tương quan so sánh với tiểu thuyết trước đó và tiểu thuyết hiện thực cùng thời để thấy được sự khác biệt giữa TTLM và hiện thực giai đoạn này cũng như chỉ ra những đóng góp quan trọng của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên phương diện đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết, HĐH thi pháp thể loại.

Thứ ba: phân tích đặc điểm TTLM Việt Nam 1930 – 1945 từ góc nhìn thể loại trong tương quan so sánh với tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đặc biệt sau 1986 để thấy được những nền móng quan trọng mà TTLM 1930 – 1945 đã xây dựng và vai trị của nó trong việc tạo đà cho sự phát triển, đổi mới tư duy nghệ thuật và thi pháp thể loại giai đoạn sau.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Trong luận án chúng tôi vận dụng linh hoạt các phương pháp sau:

<i><b>- Phương pháp nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại: phương pháp</b></i>

nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại (cụ thể là thể loại tiểu thuyết) được vận dụng thường xuyên, xuyên suốt nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật trên phương diện thể loại.

<i><b>- Phương pháp nghiên cứu loại hình: được sử dụng trong phân loại các loại</b></i>

hình sáng tác, loại hình học thể loại tiểu thuyết (tiểu thuyết, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề).

<i><b>- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: phương pháp này cho phép xem xét</b></i>

một tác phẩm hay toàn bộ sáng tác của một nhà văn, một thể tài (tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề), một thể loại (tiểu thuyết) như là những hệ thống – những cấu trúc phức hợp của nhiều yếu tố có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau. Trên cơ sở đó, tác giả luận án có thể chỉ ra những yếu tố có mối quan hệ hữu cơ, tìm ra sự tác động giữa các yếu tố trong một chỉnh thể thống nhất đồng thời chỉ ra những yếu tố giữ vai trò hạt nhân có tác động chi phối đến các yếu tố khác làm nên diện mạo của toàn hệ thống. Đặc biệt, khi xem xét TTLM Việt Nam 1930 – 1945 như là một bộ phận hợp thành văn học, là sự kế thừa – phát triển của tiểu thuyết trước đó, là nền

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tảng cho sự phát triển của tiểu thuyết sau này... thì người viết sẽ có những đánh giá chính xác, đầy đủ hơn về giá trị vị trí, vai trị của TTLM Việt Nam giai đoạn này.

<i><b>- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Luận án vận dụng hướng tiếp cận thi</b></i>

pháp học (vận dụng thi pháp thể loại tiểu thuyết, thi pháp CNLM) trong việc xem chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung – hình thức cũng như sự chi phối từ quan niệm nghệ thuật dẫn đến những lựa chọn về nội dung và hình thức nghệ thuật.

<i><b>- Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng nhằm chỉ ra sự</b></i>

tương đồng và khác biệt giữa TTLM với các trào lưu, khuynh hướng văn học cùng thời; Ngoài ra, việc so sánh cũng giúp tác giả luận án thấy được sự đổi mới tư duy thể loại của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 so với giai đoạn trước.

<b>5. Đóng góp mới của luận án</b>

Thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận án dự kiến có những đóng góp chủ yếu như sau:

Thứ nhất: Luận án là cơng trình nghiên cứu tồn diện và hệ thống về TTLM Việt Nam dưới góc nhìn thể loại. Từ góc nhìn này, luận án tập trung phân tích và làm sáng tỏ những đặc điểm về thể loại của TTLM trên các phương diện như đề tài, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, xung đột, nghệ thuật trần thuật và ngôn ngữ nghệ thuật.

Thứ hai: đặt TTLM Việt Nam 1930 - 1945 trong diễn trình phát triển của thể loại tiểu thuyết, tác giả luận án đóng góp một góc nhìn nhằm khẳng định những đóng góp, đổi mới, cách tân của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 trên phương diện thể loại (đặc biệt là trên phương diện đổi mới tư duy và thi pháp thể loại).

Thứ ba: với đóng góp kể trên, luận án sẽ là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về TTLM Việt Nam 1930 - 1945.

<b>6. Cấu trúc luận án</b>

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm 5 chương: Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Chương 2. Sự xuất hiện và các chặng đường phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Chương 3. Đề tài, cốt truyện, kết cấu và các kiểu xung đột nghệ thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945

Chương 4. Thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945

Chương 5. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945

<b>CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</b>

<b>1.1. Chủ nghĩa lãng mạn và sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn họcViệt Nam </b>

<i><b>1.1.1. Chủ nghĩa lãng mạn </b></i>

Chủ nghĩa lãng mạn (romanticism, romantisme) là một trào lưu văn hóa xuất hiện ở những nước Âu Mĩ nhưng lại có tầm ảnh hưởng và ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa văn học tồn thế giới. Tên gọi “Chủ nghĩa lãng mạn” (CNLM) phát sinh từ tính từ “lãng mạn” (romantique), xuất hiện ở Pháp ngay từ thế kỷ XVII và nhanh chóng trở thành một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất Âu Mĩ vào cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Vào thời điểm mới ra đời, “lãng mạn” được hiểu là những gì hoang đường, kì lạ, khơng có trong hiện thực. Đến giữa thế kỷ XVIII, CNLM trở thành thuật ngữ dùng để chỉ trào lưu văn học mới, ghi nhận sự chuyển biến sâu sắc trong tâm lý, cảm xúc, ý thức hệ có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa tinh thần nhân loại.

CNLM nảy sinh do nhiều nguyên nhân – bao gồm cả nguyên nhân từ xã hội lịch sử và nguyên nhân nội tại của văn học nghệ thuật. Trong đó, nguyên nhân quan trọng nhất được xem như tiền đề tư tưởng – xã hội trực tiếp đưa đến sự ra đời của CNLM đó là những kinh nghiệm lịch sử mới gắn liền với Đại cách mạng Pháp (1789 - 1794). Lý tưởng khai sáng cùng những hứa hẹn đầy tinh thần nhân văn chủ nghĩa của cuộc Cách mạng đã từng mang lại cho các nhà văn biết bao hy vọng về một viễn cảnh tốt đẹp trong tương lai thì giờ đây, cuộc sống thực tại bị phong bế đã hình thành nên trong các nhà văn một cảm quan lịch sử mới thấm đẫm sự chán

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

chường và thất vọng. Ảo tưởng tiêu tan, các nhà lãng mạn chủ nghĩa sáng tạo văn học nghệ thuật trong một tâm thế chung có tính chất thế giới quan: một mặt thể hiện sự thất vọng, bất bình đối với thực tại đương thời; mặt khác, là ước mơ khát vọng hoàn thiện, vươn tới lý tưởng phổ quát.

Sáng tạo văn học nghệ thuật trong tâm thế chung ấy đòi hỏi ở người cầm bút cần phải có sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân. Điều này đã khiến cho những chuẩn mực thẩm mĩ, những quy phạm ràng buộc vốn được xem như “khuôn vàng thước ngọc” của chủ nghĩa cổ điển ở thế kỷ XVII nay trở thành giáo điều, cứng nhắc, cản trở và kìm hãm sự phát triển của văn học. Giải phóng văn chương khỏi những khuôn mẫu cứng nhắc của chủ nghĩa cổ điển, “CNLM san bằng mọi ngăn cách giả tạo giữa các thể loại, giải phóng cảm hứng và trí tưởng tượng nghệ thuật, làm phong phú ngôn ngữ văn chương” [222, tr.325]. Bởi vậy, căn cứ vào những đặc trưng phổ biến nhất, “có thể định nghĩa, CNLM trong văn học là một khuynh hướng thẩm mĩ được khơi nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về mặt tình cảm, cảm xúc, phát huy mạnh mẽ trí tưởng tượng. Đối lập với nguyên tắc “bắt chước tự nhiên” của chủ nghĩa cổ điển, phản ứng với tính duy lí, tính quy phạm mực thước của văn chương cổ điển, các nhà lãng mạn đề cao tính tích cực sáng tạo, quyền cải biến thực tại của người nghệ sĩ” [169, tr.110].

Sự thay đổi trong thế giới quan, nhân sinh quan cũng như tâm thế sáng tạo đó địi hỏi sự lý giải, kể cả lý giải bằng nghệ thuật và bắt buộc phải xem xét lại các

<i>nguyên tắc sáng tác. Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,</i>

Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), tại mục từ “Chủ nghĩa lãng mạn” [59, tr. 86-87], tập thể tác giả đã khái quát nguyên tắc sáng tạo của CNLM với những nét tiêu biểu gồm:

Thứ nhất: một cá nhân cô đơn xung đột với môi trường xung quanh, một khát vọng tự do cá nhân vô hạn tách biệt với xã hội, dẫn tới sự thích thú với những tình cảm mạnh mẽ, những tương phản gay gắt, những vận động bí ẩn tối tăm của tâm hồn.

Thứ hai: vai trị to lớn của cái trực giác, vơ thức.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Thứ ba: ý thức đầy đủ vai trị cá tính sáng tạo của nghệ sĩ đối lập với sự “bắt chước tự nhiên” của Chủ nghĩa Cổ điển. CNLM cho rằng nghệ sĩ có quyền cải biến thế giới hiện thực bằng cách tạo ra cho mình một thế giới riêng đẹp hơn, chân thực hơn và vì thế hiện thực hơn. Nó thích sự tưởng tượng phóng khống và bác bỏ tính quy phạm trong mĩ học và sự quy định có tính chất duy lí trong nghệ thuật. CNLM địi hỏi tính lịch sử và tính dân tộc của nghệ thuật với ý nghĩa chủ yếu là tái hiện lại màu sắc địa phương và thời đại.

Với những nguyên tắc sáng tạo trên, CNLM đã “cởi trói” cho văn chương khỏi những quy phạm chặt chẽ trước đó đồng thời đề cao tinh thần tích cực sáng tạo, coi trọng quyền tự do sáng tác, quyền cải biến thực tại của người nghệ sĩ. Nó đặt ra vấn đề xem xét, tái định giá hệ quy chuẩn văn học của chủ nghĩa cổ điển. Đây chính là một “bệ phóng” quan trọng góp phần đưa đến những tìm tịi thể nghiệm nhằm đổi mới, cách tân diện mạo đời sống văn học toàn thế giới.

<i><b>1.1.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam</b></i>

Nếu CNLM đã xuất hiện ở Pháp từ thế kỷ XVII và đạt đến thời kỳ phồn thịnh vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX thì ở Việt Nam, phải đến những năm ba mươi của thế kỷ XX CNLM mới thực sự xuất hiện với tư cách là một trào lưu văn học. Bởi đó là thời điểm CNLM trên thế giới (đặc biệt là CNLM Pháp) đã đạt đến giai đoạn phồn thịnh nên CNLM nhanh chóng bén rễ, phát triển mạnh mẽ và chỉ trong một khoảng thời gian ngắn đã mở ra một thời đại mới trong văn học nghệ thuật.

Cũng phải khẳng định rằng, mặc dù xuất hiện vào những năm ba mươi của thế kỷ XX nhưng những mầm mống của CNLM đã xuất hiện ngay từ cuối thế kỷ XIX với những sáng tác thơ văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, Đào Tấn. Sang đến đầu thế kỷ XX, một số tác phẩm văn học có tính

<i>chất lãng mạn như Khối tình con của Tản Đà, Một tấm lịng của Đồn Như Kh,</i>

<i>Giọt lệ thu của Tương Phố, Linh Phượng kí của Đơng Hồ, Tố Tâm của Hồng Ngọc</i>

Phách cũng được xem như là mầm mống của CNLM. Tuy những nền tảng đó xuất

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

hiện từ khá sớm nhưng “phải đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, hồn cảnh văn hóa xã hội ở Việt Nam mới đầy đủ những điều kiện chín muồi để CNLM ra đời. Và đến 1932, CNLM mới thực sự xuất hiện trong VHVN” [169, tr.112].

Ngay sau khi xuất hiện ở Việt Nam, CNLM đã có những bước phát triển mạnh mẽ với đầy đủ những đặc trưng của nó ở hầu khắp các thể loại và trở thành một trào lưu văn học quan trọng trong VHVN giai đoạn 1930 – 1945. Tiêu biểu hơn cả, đó là văn xi của nhóm TLVĐ (gắn liền với sáng tác của các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam…), sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân trước Cách mạng và thơ ca của phong trào Thơ mới (gắn liền với sáng tác của Thế Lữ, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…).

Cần phải nói thêm rằng, mặc dù khẳng định sự phát triển của CNLM trong VHVN gắn liền với sáng tác của các nhà văn trong nhóm TLVĐ nhưng sáng tác của các nhà văn TLVĐ không thuần túy chỉ là lãng mạn (bên cạnh phần lớn những

<i>TTLM, vẫn có một số ít sáng tác mang khuynh hướng hiện thực như Thốt ly, Thừa</i>

<i>tự); có một số tiểu thuyết Đẹp, Băn khoăn, Bướm trắng, Đơi bạn có yếu tố của chủ</i>

nghĩa hiện đại)... Thêm nữa, TTLM không chỉ có trong những sáng tác của các nhà văn TLVĐ mà cịn có trong sáng tác của các nhà văn khác như Nguyễn Huy Tưởng

<i>(An Tư, Đêm hội Long Trì), Nguyễn Tn (Thiếu q hương), Nguyễn Cơng Hoan(Tắt lửa lịng)… Bởi vậy, trong cơng trình này, khi nói đến tiểu thuyết TLVĐ, tác</i>

giả luận án chỉ đề cập đến những TTLM những tiểu thuyết có yếu tố hiện đại chủ nghĩa và những vấn đề có liên quan đến TTLM mà TLVĐ có thể được xem như là một phần tiêu biểu.

Từ sự vận động nội tại và sự tác động của những yếu tố ngoại sinh, CNLM xuất hiện trong VHVN như một đòi hỏi tất yếu của lịch sử văn học. Cần phải nói thêm rằng, nếu sự ra đời của CNLM ở phương Tây bắt nguồn từ tinh thần giải phóng cho văn học khỏi những khuôn khổ chật hẹp, những nguyên tắc cứng nhắc của chủ nghĩa cổ điển để HĐH văn học cũng như địi hỏi chuyển mình của văn học để phản ánh tâm thế của con người trong thời đại mới thì sự xuất hiện của CNLM trong VHVN, ngồi những ngun nhân tương tự kể trên, đó cịn là một hình thức đấu

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tranh bằng văn hóa chống phong kiến quan liêu. Bởi thế, tinh thần đấu tranh chống phong kiến trong VHLM Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 được thể hiện rõ nét qua sáng tác của nhiều tác giả, đặc biệt là sáng tác của các nhà văn trong nhóm TLVĐ.

Sự xuất hiện của CNLM gắn liền với đó là việc khẳng định cái tơi cá nhân có vai trị hết sức quan trọng, góp phần khơng nhỏ trong việc tạo bước dịch chuyển lớn lao từ hệ hình văn học trung đại sang hệ hình văn học hiện đại. Có thể khẳng định rằng: “sự thay đổi lớn nhất trong VHVN đầu thế kỷ XX gắn liền với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân (individu). Cái tôi cá nhân đã trở thành nhân lõi của cấu trúc nghệ thuật Thơ mới, VHLM nói riêng và văn học hiện đại nói chung” [42, tr.28].

<i>Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong Một số vấn đề VHVN hiện đại [42, tr. 33]</i>

đã khái quát những thay đổi trong các bình diện thi pháp giữa văn học truyền thống và hiện đại như sau:

<b>Bình diện thi phápThi pháp văn học trungđại</b>

<b>Thi pháp văn học hiện đại</b>

Quan niệm nghệ thuật Đề cao mục đích giáo huấn Đề cao tiếng nói cá nhân Tư duy nghệ thuật Sáng tạo trên cơ sở những

quy phạm, những nguyên tắc đã được xác lập

Sáng tạo trên cơ sở phiêu lưu của trí tưởng tượng cá nhân

Sự thể hiện con người Giấu kín cá nhân, con người văn học là con người vũ trụ

Con người cá nhân, cá tính được bộc lộ

Ngôn ngữ Nguyên tắc định sẵn, ước lệ, nhiều điển tích điển cố

Gần gũi với ngơn ngữ đời sống, giàu cá tính

<b>1.2. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i><b>1.2.1. Tiểu thuyết và những đặc điểm cơ bản của thể loại</b></i>

<i>1.2.1.1. Tiểu thuyết và phân loại tiểu thuyết</i>

Tiểu thuyết (tiếng Pháp: Roman, tiếng Anh: Novel, Fiction), với tư cách là một thể loại của văn học châu Âu, đã nảy sinh từ văn học cổ đại Hy La. Trải qua một lịch sử phát triển lâu dài, đến nay, tiểu thuyết được khẳng định như một thể loại giữ vai trị quan trọng, ở vị trí trung tâm của đời sống văn học. Nói như nhà nghiên cứu Lý Hồi Thu, tiểu thuyết “đứng ở vị trí then chốt trong đời sống văn học toàn nhân loại” [45, tr. 184]. Vai trị đó được khẳng định thơng qua tầm vóc và ưu thế của thể loại – một thể loại “tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [59, tr.328].

Mặc dù giữ vai trò như một “máy cái” của đời sống văn học nhưng cho đến nay, việc đưa ra được một định nghĩa chuẩn xác về tiểu thuyết quả là một điều rất khó. Sở dĩ rất khó bởi nói đúng như nhà lý luận tiểu thuyết M. Bakhtin, tiểu thuyết – đó là “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và cịn chưa định hình….Nịng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó” [14, tr.21]. Chính sự năng động, uyển chuyển và biến đổi không ngừng của thể loại khiến cho việc đưa ra một định nghĩa chiết trung về tiểu thuyết trở nên khó khăn. Sự biến đổi không ngừng của

<i>thể loại cũng được các nhà biên soạn Từ điển thuật ngữ VHVN khẳng định: “Trong</i>

quá trình vận động và phát triển, diện mạo của tiểu thuyết khơng ngừng thay đổi” [59, tr329]. Trong q trình phát triển của thể loại, tiểu thuyết một mặt định hình những khn mẫu của thể loại, mặt khác, lại tự phủ định mình, phá vỡ những nguyên tắc và vượt qua những ranh giới để đổi mới và phát triển.

Định nghĩa tiểu thuyết đã khó, phân loại tiểu thuyết cũng khó khăn tương tự. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khẳng định: “Sự đa dạng của tiểu thuyết làm cho mọi sự phân loại không dễ dàng. Cho đến nay vẫn chưa có một cách phân loại nào bao

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

quát được hết các thể loại của tiểu thuyết” [175, tr.313]. Bởi vậy, mọi sự phân loại tiểu thuyết chỉ mang tính chất tương đối.

Thừa nhận tính chất tương đối trong việc phân loại tiểu thuyết, nhà nghiên

<i>cứu Trần Đình Sử trong Lí luận văn học tập 2 – Tác phẩm và thể loại văn học [175,</i>

tr. 317] đã căn cứ theo tiêu chí nội dung, đề tài và đề cập đến một số thể loại tiểu thuyết như: ở phương Đơng có tiểu thuyết chí quái (thời Lục triều), tiểu thuyết chí nhân, tiểu thuyết truyền kì (thời Đường, Tống Nguyên), tiểu thuyết thoại bản (đời Tống Nguyên Minh), tiểu thuyết chương hồi; ở phương Tây có các dịng tiểu thuyết như: tiểu thuyết hiệp sĩ (Chevalric romance), tiểu thuyết du đãng (Picaresque novel), tiểu thuyết đen (Roman noir – Gothic novel), tiểu thuyết trinh thám (Roman detective), tiểu thuyết lịch sử (Historical novel), tiểu thuyết giáo dục, tiểu thuyết luận đề (Problem novel), tiểu thuyết tâm lý (Psychological fiction), tiểu thuyết tự truyện (Autobiographical novel)...

Bên cạnh cách gọi tên tiểu thuyết theo nội dung, đề tài, chúng ta còn thấy xuất hiện cách gọi tên tiểu thuyết theo các trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật như: tiểu thuyết cổ điển, TTLM, tiểu thuyết hiện thực... Khác với cách gọi tên theo nội dung, cách gọi tên tiểu thuyết theo trào lưu, khuynh hướng nghệ thuật như trên chú ý nhiều hơn đến đặc trưng thi pháp cũng như định hướng thẩm mỹ và tư tưởng của các trào lưu, khuynh hướng.

Xuất phát từ sự năng động, uyển chuyển và tính chưa hồn kết của tiểu thuyết, trong lý luận văn học hiện đại, thay vì cố gắng phân loại tiểu thuyết, các nhà lý luận có xu hướng khái quát những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết và đi sâu nghiên cứu đặc trưng thi pháp cũng như sự vận động phát triển của từng thể loại cụ

<i>thể. Bởi vậy, trong Từ điển thuật ngữ văn học [59, tr. 328 - 343], sau mục từ Tiểu</i>

<i>thuyết, tập thể các nhà biên soạn đã đề cập đến 11 mục từ về các thể loại cụ thể như:</i>

Tiểu thuyết chương hồi, Tiểu thuyết du đãng, Tiểu thuyết đa thanh, Tiểu thuyết hiệp sĩ, Tiểu thuyết lịch sử, Tiểu thuyết mới, Tiểu thuyết phiêu lưu, Tiểu thuyết sử thi, Tiểu thuyết tâm lý, Tiểu thuyết trinh thám, Tiểu thuyết truyền kỳ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i>1.2.1.2. Những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết</i>

Việc đưa ra khái niệm về tiểu thuyết cũng như sự phân loại tiểu thuyết gặp nhiều khó khăn bao nhiêu thì việc chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thể loại tiểu thuyết cũng gặp khó khăn bấy nhiêu.

Trước hết cần phải kể đến ý kiến của nhà lý luận M. Bakhtin về những đặc

<i>điểm cơ bản của tiểu thuyết. Trong cơng trình Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, trên</i>

cơ sở khẳng định bản chất năng động và uyển chuyển của thể loại, M. Bakhtin đã chỉ ra ba đặc điểm cơ bản làm cho tiểu thuyết khác về nguyên tắc với tất cả các thể loại khác gồm: “1/ Tính ba chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn liền với ý thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết; 2/ sự thay đổi cơ bản các tọa độ thời gian của hình tượng văn học trong tiểu thuyết; 3/ khu vực mới, nơi xây dựng hình tượng văn chương tiểu thuyết, chính là khu vực tiếp xúc tối đa với cái hiện tại (đương đại) ở thì khơng hồn thành của nó” [14, tr32-33]. Theo M. Bakhtin, cả ba đặc điểm này của tiểu thuyết có mối liên quan hữu cơ với nhau, trong đó đặc điểm đầu tiên được xem là đặc điểm quan trọng nhất.

Không chỉ chỉ ra những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết, M.Bakhtin cịn khẳng định tính chưa hồn tất của thể loại tiểu thuyết. M.Bakhtin nhấn mạnh đối tượng thẩm mỹ trung tâm của tiểu thuyết là cuộc sống hiện tại với tất cả những “dang dở, chưa xong, chưa thể kết luận…cái hơm nay, cái thì hiện tại chưa hồn thành” [14, tr14]. Vì thế, trong tương quan với các thể loại khác, tiểu thuyết là “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và chưa định hình….Nịng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó” [14, tr21]. Bởi vậy, theo M.Bakhtin tiểu thuyết là thể loại tự do, uyển chuyển, khơng có tính quy phạm như những thể loại khác.

<i>Ngoài ra, trong Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, M.Bakhtin còn đề cập đến một</i>

ưu thế của tiểu thuyết mà khơng thể loại văn học nào có được đó là “một thể loại trong nhiều thể loại” [14, tr22]. So với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết là thể loại duy nhất có khả năng “thu hút những thể loại khác vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

và sắp xếp lại trọng tâm cho chúng” [12, tr24]. Điều này đã mang lại cho tiểu thuyết khả năng tổng hợp nhiều nhất sức mạnh từ nhiều loại hình nghệ thuật khác.

Bên cạnh M. Bakhtin, M. Kundera cũng là nhà lý luận có nhiều suy nghiệm sâu sắc, độc đáo, góp phần xác lập những đặc điểm quan trọng của thể loại tiểu thuyết. Tinh thần của tiểu thuyết, theo Kundera, là “hiền minh của lưỡng lự” [95, tr. 11], “là tinh thần của sự phức tạp... Đó là chân lý vĩnh cửu của tiểu thuyết” [95, tr. 24-25]. Kundera cũng đặc biệt nhấn mạnh bí ẩn của tâm hồn con người cá nhân như một đặc trưng quan trọng của tiểu thuyết: “tất cả mọi tiểu thuyết của thời đại đều chăm chú vào bí ẩn của cái tơi” [95, tr. 27]. Trên nền tảng những suy nghiệm này,

<i>Kundera đã đưa ra những nhận xét sâu sắc trong Di sản bị mất giá của Cervantes:</i>

“Nếu quả thật khoa học và triết học đã bỏ quên bản thể con người, thì càng rất rõ ràng là với Cervantes đã hình thành một nền nghệ thuật châu Âu vĩ đại mà thực chất khơng có gì khác hơn là khảo sát chính cái bản thể bị bỏ quên đó... Lần lượt từng cái một, tiểu thuyết đã khám phá, theo kiểu của nó, bằng logic riêng của nó, những mặt khác nhau của tồn tại” [95, tr. 9].

Ở Việt Nam, những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết cũng được đề cập đến

<i>trong nhiều cơng trình lý luận như: Năm bài giảng về thể loại [73], Từ điển thuật</i>

<i>ngữ văn học [59], 150 thuật ngữ văn học [9], Lí luận văn học [115], Lí luận văn học</i>

<i>[45], Lí luận văn học – Tác phẩm và thể loại văn học [175]… Trong luận án này,</i>

chúng tôi chỉ đề cập đến những đặc điểm cơ bản của thể loại đã được tập thể các

<i>nhà nghiên cứu Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trình bày trong Từ</i>

<i>điển thuật ngữ văn học [59]. Ưu điểm của hướng tiếp cận thể loại để chỉ ra những</i>

đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết này chính là các tác giả khơng xem xét tiểu thuyết như một thể loại riêng lẻ, độc lập mà luôn đặt thể loại trong tương quan so sánh với những thể loại khác. Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra những đặc trưng tiêu biểu của tiểu thuyết như sau:

Thứ nhất: “đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư” [59, tr.329]. Đây là đặc điểm khiến tiểu thuyết khác với các thể loại tự sự khác như ngụ ngôn, anh hùng ca (sử thi). Tiểu thuyết ngay từ khi mới ra đời

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

đã có đặc điểm này nhưng mức độ đậm nhạt của yếu tố đời tư trong mỗi giai đoạn phát triển của thể loại lại một khác. “Yếu tố đời tư càng phát triển thì tính chất tiểu thuyết càng tăng, ngược lại, yếu tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà” [59, tr.329].

Thứ hai: “Nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi” [59, tr. 329]. Nhờ chất văn xi, tiểu thuyết có khả năng hấp thụ vào trong nó tất cả những bề bộn ngổn ngang của cuộc sống với đầy đủ những phương diện thẩm mĩ phong phú đa dạng như cái bi, cái hài, cái cao cả, cái đẹp, cái tầm thường, cái thấp hèn...

Thứ ba: “cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với các nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ là ở chỗ: nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải”, tư duy, chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời” [59, tr. 330].

Thứ tư: “thành phần chính yếu của tiểu thuyết khơng phải chỉ là cốt truyện và tính cách nhân vật... Ngoài hệ thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm...” [59, tr. 330]. Điều này làm cho tiểu thuyết khác biệt với truyện ngắn và truyện vừa.

Thứ năm: “tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật” [59, tr. 330]. Nói cách khác, tiểu thuyết tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn hiện tại – hiện tại đang sinh thành và biến đổi – là cái hôm nay dang dở chưa hồn kết. “Chính đặc điểm này khiến tiểu thuyết trở thành thể loại dân chủ, cho phép người trần thuật có thể có thái độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình” [59, tr. 330].

Cuối cùng, “tiểu thuyết là thể loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của cá thể loại văn học khác” [59, tr. 330]. Bản chất thể loại được thể hiện thông qua khả năng thu hút thể loại này, ngốn nuốt thể loại kia vào bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

trong cấu trúc của thể loại. Điều này giúp cho tiểu thuyết luôn vận động, ln phát triển, có khi bành trướng, lấn át các thể loại văn học khác.

<i><b>1.2.2. Khái quát về tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945</b></i>

Như đã khẳng định, VHVN giai đoạn 1930 – 1945 là giai đoạn diễn ra vơ cùng quyết liệt q trình HĐH với sự nở rộ của nhiều khuynh hướng và trào lưu văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã trở thành hạt nhân cốt lõi tác động đến sự phát triển của đời sống văn học trên nhiều phương diện: quan niệm nghệ thuật, tư duy sáng tạo, sự thể hiện con người, ngôn ngữ, giọng điệu… Nằm trong tiến trình HĐH đó, đời sống thể loại cũng có những biến đổi phức tạp: sự biến mất của một số thể loại khơng cịn phù hợp; sự xuất hiện của một số thể loại mới; sự cải biến, đổi mới, phá bỏ nguyên tắc, thay đổi diện mạo của những thể loại truyền thống; ngôi thứ và vai trị, vị trí thể loại trong đời sống văn học cũng có sự hốn đổi (trước đây thơ phú được đề cao, tiểu thuyết bị coi nhẹ thì nay văn xi và tiểu thuyết trở thành nhân vật chính trên sân khấu văn học). Cùng với phong trào Thơ Mới, tiểu thuyết 1930 – 1945 đã mở ra “một thời kỳ rực rỡ huy hoàng trong văn học dân tộc – một thời kỳ phát triển đến đỉnh cao của thể loại với nhiều tác phẩm xuất sắc. Cả hai dịng chủ đạo: TTLM (của Nhất Linh, Khái Hưng, Hồng Đạo, Thạch Lam) và “tiểu thuyết hiện thực phê phán” (của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Cơng Hoan, Ngun Hồng) đều phát triển theo mơ hình phương Tây (chủ yếu là TTLM và hiện thực thế kỷ XIX). Nhìn chung, đến thời điểm này, tiểu thuyết Việt Nam mới có được những mẫu mực hồn chỉnh và trưởng thành như một thể loại độc lập” [54, tr.84].

Với tơn chỉ mục đích rõ ràng (“Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương… nhằm làm giàu thêm cho văn sản trong nước; theo chủ nghĩa bình dân…; dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn có tính cách An Nam; lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ; ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân…; trọng tự do cá nhân; làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa; Đem phương pháp khoa học Thái Tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam” [42, tr.68]), tiểu thuyết TLVĐ nói

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

riêng và TTLM Việt Nam nói chung đã làm nên bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của thể loại trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật.

Trên phương diện nội dung, TTLM 1930 – 1945 là tiếng nói địi giải phóng cái tơi cá nhân một cách ráo riết, quyết liệt, mạnh mẽ. Đó là những con người cá nhân hiện đại với tất cả sự phong phú và phức tạp gắn liền với sự tồn tại của chính mình (tâm lý, bản ngã, vơ thức, hồi nghi…). Tập trung vào tiếng nói ấy, TTLM ít quan tâm đến những mảng hiện thực xã hội rộng lớn với những sự kiện tầm cỡ quốc gia dân tộc mà chủ yếu đi sâu khai thác đời sống con người cá nhân với những khát vọng tự do yêu đương, chống lễ giáo phong kiến. Xu hướng tiếp cận yếu tố đời tư của con người cá nhân đã được TTLM triển khai trên nhiều bình diện: từ đề tài tình yêu, quá khứ, thiên nhiên, xê dịch, phong tục tập quán, lịch sử (tiếp cận lịch sử từ số phận con người cá nhân). Trên tinh thần tôn trọng tự do cá nhân, nhân vật trung tâm của TTLM không phải là con người mang mẫu số chung của cộng đồng mà là những con người cá nhân riêng lẻ - con người cá nhân đời tư, đại diện cho chính mình – mang những suy tư tình cảm có khi đi ngược lại mẫu số chung của cộng đồng. Thốt khỏi bóng dáng bề thế của sử thi, thôi gánh vác những trọng trách to lớn của lịch sử và cộng đồng, con người cá nhân trong TTLM 1930 – 1945 xác lập vị trí tồn tại đúng nghĩa với tư cách là nhân vật của tiểu thuyết – là con người tư duy và nếm trải – con người với những suy tư, đắn đo, trăn trở về những lựa chọn, hạnh phúc và đau khổ, kể cả những cô đơn và dằn vặt...

Trên phương diện hình thức nghệ thuật, TTLM coi trọng các thủ pháp và phương thức trần thuật hướng đến khám phá chiều sâu tâm lý của nhân vật; chủ trương viết một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít dùng chữ Nho, có tính cách An Nam để chống lại lối văn nặng về chữ Hán…

Với những đổi mới trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, TTLM 1930 – 1945 đã có nhiều đóng góp quan trọng cho lịch sử phát triển của thể loại nói riêng và đời sống VHVN nói chung.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Đóng góp quan trọng nhất của TTLM Việt Nam 1930 – 1945 là tinh thần giải phóng cái tơi cá nhân quyết liệt và mạnh mẽ. Xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa trong đời sống tinh thần xã hội nửa đầu thế kỷ XX, vấn đề giải phóng cá nhân đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do yêu đương và bình đẳng xã hội được coi là nhu cầu cấp thiết của xã hội và lịch sử. Trên bình diện văn học, tinh thần giải phóng cái tơi là sự “cởi trói” cho chủ thể sáng tạo cũng như tiếp nhận văn học khỏi những quy phạm trói buộc. Bởi vậy, nó thực sự là nguồn năng lượng hạt nhân quan trọng góp phần tạo bệ phóng cho những đổi mới sáng tạo trong văn học.

Trên phương diện thể loại, TTLM 1930 – 1945 có ý nghĩa đặc biệt đối với

<i>tiến trình phát triển của thể loại. Tiếp bước những tín hiệu đáng mừng từ Tố Tâm</i>

(Hoàng Ngọc Phách), TTLM đã tiến một bước dài hơn, đặt dấu mốc quan trọng trong công cuộc HĐH thể loại trên nhiều phương diện: xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu, ngơn ngữ trần thuật… Ở đó, “khơng còn dấu vết của tiểu thuyết chương hồi và câu văn biền ngẫu như văn học trung đại, ngôn ngữ văn học trong sáng và tinh tế, đặc biệt là nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc… Nhiều gấp khúc tâm lý đã được miêu tả sinh động….” [42, tr.72]. Thậm chí, “những mặt khuất tối của bản thể cá nhân cũng bắt đầu được quan tâm trong tiểu thuyết, báo hiệu cho sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại trong VHVN ở giai đoạn tiếp theo” [42, tr.71-72]. Khơng đi theo lối mịn của các bậc tiền nhân, TTLM 1930 – 1945 là kết quả của sự tiếp nhận và phát triển những quan điểm mỹ học hiện đại phương Tây trên cơ sở kết hợp khá nhuần nhị với giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, nỗ lực HĐH thể loại trên nhiều phương diện từ đó đánh dấu sự hồn tất trong bước chuyển văn học từ mơ hình truyền thống sang hiện đại.

Xem xét những đóng góp của TTLM trên nhiều phương diện, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã rất xác đáng khi khẳng định rằng: “Trước đây, khi đánh giá về TLVĐ ở giai đoạn cuối trào, một số nhà nghiên cứu coi đó là sự bế tắc, khơng lối thốt của chủ nghĩa cá nhân. Nhưng từ khía cạnh thi pháp thể loại, có thể nhận thấy đây là một phát triển đáng chú ý. Đó là việc nhà tiểu thuyết đã cố gắng khám phá và miêu tả những miền khuất tối của bản ngã cá nhân. Đây chính là một

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

trong những đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa hiện đại mà Kafka là người mở đường” [42, tr.72].

<b>1.3. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945</b>

<i><b>1.3.1. Đơi nét về tình hình nghiên cứu văn học lãng mạn trên thế giới</b></i>

Trước khi khái quát tình hình nghiên cứu về TTLM Việt Nam 1930 – 1945, tác giả luận án khái quát tình hình nghiên cứu về VHLM trên thế giới. Khi xem xét tương quan về sự quan tâm đến VHLM ở trong nước và trên thế giới, nhà nghiên cứu Hoàng Tố Mai đã khẳng định: “Có một thực tế là văn học lãng mạn (VHLM) ở ta dường như bị lãng quên trong khi trên thế giới nó vẫn được nghiên cứu rất nghiêm túc, tồn diện. Thậm chí có nhiều tác phẩm lãng mạn được khám phá lại trong trường ảnh hưởng của lý thuyết mới” [124, tr.7].

Lược qua tình hình nghiên cứu về VHLM trên thế giới, quả thực, những nghiên cứu về CNLM chưa bao giờ có một lịch sử hồn kết. Điều này có thể được khẳng định thơng qua những bài báo khoa học, những cơng trình nghiên cứu công phu đến thời điểm hiện tại vẫn không ngừng được viết tiếp, được xuất bản. Có thể khái quát một số khuynh hướng nghiên cứu về CNLM hiện nay như sau:

Nghiên cứu về chủ nghĩa lãng mạn trong tương quan so sánh với các trào lưu văn học khác như chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hậu hiện đại…. Một số cơng trình nghiên cứu quy mô được tiến hành gần đây nhất được triển khai

<i>trên tinh thần trên có thể kể đến như: Classicism and Romanticism (2019) của</i>

Michael Peter Bolus (Tác giả xem xét mối tương quan giữa chủ nghĩa lãng mạn với chủ nghĩa cổ điển trên tinh thần chỉ ra sự vận động từ chỗ được xem là đối lập nhau đến chỗ tìm ra những điểm chung, sự giao thoa giữa chúng và sự kết hợp chồng chéo một cách thú vị, hiệu quả giữa chúng. Đặc biệt, tác giả cịn chỉ ra những khía cạnh mà chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa cổ điển có sự kết hợp để trở thành nền tảng cho

<i>nghệ thuật hiện đại); Romanticism And Postmodernism (1999) của Edward Larrissy</i>

(Công trình tập hợp nhiều bài viết xoay quanh vấn đề về chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hậu hiện đại. Đúng như tác giả chia sẻ, tiêu đề cuốn sách đề cập đến hai chủ đề có thể tách rời nhưng ở cơng trình này, tác giả lại ln để hai chủ đề trong mối quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

hệ chặt chẽ. Từ quan điểm cho rằng có sự “di truyền” từ chủ nghĩa lãng mạn – chủ nghĩa hiện đại – chủ nghĩa hậu hiện đại, tác giả khẳng định chủ nghĩa lãng mạn vẫn luôn tồn tại trong hiện tại – cả về xu hướng, chủ đề, phong cách. Không chỉ khẳng định chủ nghĩa hiện đại thực chất là sự tái tạo của chủ nghĩa lãng mạn, tác giả còn cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại cũng là một “đột biến khác” của cái gốc ban đầu (chủ

<i>nghĩa lãng mạn); Aesthetic Notes on the End of Romanticism (2023) của Sylvia</i>

Borissova (bài viết đi sâu phân tích so sánh về tính chủ quan của chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hậu hiện đại trên tinh thần tôn vinh chủ nghĩa lãng mạn với vai trò đặt nền tảng quan trọng cho sự kế thừa, phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại).

Bên cạnh khuynh hướng nghiên cứu về mối quan hệ giữa chủ nghĩa lãng mạn với trào lưu/ khuynh hướng nghệ thuật khác, việc nghiên cứu về chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu/ khuynh hướng nghệ thuật vừa mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa, vừa mang tinh thần xuyên quốc gia cũng đã được đặt ra. Một số cơng trình nghiên cứu mới nhất được triển khai theo hướng này có thể được kể đến như:

<i>European Romantic Literature (2024) do Trường Đại học Cambridge xuất bản</i>

(cơng trình rất công phu này gồm 20 chương tập hợp những nghiên cứu dày dặn về chủ nghĩa lãng mạn ở một phạm vi không gian rộng lớn với tư cách là một hiện

<i>tượng vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính toàn cầu); Handbook of American</i>

<i>Romanticism (2021) của Clemens Spahr, Johannes Gutenberg University Mainz;</i>

Philipp Löffler, Jan Stievermann (tác phẩm là cuộc khảo sát toàn diện về các trường phái, tác giả, tác phẩm khác nhau đã hình thành nên văn học thời kỳ tiền chiến ở Hoa Kỳ);…

Ngoài ra, cũng có một khuynh hướng nghiên cứu về chủ nghĩa lãng mạn dựa trên những khái niệm mới được đề xuất và từ đó nhìn thấy trong chủ nghĩa lãng mạn những vấn đề của đời sống hiện tại. Một số khái niệm có thể kể đến như “Imagination” (trí tưởng tượng), “Romantic Bliss” (hạnh phúc lãng mạn), “Optimism” (sự lạc quan), “Genius” (thiên tài)…. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu

<i>này có thể đề cập đến một vài cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: The Poetic</i>

<i>Genius of Early Romanticism: Manifestations of the Imagination in William Blake,</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i>Friedrich Schiller, and Friedrich Schlegel (2023) của A. Cristiá (bài viết xem xét</i>

chủ nghĩa lãng mạn không chỉ là một phong trào văn hoá lan rộng chủ yếu khắp châu Âu mà còn đại diện cho sự tự do của tinh thần sáng tạo và đưa đến sự xuất hiện của những “thiên tài”. Bài viết mục đích phân tích khái niệm “Thiên tài” (như được tìm thấy trong Herder, Novalis, và đặc biệt là ở William Blake, Friedrich Schiller và Friedrich Schlegel) như là biểu hiện cao nhất của trí tưởng tượng, có xu hướng hướng tới các khái niệm vơ cực của riêng mình, tìm cách đưa mình vượt ra ngoài nhu cầu đạt được sự tổng hợp kiến thức mang tính thẩm mỹ-lịch sử);

<i>Romantic Bliss—or, Romanticism Is Not an Optimism, European Romantic Review</i>

(2021) của Kirill Chepurin (Bài tiểu luận này đề xuất suy nghĩ lại Chủ nghĩa lãng

<i>mạn thông qua khái niệm “Romantic Bliss” (hạnh phúc lãng mạn). Tác phẩm chỉ ra</i>

rằng “Romantic Bliss” không chỉ là một khái niệm lãng mạn cốt lõi mà cịn mang tính suy đốn về chủ nghĩa lãng mạn như là một dự án, một xu hướng được tạo ra từ sự vướng mắc đối kháng giữa hạnh phúc và thế giới hiện đại của phương Tây. Tiểu luận này đi qua chủ nghĩa lãng mạn của Đức và Anh để thu thập những mảnh hạnh phúc rải rác, và tập hợp lại hạnh phúc lãng mạn trong tính nội tại của một thế giới, sự vô tận của vũ trụ hậu Copernicus và sự xung đột (thường là bạo lực) của nó với

<i>thế giới); Imagination as Dynamism: Shaping Romantic Poetic Expressions (2023)</i>

của Lok Raj Sharma;…

Ngoài ra, việc nghiên cứu về văn học lãng mạn từ góc nhìn thể loại (thơ lãng mạn, tiểu thuyết lãng mạn) và đóng góp riêng của những tác phẩm văn học lãng mạn cho nền quốc gia dân tộc vẫn tiếp tục được nghiên cứu. Ta có thể thấy điều này

<i>qua một số cơng trình mới được xuất bản gần đây như: Two-faced Janus of early</i>

<i>French romanticism: Pierre Simon Ballanche as an esthetician and writer (2024)</i>

của Mankovskaya Nadezda Borisovna (cơng trình đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề triết học và thẩm mỹ cơ bản trong mỹ học của Pierre Simon Ballanche với tư cách là người đặt nền móng cho chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Tác phẩm cũng đi sâu phân tích những tầng bậc sáng tạo thẩm mỹ của ông - rõ ràng và tiềm ẩn qua đó khẳng định những ý tưởng độc đáo của ông trong nền nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn);

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>European Romantic Literature (2024) do Trường Đại học Cambridge xuất bản (Tác</i>

phẩm đã đề cập đến hơn năm trăm tác phẩm và thông qua mạch nối, mối quan hệ giữa các tác phẩm để vẽ lên tấm bản đồ thể hiện một câu chuyện lịch sử mạch lạc về chủ nghĩa lãng mạn vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia, vừa mang tính phổ quát của toàn châu Âu);…

<i>Ngoài ra, như trong Di sản văn học lãng mạn – những cách đọc khác của</i>

Hoàng Tố Mai, trên cơ sở dịch thuật và giới thiệu những bài nghiên cứu của E.G.Milyugina, Franl P. Riga, E.J.Clery, tác giả cũng đưa người đọc đến với những cách tiếp cận rất mới mẻ về chủ nghĩa lãng mạn trên thế giới. “Đó là cách đọc từ nền tảng triết học, từ góc độ xã hội học hoặc tiếp nhận so sánh văn học với một chủ đề” [124, tr7].

Như vậy, bằng việc điểm qua đơi nét về tình hình nghiên cứu về văn học lãng mạn trên thế giới, người viết nhận thấy tại thời điểm hiện tại, những cơng trình nghiên cứu cơng phu về chủ nghĩa lãng mạn vẫn tiếp tục được tiến hành. Điều đó cho thấy những góc độ mới trong nghiên cứu về chủ nghĩa lãng mạn đã mở ra khả năng đi sâu phát hiện và đưa đến những lý giải mới mẻ.

<i><b>1.3.2. Lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết lãng mạn 1930 – 1945 ở Việt Nam</b></i>

Với một hiện tượng văn học sử phức tạp như TTLM 1930-1945, việc khái qt tình hình nghiên cứu gặp khơng ít những khó khăn. Chính bởi sự thiếu rành mạch trong việc lựa chọn khuynh hướng sáng tác, sự pha trộn đan xen bút pháp của CNLM và chủ nghĩa hiện thực, CNLM và chủ nghĩa hiện đại trong nhiều trường hợp… đã khiến cho người nghiên cứu có phần ngần ngại khi gọi tên “TTLM” trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, với khối lượng tư liệu đồ sộ có liên quan đến TTLM thuộc phạm vi khảo sát, tác giả công trình có thể khẳng định: TTLM đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ngay từ khi mới xuất hiện và tính đến nay, khi gần một thế kỷ sắp trôi qua, TTLM tiếp tục mở ra những hướng nghiên cứu và tiếp nhận mới góp phần đánh giá công tâm, khách quan, khoa học hơn về vai trò của TTLM trong HĐH tiểu thuyết nước nhà.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Như đã khẳng định, TTLM 1930 – 1945 có những đóng góp quan trọng cho lịch sử văn học và thể loại trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, khi nhìn lại lịch sử nghiên cứu, giữa một kho tư liệu đồ sộ thì những bàn luận đánh giá về TTLM không phải khi nào cũng thuận chiều, thống nhất. Nói cách khác, là một sản phẩm của lịch sử và văn hóa Việt Nam, thế nhưng gần một thế kỷ qua, TTLM Việt Nam 1930 – 1945 đã phải trải qua một lịch sử nghiên cứu đầy phức tạp với khơng ít những trắc trở, thăng trầm trong tiếp nhận và đánh giá. Để thấy rõ những thay đổi trong nhận định, đánh giá về TTLM Việt Nam 1930 – 1945, tác giả luận án đã khảo sát lịch sử vấn đề qua từng giai đoạn cụ thể: trước 1945; từ 1945 đến 1985 và từ 1986 đến nay.

<i>1.3.2.1. Giai đoạn trước 1945</i>

Giai đoạn trước 1945 là thời kỳ lịch sử nghiên cứu về TTLM Việt Nam được viết lên bởi những người cùng thời với các tác giả. Với ưu thế của người cùng thời, cùng tắm chung bầu dưỡng chất thời đại, sự xuất hiện của TTLM Việt Nam ngay từ đầu đã trở thành tâm điểm chú ý của độc giả, các nhà văn và những nhà nghiên cứu phê bình văn học cùng thời – trong đó có cả những người có cùng lập trường tư tưởng, cùng quan điểm đạo đức xã hội và những người ở “bên kia chiến tuyến”.

Với những nhà văn, những nhà nghiên cứu có cùng lập trường quan điểm đạo đức xã hội, khi bàn luận về TTLM, trên cơ sở tương quan so sánh với tiểu thuyết giai đoạn trước đó, các nhà văn, các nhà nghiên cứu có quan điểm đánh giá cao (đơi khi cịn đề cao q mức) TTLM 1930 – 1945 trên cả hai phương diện: trên phương diện nội dung tư tưởng là tinh thần đấu tranh giải phóng cá nhân và trên phương diện nghệ thuật trần thuật đó là nghệ thuật tả cảnh và miêu tả tâm lý.

<i>Một số cơng trình có thể kể đến như: Dưới mắt tơi (Trương Chính, 1939); Việt Nam</i>

<i>văn học sử yếu (Dương Quảng Hàm, 1941), Nhà văn Việt Nam hiện đại (Vũ Ngọc</i>

Phan, 1942)

<i>Trong Dưới mắt tơi, Trương Chính đã dành hơn một trăm trang văn bản</i>

đề cập đến các nhà văn lãng mạn trong đó tác giả đã tập trung ca ngợi nội dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

chống lại sự áp chế Khổng giáo và cải tạo xã hội của TTLM. Qua những sáng tác tiêu biểu, TTLM đã “công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp đã giết chết bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu chí khí bồng bột đang ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt, cường tráng” [85, tr.625]. Tác giả đã dành hết lời khen ngợi đối với một số

<i>tiểu thuyết như: “Đoạn tuyệt là một kiệt tác trong VHVN hiện đại. Vì Đoạn tuyệtkhơng chỉ có giá trị xã hội, nó cịn có một giá trị tâm lý” [85, tr.629]; “Hồn</i>

<i>bướm mơ tiên là quyển truyện thứ nhất của sức cám dỗ lạ lùng (...). Không kèn</i>

không trống, ông Khái Hưng đã đổi mới văn chương, từ bản cách đến thể chất, hay nói khiêm tốn hơn, ông đã đem vào văn chương một nghệ thuật mới, sắc sảo

<i>và huyền diệu (...). Hồn bướm mơ tiên mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sửVHVN và tác giả nó là một nhà luân lý (...). Hồn bướm mơ tiên là một hòn châu</i>

báu” [85, tr.637 – 641]

<i>Cũng xuất phát từ quan điểm xã hội, qua cơng trình Việt Nam văn học sử</i>

<i>yếu, tác giả Dương Quảng Hàm đã tiếp nối cảm hứng khẳng định, ca ngợi những giá</i>

trị của TTLM (đặc biệt là những TTLM của TLVĐ). Tác giả tập trung nhấn mạnh TTLM trên phương diện xã hội (“đã làm rõ rệt cái dở, cái rởm, cái buồn cười, cái giả dối trong các hủ tục, thiên kiến của ta” [57, tr.211]) và trên phương diện văn học (đã “làm cho thể văn tiểu thuyết được đắc thắng... lại có cơng trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình giản, khiến nhiều người thích đọc” [57, tr. 211]). Ơng cịn nhấn mạnh “hầu hết các tiểu thuyết của ông (Nhất Linh) là những luận đề tiểu thuyết” [57, tr.210] và khi đọc TTLM Dương Quảng Hàm cho rằng: “ta nhận thấy sự xung đột của quan niệm với và tập tục cũ, mà kết cục thì hoặc là sự đắc thắng của quan niệm mới, hoặc là sự đắc thắng của tập tục cũ... tuy vẫn có khuynh hướng xã hội, nhưng lại thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng....tả người, tả cảnh tuy xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng, thanh tú khiến cho người đọc thấy cảm” [57, tr.210 - 211].

Bên cạnh những lời khen ngợi và khẳng định giá trị của tiểu thuyết, TTLM lúc đương thời cũng trở thành đối tượng phê phán của khơng ít các nhà văn khơng có

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

cùng quan điểm đạo đức xã hội. Tiêu biểu cho khuynh hướng phê phán này là Trương Tửu. Trên lập trường coi trọng đạo đức và lễ giáo phong kiến, Trương Tửu đã đặt ra vấn đề cần phải bài trừ một số văn phẩm hồn tồn về nghệ thuật mà có ảnh hưởng tai hại đến cá nhân và xã hội. Thậm chí, Trương Tửu cịn lên án các tác gia TTLM đã phá hoại giá trị tốt đẹp của những người phụ nữ và vì lẽ đó tác giả đã hô hào tất cả những đàn bà, những cô quan tâm đến vấn đề phụ nữ nên kết án chúng.

TTLM cũng đã trở thành nhân tố đưa đến cuộc tranh luận trên các mặt báo giữa Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng với các nhà văn lãng mạn về nội dung tư tưởng tiểu thuyết. Lịch sử văn học nhìn lại “cuộc bút chiến” giữa Vũ Trọng Phụng và các nhà văn lãng mạn (1937) như một cuộc đụng độ gay gắt về chí hướng sáng tạo giữa những nhà văn lãng mạn và hiện thực: "Các ông cứ muốn tiểu thuyết là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tơi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. Cứ một chỗ trái ngược nhau ấy cũng đủ khiến chúng ta còn xung đột nhau nữa” [157].

Bên cạnh hướng tiếp cận từ quan điểm đạo đức xã hội, hướng tiếp cận

<i>TTLM từ đặc trưng thể loại đã được ghi nhận từ trước 1945. Năm 1942, trong Nhà</i>

<i>văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan có nhiều nhận xét ghi nhận nỗ lực đổi mới HĐH trong</i>

TTLM 1930 – 1945, trong đó tập trung nhiều vào tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng: “Từ cái lối còn cổ lỗ như Nho phong, tiểu thuyết của ông đã đi vào loại tình cảm, rồi đi thẳng vào lối tiểu thuyết luận đề” [152, tr.837]. Vũ Ngọc Phan nhấn mạnh: “lời văn trác tuyệt...ngòi bút lão luyện... Khái Hưng, như người ta đã thấy, là một nhà tiểu thuyết có biệt tài...dù ở tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lý, cái đặc sắc... là sự xét nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam” [152, tr.780]. Với những nhận định khách quan và trung thực, Vũ Ngọc Phan đã là người sớm có những khám phá, tìm tòi, phát hiện và khẳng định những đổi mới trong nghệ thuật của TTLM. Cùng với những nhận định, đánh giá về

<i>Nhất Linh và Khái Hưng, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan dành nhiều trang</i>

viết về Nguyễn Tuân. Dưới góc nhìn của nhà phê bình, Nguyễn Tn “là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư tưởng” [152, tr. 456]. Trên

<i>cơ sở chỉ ra “căn bệnh xê dịch” trong Thiếu quê hương, Vũ Ngọc Phan đã nhận định</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

tác phẩm “chứng tỏ tác giả là người đã sống nhiều, đã biết nhìn đời bằng con mắt vọ. Nghĩa là nhìn, rồi kêu lên những tiếng rùng rợn, sâu thẳm giữa yên lặng làm cho

<i>người đời sợ” [152, tr.471]. Ở góc độ người đọc, Vũ Ngọc Phan đánh giá “Thiếu</i>

<i>quê hương là một tập không gợi được sự ham mê của người đọc, nó chỉ là một tiểu</i>

thuyết ngắn dài dịng, khơng đủ cốt cách để là một truyện dài vững chãi” [152, tr. 478]. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, dưới con mắt của nhà phê bình, Vũ Ngọc Phan lại khẳng định sức hấp dẫn đặc biệt từ ma lực của yếu tố bản năng trong văn chương Nguyễn Tuân cũng như sức mạnh của trí tưởng tượng khi tác giả viết về quê hương đất nước: “dù lê thê hay gọn gàng, đọc Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn một cách hồn tồn Việt Nam…Ơng gần như muốn tin ở cái ma lực của bản năng, ơng lại ưa thích những cái cố hữu…Sự thật thì chỉ những khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê hương đất nước hay những cái có thể tưởng tượng nhớ đến quê hương đất nước, ông mới viết tinh vi và sâu sắc” [152, tr.483].

Nếu trước cách mạng tháng Tám, TTLM của Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Tn đều được bàn luận khá sơi nổi thì những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng – một phần vì sự trình làng muộn màng nhất (1942, 1943) nên ít được chú ý. Trong khi các TTLM khác đã góp phần mang lại tên tuổi cho các nhà văn trên văn đàn, TTLM của Nguyễn Huy Tưởng phải khó khăn lắm mới bán được cho một tạp chí chuyên về khảo cứu lịch sử (tạp chí Tri Tân), ít có tiếng về văn chương. Trong những ghi chép từ nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn đã viết về nhận định

<i>của Trương Tửu đối với tiểu thuyết Đêm hội Long Trì của mình: Trương Tửu chê</i>

tiểu thuyết ít hoạt động, thiếu hấp dẫn nên đã từ chối mua.

Điểm qua lịch sử nghiên cứu về TTLM trước 1945 chúng ta có thể thấy, nhìn chung, ngay từ khi mới xuất hiện, TTLM đã thu hút sự chú ý của người đọc cũng như những nhà văn, những nhà nghiên cứu đương thời với những ý kiến trái chiều. Đã có khơng ít những lời ca ngợi TTLM nhưng phần lớn còn khá chung chung, chủ yếu xoay quanh phương diện nội dung tư tưởng (tinh thần đấu tranh giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

phóng cá nhân), và nghệ thuật (miêu tả tâm lý, nghệ thuật tả cảnh, tính chất tâm lý). Những ý kiến phê phán TTLM chủ yếu dựa trên quan điểm văn chương phải phản ánh những vấn đề hiện thực của cuộc sống, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Cũng cần phải nói thêm rằng, những ý kiến trái chiều chủ yếu xoay quanh phương diện nội dung tư tưởng. Riêng về phần nghệ thuật tiểu thuyết, những ý kiến đánh giá về TTLM lại khá nhất quán. Hầu hết, giá trị của TTLM đều được khẳng định ở nghệ thuật miêu tả tâm lý tài tình, nghệ thuật tả cảnh hấp dẫn, ngơn ngữ trong sáng, giản dị, hấp dẫn.

<i>1.3.2.2 Giai đoạn từ 1945 đến 1985 </i>

Giai đoạn 1945 – 1985 là giai đoạn toàn dân Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại trong lịch sử: kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, vấn đề giành độc lập dân tộc là vấn đề cốt lõi, được ưu tiên hàng đầu. Bởi vậy, suốt giai đoạn dài từ 1945 – 1954 những nghiên

<i>cứu và bàn luận về TTLM dường như vắng bóng (chỉ có bài Báo cáo Chủ nghĩa</i>

<i>Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam của Trường Chinh). Sau một thập kỷ dài chìm</i>

lắng, từ 1954 – 1985 những bàn luận, nghiên cứu về TTLM bắt đầu xuất hiện trở lại với sự phân hóa tương đối rõ ở hai miền Bắc – Nam. Ở miền Bắc, những nghiên cứu về TTLM được thực hiện trên tinh thần lấy quan điểm chính trị, lập trường tư tưởng và giai cấp làm hệ chuẩn mực đánh giá. Từ nhãn quan ấy, những đóng góp của TTLM ít được nhắc đến, thay vào đó là khơng ít những đánh giá khắt khe, chưa thật sự thỏa đáng xoáy sâu vào những mặt tiêu cực, hạn chế của TTLM. Ở miền Nam, sự đánh giá về TTLM lại có nhiều cởi mở, từ đó có nhiều những khám phá mới, đề cao giá trị của TTLM.

Nói về lịch sử nghiên cứu 1945 – 1954 chúng ta không thể không nhắc đến

<i>bản Báo cáo nhan đề Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam của đồng chí</i>

Trường Chinh được trình bày tại Đại hội Văn hóa tồn quốc lần thứ II (tháng 7/ 1948). Xuất phát từ nhãn quan chính trị và lập trường tư tưởng cách mạng, Trường Chinh đã chỉ ra những mặt hạn chế của TTLM (có tính chất trụy lạc dễ đánh lạc hướng quần chúng; có tính chất cải lương, đi liền với những cải cách nhỏ giọt của

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Pháp). Bên cạnh những mặt hạn chế rất lớn trên, TTLM cũng có một phần tích cực trong việc chống chế độ thuộc địa, “góp phần thúc đẩy phong trào văn nghệ của nước ta tiến lên một bước” [25, tr.54]. Những lời nhận định khắt khe, những lời phê phán nặng nề, những lời khen ngợi khá dè dặt nhiều khi khiên cưỡng đối với TTLM chính đã trở thành tinh thần chung bao trùm khơng khí tiếp nhận TTLM giai đoạn sau đó (1954 – 1986) ở miền Bắc.

Theo đà qn tính trước đó, sau 1954 là giai đoạn TTLM Việt Nam 1930 – 1945 tiếp tục bị soi chiếu qua lăng kính chính trị, quan điểm giai cấp và chức năng phản ánh hiện thực của văn học nhưng ở một phạm vi rộng lớn và quyết liệt hơn.

<i>Một số cơng trình tiêu biểu có thể kể đến như: Lược thảo lịch sử VHVN tập III, từgiữa thế kỷ XIX đến 1945 của nhóm Lê Q Đơn (1957), Tiểu thuyết Việt Nam</i>

<i>hiện đại của Phan Cự Đệ (1974), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịchsử VHVN hiện đại (1930 – 1954) của Vũ Đức Phúc và một số bài viết của Bạch</i>

Năng Thi, Nam Mộc, Nguyễn Đức Đàn...

Từ phương pháp xã học có phần đồng nhất chính trị và văn học, Phan Cự Đệ

<i>trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã nhìn thấy một số thành tựu trong văn xi</i>

lãng mạn là tinh thần đấu tranh chống lễ giáo, chống chế độ đại gia đình giam hãm tự do cá nhân của con người. Bên cạnh việc ca ngợi một số TTLM của TLVĐ là “lãng mạn tiến bộ, thấm đẫm tinh thần dân tộc và khát vọng tự do” [37, tr.66] Phan Cự Đệ cũng phê phán một số tiểu thuyết “mang màu sắc tiêu cực, thoát ly” [37, tr.66]. Cũng trên quan điểm chính trị, Phan Cự Đệ đặc biệt phê phán hình tượng khách chinh phu trong TTLM: “Cứ nhìn cho kỹ thì có một điều đáng buồn là khách chinh phu đó đều là những “khách tình si”!... Những con người tầm thường, thiếu bản lĩnh, khao khát thèm muốn đủ thứ đó làm sao có thể giúp kẻ khác lên đường hành động? Con bướm còn chưa thốt khỏi vỏ kén tù túng, nói gì đến chuyện giúp kẻ khác bay xa” [37, tr.74-75].

Bên cạnh việc xem xét trên quan điểm chính trị, từ góc nhìn văn học sử, Phan Cự Đệ cũng có những ý kiến đánh giá khá xác đáng về TTLM như: “có những đóng góp quan trọng vào việc HĐH thể loại, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết”

</div>

×