Tải bản đầy đủ (.pdf) (206 trang)

Giáo trình lý thuyết phục chế ngành in doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.46 MB, 206 trang )

Giáo trình
LÝ THUYẾT PHỤC CHẾ
TRONG NGÀNH IN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA IN & TRUYỀN THÔNG
Năm 2011
Biên soạn: TS. NGÔ ANH TUẤN
Con người có khả năng nhận biết thế giới xung quanh bằng nhiều
giác quan, một trong những giác quan đó là khả năng nhìn và nhận
biết được tông màu, độ sáng tối. Trong rất nhiều trường hợp thì sự
nhận biết được độ sáng tối là đủ cho mắt nhận biết các thông tin của
thế giới xung quanh, chính vì vậy trong sự phát triển của các kỹ thuật
in khác nhau, bao giờ người ta cũng có cùng một cố gắng phân chia
cường độ sáng giữa nơi sáng màu và nơi tối màu thành từng bậc. Lòch
sử phát triển của các công việc này được chia làm bốn giai đoạn.
Chương 1
Lòch sử phát triển
của kỹ thuật tram hóa hình ảnh
(Phần đọc thêm)
Chế tạo bản in băèng thủ công
để tái tạo lại tầng thứ của hình ảnh
Từ thế kỷ 15 thì kỹ thuật khắc gỗ hay khắc trên đồng đã được
phát triển thành kỹ thuật chế bản, mặc dù chưa hoàn thiện nhưng nó
là phương pháp đầu tiên phục vụ cho việc tái tạo tầng thứ. Đầu tiên
thì độ rộng của các đường gạch và sự cắt nhau giữa các đường gạch
cho một khả năng để tái tạo tầng thứ. Phương pháp này do LUDUIG
VON SIEGEN tìm ra vào năm 1642, trong phương pháp này ông
dùng một bản đồng có bề mặt nhám đồng đều, nếu chà lên bề mặt
bản đồng một lớp mực đều thì khi in lên giấy ta sẽ có một diện tích
màu đều đặn, nếu muốn phần diện tích nào đó trên bản đồng sáng
hơn (mực dính vào ít hơn) ông dùng một cái đũa bằng thép mài lên


bản đồng làm cho nó bớt nhám thì chỗ đó sẽ nhận mực ít hơn. Bản
in kiểu này có đặc trưng của phương pháp in ống đồng với sự thay
đổi cả chiều sâu lẫn diện tích, phương pháp này phát triển nhất vào
khoảng giữa thế kỷ 17-18.
2 chương 1
Hình 1.1: Bản khắc đồng “Kỵ sỹ, cái chết và qủy dữ” của ALBRECHT cho
ta thấy khả năng biến đổi ảnh thật thành ảnh ảo, hình bên phải là hình
phóng to mặt người minh họa cho kỹ thuật này.
Cũng tạo nên môät hiệu quả như vậy là phương pháp của JEAN
BAPTISTA LEPRINCE phát minh năm 1760, trong phương pháp này
người ta phủ lên bề mặt đồng môät lớp nhựa được nung chảy môät
cách đều đặn, lớp nhựa này được tạo bởi các hạt nhựa nhỏ khi ta ăn
mòn bản đồng thì hóa chất sẽ ăn mòn phần đồng lộ ra giữa các hạt
nhựa. Sau khi ăn mòn xong lần thứ nhất nếu muốn ăn mòn phần nào
nữa thì ta chỉ cần phủ một lớp bảo vệ lên phần nào không cần ăn
mòn nữa và tiếp tục ăn mòn cứ nhiều lần như vậy ta sẽ tạo được bản
đồng có tầng thứ. Phương pháp này giống như phương pháp in ống
đồng với độ sâu thay đổi như ngày nay trong đó nhiệm vụ của các
hạt nhựa có tác dụng như bờ của hạt tram ống đồng, và màu in hay
mực in sẽ nằm ở các chỗ trũng.
Năm 1798, ALOIS SENEFELDER đã tìm được quá trình in tạo
được tầng thứ mà trong đó phần tử graphic riêng rẽ người ta không
nhận biết được, việc nghiên cứu của ông tiếp theo trong thế kỷ 19
cung cấp cho chúng ta những khả năng đầu tiên về phương pháp in
offset sau này.
Ứng dụng kỹ thuật sao chép
Năm 1820, JOSEPH NICÉPHORE NIÉPCE đã sử dụng những vật
liệu nhạy sáng để tạo nên lớp bảo vệ trên bề mặt đồng, ông phát
hiện ra rằng dung dòch Asphalt được phủ một lớp mỏng trên bề mặt
đồng dưới tác dụng của nguồn sáng sẽ bò oxi hóa và không tan. Bằng

phương pháp này ta có thể tạo được bản in có tên gọi “Cardinal
d’Amboise”.
Trong những năm 1853 đến 1858 WILLIAM HENRY FOX TAL-
BOT đã phát triển kỹ thuật khắc đồng. Bằng phương pháp này ta chỉ
có thể chế bản phục vụ cho in số lượng nhỏ vì các bản in bằng đồng
không chòu được áp lực lớn khi in và chóng bò mòn. Với sự phát triển
của kỹ thuật nhiếp ảnh (PHOTOGRAPHIC) và khả năng sao truyền
qua nhiều vật liệu mang khác nhau GUSTAV LE GRAYE và FRED-
Lòch sử phát triển của kỹ thuật tram hóa hình ảnh 3
ERIC SCOTT ARCHER vào năm 1851 đã nghiên cứu khả năng
truyền hình ảnh sang bản in, bản đá hay các dạng in khác bằng việc
ứng dụng lớp crôm gelatine, cùng lúc đó thì phương pháp ăn mòn cho
bản in nổi cũng được phát triển.
Hai phương pháp ăn mòn: Phương pháp ăn mòn Pariser của
FIRMIN GILLOT và”ăn mòn Wiener” của CARL ANGERER vẫn
còn có ý nghóa tới nay.
Lòch sử phát triển của tram Autotypisch
Lòch sử phát triển của tram Autotypisch bản thân nó cũng đã viết
nên lòch sử của tram, trong đó nhấn mạnh đến quá trình biến đổi từ
tông màu thật sang tông màu ảo, lòch sử phát triển của nó tiến cùng
với lòch sử phát triển của các kỹ thuật tạo lớp nhũ tương phục vụ các
phản ứng quang hóa và các máy chụp quang cơ.
Những mẫu tram Autotypisch đầu tiên được làm từ các lưới lụa
hay lưới mòn khi chiếu sáng sẽ tạo trên vật liệu nhạy sáng một bản
tram. Từ năm 1852 WILLIAM HENRY FOX TALBOT đã trình bày
phát minh về việc tạo bản tram trong đó ông sử dụng một bản lụa
4 chương 1
Hình 1.2: Bản in đầu tiên được
chế bản bằng phương pháp sao
chụp do NICÉPHORE NIÉPCE

thực hiện, bài mẫu là một bản
khắc đồng. Đầu tiên nó được phủ
một lớp parafin trong suốt trước
khi nó được sao chụp sang lớp
Asphalt trên bản đồng rồi nó
được ăn mòn.
được nhuộm đen, ngay trong giai đoạn đầu tiên này ông đã có ý
tưởng để giữa bản nửa tông negative và vật liệu nhạy sáng một tấm
lưới để phân tích hình ảnh nửa tông thành những đường gạch
hay điểm.
Một loại lưới khác là loại lưới có các điểm xuất hiện không đều
đặn (tương ứng với coinraster ngày nay).
Vào năm 1877, tại Wiene, MAX JAFFÉ đã thực hiện thí nghiệm
tram hóa hình ảnh bằng cách đặt giữa vật liệu nhạy sáng và bài mẫu
một cái khăn vải được kéo căng, quá trình chụp như vậy sẽ tạo cho
ta một bản tram, cách bố trí như vậy tương tự với tram Distanz ngày
nay, kết quả ông tạo được một loại tram còn tương đối thô.
Năm 1880, CARL ANGERER đã sử dụng một loại tram đường do
ông sáng chế ra, trong quá trình chụp tấm tram này sẽ được xoay đi
một góc 90 độ sau khi đã chụp được nửa thời gian .
Năm 1882, GEORG MEISENBACH cũng đăng ký một phát minh
tương tự như vậy nhưng độc lập với những người khác nên ông là
người được coi là phát minh ra tram Autotypisch. Trong phát minh
này ông miêu tả một tấm lưới gồm các đường được chụp trên một
tấm kính, tấm kính này dược sử dụng khi chụp phóng lớn bài mẫu và
nó sẽ được xoay một góc 90 độ sau khi chiếu sáng được nửa thời
gian.
Xuất phát từ phát minh của MEISENBACH đã được sử dụng, từ
năm 1884 CARL ANGERER đã phát minh ra loại tram có đường kẻ
giao nhau.

Năm 1885, JACOB HUSNIK với phương pháp tinh vi hơn đã tạo
được tram đường với mật độ 40-50 đường/cm, bằng cách này chất
lượng hạt tram được nâng cao.
Năm 1878, FREDERIC IVES đã phát minh một phương pháp chế
bản cho in báo và hình ảnh đầu tiên được in theo phương pháp này
vào năm 1880. Việc phát triển tiếp loại tram này thành tram có
Lòch sử phát triển của kỹ thuật tram hóa hình ảnh 5
đường giao nhau (kreuzlinienraster) là thành quả của hai anh em
LOUIS và MAX LEVY. Hai ông đã hoàn thành công trình của mình
vào những năm 1890 và phát minh này được ứng dụng tại Châu Âu
với tên gọi là tram Distanz.
Năm 1935, WILHELM SCHUPP đã đưa ra phương pháp
Autotypish trong đó quá trình tái tạo màu thuần túy đạt được dựa
trên phương pháp quang cơ. Với các nghiên cứu của WERNER
REBNER, EDGAR B. COALE và KLAUS SEIDEL thì cấu trúc của
một điểm tram được khảo sát chi tiết và rõ ràng.
Một nhược điểm lớn nhất của tram kính là một phần nhỏ năng
lượng của ánh sáng (25%) được phục vụ cho việc tạo điểm trong khi
phần lớn (75%) bò hấp thụ tại vùng cản sáng. Chính vì vậy đã có
những thử nghiệm thay đường cản sáng phủ Opac bằng các đường
phủ màu hay màu xám. Mặc dù, có rất nhiều bằng đăng ký phát
6 chương 1
Hình 1.3: Để phục vụ cho việc tạo
tram thì JACOB HUSNIK đã sử
dụng tram đường với độ mòn
khoảng 50 đường/cm. Sản phẩm
của ông chỉ ra cấu tạo đường hay
điểm ở nơi sáng và trung gian
nhưng nơi tối lại không có.
minh trong lónh vực này nhưng chỉ được ứng dụng thực tế vào năm

1964 với nghiên cứu của ERNST SCHUMACHER.
Bên cạnh tram Distanz ta cũng có một tỷ lệ nhỏ tram Contakt từ
rất sớm. Với loại tram này ta có sự tiếp xúc trực tiếp với vật liệu
nhạy sáng.
Những ưu điểm của nó chỉ được ứng dụng khi ta có những bản
phim khô với đồ thò tầng thứ dốc đứng.
EUGEN ALBERT đã có những nghiên cứu đầu tiên trong lónh vực
này. Năm 1890, ông đã chỉ ra những khả năng thay đổi mật độ của
tram đường và tram của ông được gọi là “ Scalenraster”.
Năm 1920â ông đã làm việc với nhiều loại tram tương tự.
Ý tưởng một loại tram với các điểm có tính chất như Vignet là ý
tưởng của E. DEVILLE. Từ năm 1896, nhưng đến năm 1940 ta có
phim của EASTMAN KODAK, lúc đầu có màu cam sau đó đổi thành
màu Magenta. Ngày nay, tram Contakt vô cùng phong phú do nhiều
nhà sản xuất cung cấp.
Tạo tram Autotypisch bằng kỹ thuật điện tử
Việc mô tả quá trình phát triển của kỹ thuật tạo tram sẽ khiếm
khuyết nếu ta không nêu những cố gắng đi theo hướng tram hóa hình
ảnh bằng các phương tiện điện tử, đây là các thiết bò có độ chính xác
rất cao và quét hình ảnh theo từng dòng và tạo nên hình ảnh có tram
không cần đến tấm tram .
Quá trình thay đổi công nghệ từ in nổi sang in phẳng và các
phương pháp in hiện đại đã chứng tỏ ưu điểm về tốc độ và chất lượng
của các thiết bò này mà đại diện tiêu biểu là máy tách màu điện tử
scanner.
Lòch sử phát triển của kỹ thuật tram hóa hình ảnh 7
Năm 1937, máy tách màu điện tử bắt đầu xuất hiện trên thò
trường nhưng chưa chứng tỏ được ưu điểm của nó, sản phẩm tạo ra
trên máy tách màu lúc đó là phim âm bản demitone chưa sửa màu.
Mãi cho đến năm 1969, hãng Crosfield với máy Magnascann 450

đã sử dụng kỹ thuật digital để ghi hình ảnh nên trống phim thông
qua một tấm tram contakt được phủ và ép sát nên bề mặt của tờ
phim. Bằng phương pháp này hạt tram được tạo trực tiếp trên phim.
Đến năm 1971, hãng FDI đã giới thiệu một sáng kiến trong lónh
vực tạo tram là tạo hạt tram điện tử trực tiếp lên phim không qua
tấm tram Contakt. Cũng trong năm này hệ thống tạo tram điện tử
của máy Hell sử dụng chùm laser phân cực chia các tia laser nhỏ, các
tia laser này theo sự điều khiển của hệ thống máy tính sẽ tạo nên
những hạt tram lớn nhỏ trên phim và hạt tram tạo theo phương pháp
này gọi là tram điện tử.
Ngày nay kỹ thuật tram điện tử phát triển tinh vi hơn với việc sử
dụng kỹ thuật máy vi tính với những phần mềm phức tạp đã tạo ra
rất nhiều loại tram điện tử khác nhau như tram vô tỉ, tram HQS và
mới nhất hiện nay là tram Crystal với các loại tram mới này độ phân
giải của hình ảnh sẽ có chất lượng như ảnh chụp và mật độ dòng/cm
gấp 1000 lần so với các loại tram cổ điển.
8 chương 1
Ngành in trong thời đại hiện nay là một trong những phương tiện
thông tin đại chúng quan trọng, bên cạnh việc in chữ thì việc in ảnh
màu hay đen trắng là một trong những công việc quan trọng. Với đà
tiến bộ của khoa học thì việc tái tạo lại tông màu trong quá trình chế
bản và in được cải tiến liên tục. Ngoài những phương pháp ngoại lệ
thì kỹ thuật tạo tram là quan trọng nhất, với kỹ thuật này sự cảm
nhận của con người về các mức độ sáng tối được thể hiện bằng các
phương tiện của ngành in một cách đầy đủ.
Kỹ thuật tram hóa hình ảnh từ khi ra đời vào năm 1852 cho đến
nay đã được gần 150 năm, hơn một thế kỷ cho việc tái tạo tông màu
thật của hình ảnh thành tông màu ảo của bản in quả là một sự phát
triển bền bỉ và đầy sáng tạo, cho đến nay, trong thời đại “ Tin học”
của chúng ta, kỹ thuâït tram hóa hình ảnh không những không mất đi

mà vẫn còn tiếp tục phát triển và ngày càng khẳng đònh được vai trò
của nó trong việc tái tạo lại tầng thứ của hình ảnh.
Ngày nay với sự trợ giúp của các phương tiện điện tử và tin học
các loại tram điện tử đang dần dần thay thế các loại tram cổ điển như
tram contakt, tram distanz… do hiệu quả chất lượng và tính kinh tế
của chúng.
Chương 2
Các khái niệm cơ bản
Hình tầng thứ và hình có tram
Sự khác nhau giữa hai loại hình ảnh này được nhận biết rõ ràng
khi ta quan sát đường biểu diễn mật độ của chúng, đường biểu diễn
này còn gọi là đồ thò mật độ. Đồ thò mật độ biểu diễn cho ta tính chất
về mật độ của hình ảnh mà qua đó thông tin được truyền. Một hình
demitone có đường biểu diễn mật độ liên tục (Hình 2.1.a) trong khái
niệm tiếng Đức gọi là halbtone. Đường biểu diễn mật độ của hình có
tram chỉ dao động giữa hai giá trò cực tiểu và cực đại, khoảng cách
giữa các điểm cực đại này biểu diễn tông màu của một điểm tram
(Hình 2.1.b) trong khái niệm tiếng Đức gọi là Rastertone.
10 chương 2
Hình 2.1: Biểu diễn sự khác nhau giữa halbtone và rastertone.
 Hình 2.1.a: Phía trên là đồ thò biểu diễn sự biến thiên mật độ
liên tục trong khoảng AB trên mái vòm nhà thờ.
 Hình 2.1.b: Phía dưới là đồ thò biểu diễn sự biến thiên mật độ
với tông ảo qua kỹ thuật tram hóa hình ảnh.
Ý nghóa của việc tram hóa hình ảnh
Nhiệm vụ của tram hóa hình ảnh : “ Một bài mẫu với đường biểu
diễn mật độ liên tục sẽ được biến đổi thành đường biểu diễn mật độ
chỉ có hai cấp độ sáng và tối phục vụ cho việc in ấn.”
Khái niệm này chỉ được giải quyết với các phương tiện nhân tạo.
Với các phương pháp in nổi, in phẳng và in lưới ta chỉ có khả năng

truyền một tông màu (toàn bộ diện tích trên bản in được phủ một lớp
mực đều nhau). Chính vì vậy, nên đầu tiên bài mẫu phải được phân
tích thành những điểm rất nhỏ có diện tích khác nhau tùy thuộc vào
mât độ tương ứng của chúng trên bài mẫu. Những điểm này có tính
chất in hay không in và không nhận thấy bằng mắt thường khi quan
sát, với phương thức như vậy hình ảnh demitone đã được phân tích
thành hình ảnh tram (Hình 2.2)
Các khái niệm cơ bản 11
Hình 2.2: Sự tái tạo tông màu của ảnh chụp được thực hiện bằng tram
Autotypisch. Hình bên phải phóng to giúp ta nhận thấy các điểm in hay
không in trên hình ảnh. Hình bên trái được quan sát trong điều kiện bình
thường cho ta thấy như ảnh chụp.
 Phương pháp in ống đồng cũng có tính chất này nhưng ngoài ra
nó còn có nhiều khả năng khác nữa để tái tạo tầng thứ của hình ảnh.
 Để tạo nên một hình ảnh có tông độ ảo (hình ảnh tram) ta có
nhiều phương pháp để thực hiện. Với tram autotypisch thì giữa bài
mẫu và vật liệu nhạy sáng ta có tấm tram có nhiệm vụ phân tích ánh
sáng liên tục đến từ bài mẫu thành các module và biến đổi thành các
điểm in hay không in.
 Ngày nay có rất nhiều loại máy để phục vụ công việc này trong
đó các bộ phận điện tử sẽ đảm nhận công việc tram hóa hình ảnh.
 Để phục vụ cho việc biến đổi từ tông màu thật của bài mẫu
thành tông màu ảo còn có một phương pháp nữa ít được ứng dụng là
phương pháp in không tram. Trong in offset thì lãnh vực này bò hạn
chế, trong trường hợp đặc biệt ta chỉ cần chú trọng đến độ phân giải
cao chứ chưa chú trọng đến độ contrast của hình ảnh.
 Một lónh vực ứng dụng khác của việc tram hóa hình ảnh là việc
tạo độ contrast cho các mức mật độ của bài mẫu được biểu diễn bằng
các diện tích khác nhau của điểm tram. Theo phương pháp này trên
hình vẽ ta thấy cả một diện tích lớn là đồng nhất và sự nhảy tông rõ

ràng giữa các diện tích khác nhau.
12 chương 2
Hình 2.3: Qua kỹ thuật tram hóa hình ảnh ta cũng có thể tái tạo những hình
ảnh vẽ. Hình bên phải cho thấy các điểm tram trong cùng một diện tích
luôn bằng nhau, hình bên trái cho ta cảm giác các phần diện tích khác
nhau được phủ màu một cách đều đặn.
Ý nghóa của khái niệm tram
“Phương pháp tram hóa hình ảnh là phương pháp biến đổi tông
màu thật của hình ảnh sang tông màu ảo để in”. Một đònh nghóa tổng
quát như vậy bao gồm các phương pháp từ thủ công như bản khắc gỗ,
khắc đồng tới phương pháp dùng tram autotypisch rồi tới phương
pháp tạo tram điện tử với các tia laser được số hóa (digitallisiert).
Việc mô tả các phương pháp khác nhau để tạo nên hình ảnh có tông
độ ảo thì thường gặp phải những khó khăn khi hệ thống hóa. Tính rõ
ràng của các khái niệm trong lónh vực chế bản là không có dẫn đến
việc cùng một khái niệm nhưng trong nhiều tài liệu khác nhau thì có
ý nghóa khác nhau. Chính vì vậy, ta phải giới hạn đònh nghóa cho tram
thuần túy trong lónh vực chế bản. Tram trong chế bản được đònh
nghóa là một phương tiện giúp chúng ta phân tích năng lượng ánh
sáng chiếu tới thành các điểm in hay không in khi tác dụng chung với
vật liệu nhạy sáng. Trong khái niệm về tram ta chưa nói đến các tính
chất về vật liệu tác dụng cũng như cấu tạo của một điểm tram. Để
đònh nghóa cho chính xác hơn về tram ta còn có những khái niệm chi
tiết hơn về các loại tram dùng để tram hóa hình ảnh như tram
contakt, tram distanz hay các khái niệm có bổ sung thêm như tram
autotypisch, tram điện tử.
Hệ thống hóa các loại tram
Tên gọi cho các loại tram khác nhau được sắp xếp trong một tổ
chức thư mục. Phần đầu thư mục là khái niệm tram dùng cho chế
bản, trong đó là tất cả các loại tram được sử dụng trong ngành công

nghiệp in. “Thư mục con” đầu tiên là các khái niệm như tram con-
takt, tram distanz, tram Ống đồng được bố trí. Từ các tên gọi này ta
thấy được mục đích sử dụng của các loại tram này, nếu đi sâu vào
các thư mục con của thư mục này ta sẽ có các thông tin về nhiều
điểm như phương pháp tạo tram, hình dạng tram, màu sắc tram cũng
Các khái niệm cơ bản 13
như tất cả các đặc trưng của loại tram đó, thí dụ như tram cho máy
tách màu điện tử, tram âm, tram dương…
Tuy nhiên còn tùy thuộc vào đặc tính của tram và tính chất sử
dụng mà ta có từng sự sắp xếp đặc biệt theo yêu cầu.
Thí dụ về cách sắp xếp các loại tram theo yêu cầu sử dụng:
 Sắp xếp theo khoảng cách giữa tấm tram và phim: tram
distanz, tram contakt.
 Sắp xếp theo công nghệ chụp: tram âm, tram dương.
 Theo màu sắc trên tấm tram: tram xám, tram dương hồng.
 Theo cách tạo tram: tram quang cơ, tram điện tử.
 Theo hình dáng của hạt tram: tram vuông, tram tròn, tram
ellipse.
 Theo phương pháp in: tram offset, tram ống đồng.
Tram autotypisch – tram distanz–tram contakt –
tram Điện tử
Tram autotypisch là loại tram phục vụ cho việc biến tông màu
thật thành tông màu ảo. Vậy tất cả các loại tram phục vụ cho việc
biến tông màu thật thành tông màu ảo đều được gọi là tram auto-
typisch. Trong một khuôn khổ hẹp hơn chúng ta có thể coi tram auto-
typisch là tất cả các loại tram tạo ra hạt tram có diện tích thay đổi
(còn gọi là tram tự giãn), ví dụ như tram contakt, tram distanz. Vậy
tram autotypisch là đònh nghóa tổng quát cho tram distanz và tram
contakt. Sự phân biệt giữa hai loại tram này là do vò trí của tấm tram
giữa bài mẫu và vật liệu nhạy sáng. Trong khi tram distanz có một

khoảng cách giữa tram và vật liệu nhạy sáng thì tram contakt có sự
tiếp xúc trực tiếp. Trong thực tế khái niệm tram distanz còn được gọi
là tram kính do lòch sử phát triển của nó.
14 chương 2
Tram Điện tử là tram tạo nên không qua lưới tram như tram con-
takt, tram distanz mà trực tiếp ghi lên phim do việc xử lý tái hiện
theo từng dòng và ghi lên phim dưới dạng các tia laser để tạo nên
hạt tram. Khác với các loại tram cổ điển, tram điện tử về cấu tạo của
nó có nhiều điểm khác biệt và ưu việt hơn mà chúng tôi sẽ phân tích
ở phần sau.
Tram kỹ thuật
Tram kỹ thuật là tất cả các loại tram phục vụ cho việc tạo nên cấu
trúc của hình ảnh trên toàn bộ diện tích, thuộc về tram kỹ thuật có
tram Copie, tram Blebe, tram Satelite… Tất cả các loại tram này
được đònh nghóa trong DIN16601. Tên của nó không cho chúng ta
biết chúng thuộc về loại tram nào trong đònh nghóa tram mà chỉ là tên
gọi do người tạo ra nó cho nó. Với tram kỹ thuật ta có thể tạo nên
một tông màu đều đặn trên toàn bộ diện tích hay với các cấu trúc
mẫu. Nếu ta phải tái tạo tầng thứ bằng loại tram này thì tram kỹ
thuật sẽ được cấu tạo bởi những phần tử hình học nhỏ sao cho mắt
thường không thể phân biệt được, mặt khác với cấu trúc to hơn tới
môät giới hạn nào đó ta vẫn có thể tái tạo các tông màu. Các tính toán
trong lónh vực này rất thú vò vì ta có hai khả năng. Khả năng thứ nhất
là: tái tạo tông màu và khả năng thứ hai là cấu trúc của điểm tram,
cuối cùng nếu khoảng cách giữa các phần tử của tram kỹ thuật quá
lớn không thể tái tạo được tông màu thì ta vẫn còn cấu trúc nền của
nó phục vụ cho việc trang trí. Các loại tram kỹ thuật xét theo hình
dạng và cách bố trí thì vô cùng phong phú.
Các khái niệm cơ bản 15
Hình 2.4:Trong lónh vực độ phân giải của mắt thì các khả năng kết hợp của

tram kỹ thuật là không giới hạn. Ta có thể hệ thống hóa tram kỹ thuật theo
hình dạng của điểm tram và cách bố trí các điểm tram.

Tram distanz
Cùng với sự phát triển của các ngành vật lý, hóa học, cơ khí, toán
học … ngành in của chúng ta cũng từng bước phát triển trên cơ sở
ứng dụng những thành tựu và khám phá của các ngành trên, tram
distanz là một ví dụ điển hình.
Hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng
Cho ánh sáng từ nguồn 0 truyền qua một lỗ tròn nhỏ có đường
kính AB trên màn Q, sau màn Q ta đặt môät màn quan sát H và nhận
được vệt sáng DE. Theo đònh luật truyền thẳng của ánh sáng, nếu ta
thu nhỏ đường kính AB của lỗ tròn thì vệt sáng DE cũng nhỏ lại. Tuy
nhiên, thực nghiệm chứng tỏ rằng khi thu nhỏ lỗ tròn tới một mức độ
nào đó thì trên màn H xuất hiện nhiều vân tròn: sáng nhất ở tâm và
Chương 3
Các loại tram được sử dụng
trước khi xuất hiện tram điện tử
Hình 3.1: Hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng.
nhạt dần ra xung quanh. Tùy theo cường độ của ánh sáng chiếu qua
khe hẹp mà quầng sáng thu được trên màn quan sát lớn hay nhỏ.
Chế tạo tram distanz
Với thực nghiệm trên đây người ta đã nghó đến việc phân tích bài
mẫu bằng cách chiếu vào nó một nguồn sáng, ánh sáng phản xạ hay
thấu minh từ bài mẫu đến vật liệu nhạy sáng sẽ bò chặn lại bởi một
loạt khe hở trên một tấm màn chắn và tùy thuộc vào cường độ nguồn
sáng đi qua khe hở tương ứng với nó thì trên phim sẽ nhận được
những nốt tram lớn hay nhỏ. Với những suy nghó trên người ta chế
tạo ra tram kính.
Tram kính được chế tạo bằng cách: lấy hai tấm kính tuyệt đối

phẳng với độ dày khác nhau, tấm thứ nhất có độ dày 1.8 - 2 mm, tấm
thứ hai có độ dày 3.5 - 4 mm được phủ một lớp bảo vệ bền axít. Sau
đó, các tấm kính này được khắc với một đầu khắc bằng kim cương
của một máy khắc rạch trên lớp bảo vệ những đường khắc đều nhau,
những đường này không được chạm vào mặt kính, rồi cho ăn mòn
những đường này bằng axít, sau khi ăn mòn người ta tẩy bỏ lớp bảo
vệ và phủ màu đen những đường ăn mòn. Những nơi không được ăn
mòn vẫn còn đặc tính trong suốt, sau đó hai bản tram đường với mật
độ khác nhau sẽ được dán chặt với nhau, mặt tram úp vào nhau và
tạo được hiệu ứng tram đường giao nhau. Do kết quả đó, ta tạo được
những ô trong suốt trên màn đen, mỗi ô trong suốt ứng với một khe
hẹp mà ta đề cập tới trong hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng.
18 chương 3
Hình 3.2: Tram kính
Đặc điểm của tram distanz
Chiều rộng của đường kẻ trên tram kính bằng khoảng cách giữa
hai đường liên tiếp. Phụ thuộc vào số đường kẻ trên 1 cm. Kính tram
có các số liệu 18, 20, 30, 34, 40, 48, 54, 60, 70. Kính tram 34 trên
1cm
2
có 1156 ô vuông (34x34), khi chụp ảnh kính tram được đặt
trước vật liệu nhạy sáng, ánh sáng đến từ bài mẫu trước khi tác động
vào phim phải đi qua màng lưới tram. Một phần ánh sáng sẽ bò hấp
thụ bởi nền đen (đường kẻ đen), phần còn lại đi qua những ô trong
suốt và tạo thành từng chùm riêng rẽ tác động lên bề mặt vật liệu
nhạy sáng. Do kết quả đó hình ảnh được tạo thành trên vật liệu nhạy
sáng do rất nhiều các nốt lớn nhỏ khác nhau tạo thành, những nốt đó
gọi là nốt tram. Một cách tổng quát người ta có thể nói rằng với tram
kính các đường cản sáng phải có độ rộng gần bằng các đường trong
suốt. Trên cơ sở các thí nghiệm mới nhất, người ta khẳng đònh tỷ lệ

trên có ảnh hưởng quyết đònh đến độ rộng mật độ mà tram có thể tái
tạo được, với một tỷ lệ che phủ trong suốt 1:1 thì nó chỉ tái tạo một
khoảng rộng mật độ D = 1,4. Nếu những đường cản sáng lớn hơn một
chút thì ta có thể tái tạo được mật độ lớn hơn và loại tram có tính
Các loại tram được sử dụng trước khi xuất hiện tram điện tử 19
Hình 3.3 Tram Altongradar (Klimsch, Frankfurt)
Hình 3.4: Tram Altongradar với:
A: Điểm giao nhau
B : Các đường với mật độ cao
C: Các đường với mật độ thấp
D: Các điểm trong suốt.
A
B
C
D
mềm hơn. Các loại tram mới có một tỷ lệ 1,1/0,9 (che phủ/trong suốt)
thì khoảng rộng mật độ có thể tái tạo được là 1,6. Trong thực tế,
người ta sử dụng rất hạn hữu các loại tram distanz với các đường
được phủ đen. Với các đường được phủ màu magenta không cản
sáng ta có thể tái tạo được detail rất tốt. Loại tram như vậy của
Klimisch được gọi là Altongradar, với tính không cản sáng của các
đường, nó tạo ra các điểm giao nhau có mật độ cao.
Như chúng ta đã biết bài mẫu nửa tông có độ đen trắng khác
nhau, vì vậy khả năng phản xạ ánh sáng của từng chỗ trên bài mẫu
sẽ khác nhau. Những chỗ trắng nhất sẽ phản xạ ánh sáng nhiều nhất
và những chỗ đen nhất sẽ phản xạ ánh sáng ít nhất . Tương ứng với
chỗ trung gian thì ánh sáng sẽ phản xạ với các mức độ tương ứng khi
qua tấm tram kính sẽ được phân chia thành các nốt tram có độ lớn
nhỏ khác nhau, tỉ lệ tương ứng với mức độ phản xạ ánh sáng từ
bài mẫu.

Khi quan sát nốt tram trên âm bản hay trên kính mờ qua phóng
đại chúng ta thấy cấu tạo của chúng như sau:
Vùng trung tâm có độ đen lớn nhất và độ đen của nó giảm dần
khi càng xa trung tâm do khi đặt kính tram trước phim với một
khoảng cách nhất đònh thì vùng trung tâm của nốt tram sẽ nhận được
ánh sáng nhiều nhất và càng ra xa thì độ sáng càng giảm dần.
20 chương 3
Hình 3.5: Hình dáng hạt tram tạo được trên âm bản bằng tram kính.
Khẩu độ diaphram có ảnh hưởng đến diện tích nốt tram. Khẩu độ
của diaphram càng lớn thì diện tích nốt tram cũng lớn theo và ngược
lại. Ngoài ra, khẩu độ diaphram lớn và ánh sáng giảm dần từ trung
tâm hạt tram ra ngoài nên ta nhận được nốt tram có hạt đen to, nhưng
đồng thời cũng nhận được vùng mờ lớn. Nhưng nếu ta chụp với khẩu
độ diaphram nhỏ thì tỉ lệ vùng đen sẽ lớn hơn vùng mờ. Từ đây ta
cũng thấy rằng nếu chụp với khẩu độ diaphram lớn sẽ tạo vùng mờ
lớn và nốt tram không được đanh. Hình dáng của diaphram sẽ quyết
đònh hình dáng của nốt tram. Chụp qua diaphram vuông sẽ nhận
được nốt tram vuông, chụp qua diaphram tròn sẽ được nốt tram tròn.
Các loại tram được sử dụng trước khi xuất hiện tram điện tử 21
Hình 3.6 : Hình dáng nốt tram qua hình dáng diaphram .
Khoảng cách giữa kính tram và bề mặt phim cũng ảnh hưởng đến
diện tích nốt tram. Kính tram đặt xa bề mặt phim thì diện tích nốt
tram càng lớn và ngược lại. Nhưng nếu đặt kính tram quá xa bề mặt
phim thì không nhận được các nốt tram, còn nếu áp sát kính tram
vào bề mặt phim thì sẽ tạo được các nốt tram riêng rẽ có diện tích
bằng nhau. Khi khoảng cách giữa kính tram và bề mặt phim không
đổi nhưng rút ngắn buồng tối thì diện tích nốt tram lớn lên và ngược
lại kéo dài buồng tối thì diện tích nốt tram nhỏ lại .
Như vậy diện tích nốt tram phụ thuộc vào khẩu độ diaphram và
khoảng cách giữa kính tram với bề mặt phim và độ co giãn của

buồng tối. Lợi dụng những yếu tố có thể thay đổi đó người ta có thể
chụp những âm bản có chất lượng cao và thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật
của từng công việc. Chứng minh bằng hình vẽ (Hình 3.5) ta thấy tại
điểm a tập trung 100% ánh sáng đi qua diaphram, tại điểm b một nửa
ánh sáng đi qua diaphram bò đường kẻ của một tram che mâát do đó
22 chương 3
Hình 3.7: Hiện tượng nhiễu xạ ánh sáng không chỉ có tác dụng tạo thành
độ đen khác nhau trong nốt tram mà nó còn có tác dụng làm tăng diện tích
nốt tram so với kích thước chính thức của nó. I và II khi thu nhỏ khẩu độ
diaphram hay rút ngắn khoảng cách giữa hai kính tram với bề mặt phim
sẽ cho một nốt tram nhỏ; III: khi rút ngắn buồng tối lại sẽ cho nốt tram lớn
hơn.
ở đây chỉ nhận được 50% ánh sáng đi qua diaphram. Ở điểm c không
có ánh sáng vì hình chiếu của diaphram bò che khuất hoàn toàn bởi
đường kẻ của nốt tram và đây là ranh giới giữa các nốt tram.
Diện tích nốt tram tăng lên so với kích thước chính của nó bởi
hiện tượng nhiễu xạ phụ thuộc vào đường kẻ trên 1cm của kính tram
có thể biểu diễn bằng công thức:
Với α : độ nghiêng tia sáng khi đi qua nốt tram trong suốt.
a : Chiều rộng của nốt tram trong suốt
b : Chiều rộng của đường kẻ đen
Nhưng thực tế người ta thường dùng loại tram có đường kẻ đen và
đường trong suốt bằng nhau, do đó công thức trên có thể viết:
Rõ ràng khi kính tram càng có nhiều đường kẻ trên 1cm (a nhỏ
đi) thì diện tích nốt tram tăng lên. Nếu dùng kính tram có 20 đường
kẻ trên 1cm thì diện tính nốt tram tăng 3.52%. Nhưng nếu dùng kính
tram có 80 đường kẻ/1cm thì diện tính nốt tram tăng lên 51.2%.
Theo hình ta có phương trình:
Những đại lượng trong phương trình là những đại lượng biến đổi,
trong khi chụp thì a và S là những đại lượng biết trước. Người thợ

chụp căn cứ vào độ đậm nhạt cần thiết của âm bản tram mà thay đổi
D hoặc r. Hai đại lượng này gọi là những yếu tố thay đổi trong quá
Các loại tram được sử dụng trước khi xuất hiện tram điện tử 23
a D
____
=
_____
rS
2a
sin α =
_____
a+b
a
sin α =
____
a
trình chụp tram. Khi thay đổi một yếu tố để giữ cho phương trình
được cân bằng cần phải thêm hệ số K vào vế bên phải:
Trong trường hợp hệ số K=1, những nốt tram sẽ chớm chạm vào
nhau và độ đen phân bố trong nốt tram có hình dốc đứng, độ đen
giảm dần từ trung tâm ra ngoài.
Khi K > 1, những nốt tram đứng riêng rẽ và độ đen phân bố trong
nốt tram có hình chóp cụt dốc đứng. Trong trường hợp này tỷ lệ hạt
đen tương đối lớn so với toàn bộ diện tích nốt tram.
24 chương 3
Hình 3.8: Trường hợp hệ số K=1
Hình 3.9: Trường hợp K > 1
a D
____
= K

_____
khi đó
rS
a.S
K
=
_____
D.r

×