Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học: Tăng cường tiếp cận công lý cho trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục - Từ thực tiễn quốc tế đến kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.46 MB, 108 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BAO CAO TONG KET

DE TAI THAM GIA XET GIAI THUONG “SINH VIEN NGHIEN CUU KHOA HOC” CUA TRUONG DAI HOC LUAT HA NOI NAM 2020

TANG CUONG TIEP CAN CONG LY CHO TRE EM LA NAN NHÂN BỊ XÂM HAI TINH DỤC

-TỪ THUC TIEN QUOC TE DEN KINH NGHIEM CHO

VIET NAM

<small>Thuộc nhóm ngành khoa hoc: XH</small>

<small>Năm 2020</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

BAO CAO TONG KET

DE TAI THAM GIA XET GIAI THUONG “SINH VIEN NGHIEN CUU KHOA HOC” CUA TRUONG DAI HOC LUAT HA NOI NAM 2020

TANG CUONG TIEP CAN CONG LY CHO TRE EM LA NAN NHÂN BỊ XÂM HAI TINH DỤC

-TỪ THUC TIEN QUOC TE DEN KINH NGHIEM CHO

VIET NAM

<small>Thuộc nhóm ngành khoa hoc: XH</small>

Sinh viên thực hiện 1: Nguyễn Công Anh Quốc Nam, Nữ: Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1. Tính cấp thiết của đề tài...--- -- 52s SsE E9E121911111211121111111111111111111111. 11 c6 | 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài...---2- +2 2+E+EE2E+EE+EE+E£EE+EerEerxzxees 3 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của dé tài...-- 2-2 2 ess+xszxezszsees 3 4. Mục tiêu nghiên cứu của dé tài...--- - 2 + +kSt+k£EE2EE E9 1215E121111121111511 111111 te. 4 5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng dé thực hiện dé ti... eee 4 6. Điểm mới và đóng góp của đề tài...---¿- «5+ SE 1E1111811211121111211211111. 11 1116 4 7. BO cuc lia 1 8 ằ 5 NỘI DUNG DE TAL ... 5-6-5 SE E21 1 1511212112111111111111111111111 11111111111 1e 6 CHƯƠNG 1: NHUNG VAN DE CHUNG VE TIEP CAN CONG LY CHO TRE <small>EM BỊ XÂM HAL TINH DUC 0..0..ccccccccccsssssssssssessessecsesseessssssussecsessessessssusausaesseeseeseess 6</small>

1.1. Khái niệm chung về tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình duc ... 6 1.2. Nền tảng cho việc tăng cường tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình duc....11 1.3. Chuẩn mực pháp lý quốc tế về tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục... 14 Kết luận Chương l...--- ¿E52 +SSE2E2E9E12E5E15E121571215111121111511111 1115111111 te. 16 CHUONG 2: THUC TIEN TANG CUONG TIEP CAN CONG LY CHO TRE EM BỊ XÂM HAI TINH DỤC Ở VIET NAM...--¿- 25c EEEEEEEEEkrrkerkerkee 17 <small>2.1. Thực trạng khung pháp lý bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại tinh duc tại Việt Nam... 17</small>

2.2. Thực trạng hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại

<small>tinh duc tai Vidt Nam 0 + ... 33</small>

2.3. Thực tiễn theo đuổi vụ việc của người nhà nạn nhân, cộng đồng và các chuyên gia

<small>tal (to 0 ... . ằe...AÓAâA... 45</small>

Kết luận Chương 2...-- 2-52 S152 +E9EE2E219E1215111151111215111111111111111 1111111111111 re. 51 CHUONG 3: KINH NGHIEM CUA MOT SO NƯỚC TREN THE GIỚI TRONG TANG TIẾP CAN CONG LY CHO TRE EM BỊ XÂM HAI TINH DỤC... 53 <small>3.1. Kinh nghiệm xây dung khung pháp lý bảo vệ trẻ em bị xâm hai tình dục ... 53</small>

3.2. Kinh nghiệm hoạt động của các cơ quan có thâm quyễn...---2- 2 5s 2c: 60 3.3. Kinh nghiệm tăng cường khả năng theo đuôi vụ việc của người nhà nạn nhân, cộng đồng và các chuyên gia...-.---¿- 2 St SE9E12E9E12112157121511211211111111111111 1111111 1e. 67 Kết luận Chương 3... 2-5-2 52 SEE2E2E9E121EE1111215712151111111111111111111 1111111 ce. 72 CHƯƠNG 4 L BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC TĂNG CƯỜNG TIẾP CAN CÔNG LY CHO TRE EM BỊ XÂM HAI TINH DỤC... 73 4.1. Bài học về xây dựng khung pháp lý cho Việt Nam...-- 2-2 2+ +c++szrxzErxeẻ 73

<small>4.2. Bài học vê nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng tại Việt</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Kết luận Chương 4...-- 2-52 ©ESE+EEEE9E21911211111111111111111111111111 1111111111111 re. 81 TONG KET DE TAL ooo.ccccecccccccccccsscssessesscssesesscsessessessssusssssussvcsssessesissussussussesseeseeseess 82 DANH MỤC TAI LIEU THAM KHẢO...-2- 2-2 S2 2E22EE£E£EEeEEerkerrezrsrred 83

<small>PHU LUG coiccccccccccssecssssssscscssssessssssscssssssvecsssuscscsssssessssuesessssevessssuesessssuseesssussessssevesesseees 93</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, nhiều vụ việc xâm hại tình dục trẻ em được truyền thơng đưa ra ánh sáng, gây bắt bình lớn trong dư luận xã hội. Điều đáng lưu ý là những nơi tội phạm xâm hại tình dục trẻ em diễn ra lại là những khu vực được đánh giá là an <small>toàn với trẻ em như khu nhà ở, trường học, trung tâm bảo trợ xã hội,... và người phạm</small>

tội phần nhiều là người thân quen với trẻ em. Theo báo cáo của Chính phủ, từ ngày 01/01/2015 đến ngày 30/6/2019, cả nước đã phát hiện, xử lý về hình sự và xử lý hành

<small>chính: 8.442 vụ xâm hại trẻ em với 8.709 trẻ em bị xâm hại (1.672 trẻ em nam, 7.037</small>

trẻ em nữ). Số trẻ em bị XHTD chiếm 73.85% tổng số trẻ em bị xâm hại (6.432 vụ). Điều đáng nói là trong 75 quốc gia thong kê số vụ xâm hại tình dục, Việt Nam xếp thứ 49 sau một số quốc gia trong khu vực như Malaysia, Myanmar. Trong khi đó, việc xử ly các vụ XHTD trẻ em dé thực hiện công lý và bảo vệ quyền cho các nạn nhân trẻ em này lại đang tồn tại nhiều hạn chế và thiếu hiệu quả. Bốn nguyên nhân sau là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng XHTD trẻ em tại Việt Nam ngày càng gia tăng và việc tiếp cận công lý cho các em cịn hạn chế.

Thứ nhất, Cơng tác giáo dục giới tính cịn yếu và thiếu hiệu quả, đặc biệt là việc giáo dục giới tính và phịng chống xâm hại trong gia đình. Về phía gia đình, hầu hết cha mẹ và người thân của các em đều né tránh việc giáo dục này vì tình dục vẫn là một chủ dé nhạy cảm trong văn hóa quốc gia. Về phía nhà trường, chương trình giáo dục giới tính mới chỉ dừng lại ở phần hình thức, chỉ được coi là một hoạt động ngoại khóa, phần nội dung giảng dạy khá sơ sài, chưa đi sâu vào việc truyền đạt những kiến thức ứng phó với hành vi xâm hại tình dục?. Sự thiếu sót đó đã dẫn tới hậu quả: khi bị xâm hại tình dục, trẻ em biết rất ít hoặc thậm chí khơng biết đó là hành vi xâm hại tình dục, cộng

<small>thêm tâm lý sợ hãi, ám anh sau vụ việc nên các em thường lựa chọn giải pháp im lặng.</small>

Nhà trường là nơi các em dành phan lớn thời gian trong ngày. Tuy vậy khi có vụ việc XHTD trẻ em xảy ra, vai trò của nhà trường rất mờ nhạt, hầu như chỉ có tác động nếu

<small>như người phạm tội là giáo viên hoặc nhân viên của trường học.</small>

<small>' Bảo Yến, Trọng Quỳnh, Quốc hội nghe báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về</small>

<small>phịng, chống xâm hại trẻ em, Công thông tin điện tử Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đăng</small>

<small>ngày 27/05/2019, truy cập ngày</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thay vào đó họ lựa chọn cách thức giải quyết khác như nhận tiền bồi thường từ thủ phạm,

<small>giâu kín vụ việc vì sợ ảnh hưởng đên danh dự, uy tín của gia đình.</small>

Thứ hai, mơi trường xã hội cịn tiềm ấn nhiều nguy cơ dẫn đến trẻ em bị bạo lực, xâm hại như sự xuất hiện của những ấn phẩm, trò chơi, thơng tin trên mạng internet, phim ảnh ngồi luồng có tính chất bạo lực, khiêu dâm... Bên cạnh đó, việc tạo cho trẻ em một môi trường thân thiện, với các điều kiện vui chơi, giải trí lành mạnh, phát triển năng khiếu chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức dẫn đến hệ lụy trẻ dễ bị dụ dỗ bởi các

<small>đôi tượng xâu.</small>

Thứ ba, hệ thông pháp luật liên quan đến bảo vệ trẻ em vẫn còn khoảng trống. Mặc dù đã có quy định về quy trình, trách nhiệm, thâm quyền đánh giá nguy cơ và quản lý trường hợp trẻ em bị bạo lực, bi XHTD nhưng chưa có quy định cụ thé về trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tô giác hành vi xâm hại trẻ em, thiếu quy định cụ thê đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác và phối hợp xác minh, đánh giá, điều tra về hành vi xâm hại, tình trạng mat an toàn hoặc gây ton hại, mức độ nguy cơ gây ton hại đối với trẻ em; chưa có quy định về thâm quyền, thủ tục tách trẻ em ra

<small>khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp chính cha mẹ, người chăm sóc có hành</small>

vi XHTD đối với trẻ em; thiếu hệ thống theo dõi dé đảm bảo những trẻ em này không tiếp tục bị bạo lực, bị xâm hại tình dục.

Thư tu, hệ thống cán bộ và mạng lưới cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cơ sở cịn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực. Vai trò của cán bộ bảo vệ trẻ em, nhân viên công tác xã hội làm việc về trẻ em chưa được quy định cụ thé trong các văn bản pháp luật của Nha nước dé bảo dam quyền hạn pháp lý khi thực hiện việc

can thiệp, hỗ trợ bảo vệ trẻ em, đặc biệt là bảo vệ trẻ em trong tình trạng khan cấp. Hệ

thống dịch vụ bảo vệ trẻ em chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo các điều kiện thực hiện quy trình phát hiện, can thiệp sớm, tư van, phuc hồi tích cực cho mọi trẻ em <small>và tái hòa nhập cho các nạn nhân là trẻ em bị bạo lực, bị xâm hại tình dục.</small>

Từ thực trạng và nguyên nhân trên, với mong muốn đề xuất giải pháp giải quyết van đề, nhóm nghiên cứu lựa chon đề tài: “Tăng cường tiếp cận công ly cho trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục — từ thực tiễn quốc tế đến kinh nghiệm cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học. Chúng tôi hy vọng nghiên cứu này sẽ là công trình khoa học đem lại giải pháp thích hợp nhất dé tăng cường tiếp cận công lý cho trẻ em bị XHTD tai Việt Nam. Đồng thời, đây sẽ là sự phân tích và đánh giá một cách tổng quan nhất để cơ

<small>quan ban hành pháp luật, cơ quan và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em bị XHTD cócái nhìn khách quan và đúng đăn hơn về vân đê này.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>Trong quá trình nghiên cứu và hồn thành đê tài này, nhóm tác giả đã tìm hiểu,tham khảo một sơ tai liệu có nội dung liên quan đên phạm vi nghiên cứu của dé tài như:</small>

- Dương Tuyết Miên (2005), “Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Luật Học, Số Đặc san về bình dang giới/2005, tr. 35 - 40.

- Trương Hồ Hải và Đặng Viết Dat, “Nâng cao năng lực tiếp cận công lý của nạn

<small>nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”</small>

- Nguyễn Quang Đức và Vũ Công Giao (2018) “Các cơ chế tiếp cận cơng lý khơng chính thức (ngồi tịa án)”, Công lý và quyên tiếp cận công lý những vấn dé ly luận và thực tiễn, 18/4/2018, Nxb Hồng Đức. Hà Nội, tr. 351-361

Sau khi tham khảo và nghiên cứu các tài liệu trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy ở Việt Nam hiện nay các nghiên cứu liên quan đến tiếp cận công lý cho nạn nhân và đặc biệt hơn với các nạn nhân là trẻ em bị XHTD là chưa nhiều và đã cũ. Ngoài ra các tài liệu nói trên mới tập trung nghiên cứu vào từng khía cạnh cụ thể của vấn đề như thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề XHTD trẻ em. Do vậy, người đọc khó có được cái nhìn tổng qt và tồn diện về tăng cường tiếp cận cho trẻ em bị xâm hai tình dục. Bên cạnh đó, cũng chưa có nghiên cứu nao giải quyết van dé trong tương quan so sánh với kinh nghiệm của các quốc gia khác trên thế giới. Đề tài này của chúng em sẽ nghiên cứu tổng thê vấn đề tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục, bao gồm việc phân tích cơ sở lý luận cho việc tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục, các quy định của pháp luật trong và ngoài nước, việc đánh giá thực tiễn áp dụng các quy <small>định này cũng như thực trạng hoạt động của các bên có liên quan trong việc bảo vệ trẻ</small>

em bị XHTD tại Việt Nam và nước ngồi. Qua đó nhóm nghiên cứu đề xuất việc học tập, rút kinh nghiệm từ mơ hình tiếp cận công lý của các quốc gia khác dé đề xuất các

<small>bài học cho Việt Nam.</small>

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối trợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vẫn đề lý luận về tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục; các quy định của pháp luật Việt Nam, thực tiễn thi hành các quy định pháp luật Việt Nam trong bảo vệ trẻ em khỏi XHTD của các cơ quan có thầm quyền và việc theo đuổi vụ việc của bên thứ ba; thực tiễn xây dựng, thực thi pháp luật và thúc day vai trị của các bên có liên quan ở một số nước trên thé giới trong công tác tăng cường tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Đề tài được thực hiện dưới góc độ liên ngành khoa học pháp lý kết hợp với xã hội học, tâm lý học. Đề tài nghiên cứu pháp luật hiện hành của Việt Nam và các nước Singapore, Thái Lan và Pháp cũng như thực trạng tiếp cận công lý cho trẻ em bị XHTD tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu sử dụng số liệu khảo sát phụ huynh, học sinh tại địa bàn thành phố Hà Nội và Hải Phòng năm 2020. Và các phụ huynh cũng như học sinh trên các mạng xã hội dé phân tích thực trang bảo vệ trẻ em bị XHTD tại Việt Nam. 4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu chính của đề tài là góp phần hoàn thiện khung pháp lý, thúc đây sự vận hành của các cơ chế pháp lý cũng như các hoạt động của chủ thé có liên quan tới việc tăng cường tiếp cận công lý cho trẻ em bị XHTD ở Việt Nam, dựa trên cơ sở nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm tốt từ một số quốc gia trên thé giới về van dé này.

5. Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện đề tài

Dé hồn thành đề tài này, nhóm tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó tập trung vào các phương pháp sau: phân tích, tổng hợp và luật hoc so sánh. Cụ thé, phương pháp phân tích văn bản, phân tích di liệu khảo sát, tong hợp và so sánh được sử dụng triệt dé làm nổi bật lên những van đề pháp ly trong tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục, về thực trạng tăng cường tiếp cận cơng lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục, từ đó đề xuất những giải pháp và bài học cụ thể trong

<small>cơng tác này.</small>

6. Điểm mới và đóng góp của đề tài

Về điểm mới của dé tài: Dé tài đặt ra van đề so sánh pháp luật và thực trang tăng cường công lý cho trẻ em bị XHTD giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới, dé từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để triển khai và áp dụng. Day là dé tài đi theo hướng nghiên cứu mới so với các đề tài trước đây - các đề tài trước chủ yếu nghiên cứu theo hướng phân tích nguyên nhân, thực trạng và kiến nghị hồn thiện pháp

<small>luật có liên quan.</small>

Về đóng góp của đề tài: Đề tài sẽ góp phần hồn thiện các quy định có liên quan (khung pháp lý) về tiếp cận công lý cho trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục. Bên cạnh đó, đề tài cịn có ý nghĩa cung cấp thêm các giải pháp tăng cường hoạt động của các cơ quan, tô chức và các chủ thé xã hội của liên quan dé việc tiếp cận công lý cho trẻ em bị XHTD được thực hiện ngày càng hiệu quả. Thêm nữa, đề tài cũng góp phần tác động tới ý thức của cộng đồng xã hội nói chung trong việc quan tâm và có trách nhiệm

<small>với việc bảo vệ quyên của trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>Ngồi phân mở đâu, kêt luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đê tài</small>

<small>Chương 3: Kinh nghiệm của một sô nước trên thê giới vê tăng cường tiêp cận</small>

<small>công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục</small>

Chương 4: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc tăng cường tiếp cận

<small>cơng lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

NỘI DUNG ĐÈ TÀI

CHƯƠNG 1: NHỮNG VAN DE CHUNG VE TIẾP CAN CONG LÝ CHO TRE EM BI XÂM HAI TÌNH DUC

1.1. Khái niệm chung về tiếp cận cơng lý cho trẻ em bị xâm hai tình dục

<small>a, Định nghĩa trẻ em bị xâm hại tinh duc</small>

Trước hết, khái niệm trẻ em theo Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em 1989

<small>được định nghĩa như sau: “Trong phạm vi công ước này, trẻ em là mọi người dưới 18</small>

tuổi trừ trường hợp pháp luật áp dung với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hon”. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, tùy theo quy định mà độ ti của trẻ em có thé sớm hơn, như 9 tuổi đối với nữ ở Iran? và 21 tuôi đối với cả nam và nữ ở Mỹ. Ở Việt Nam, độ tuôi của trẻ em theo Luật Trẻ em 2016 được quy định là người dưới 16 tuổi.

Đối với trẻ em bị xâm hại tình dục, Nghị định 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em định nghĩa trẻ em bị xâm hại tình dục là: “(1) Trẻ em bị hiếp dâm; (2) Trẻ em bị cưỡng dâm; (3) Trẻ em bị giao cấu; (4) Trẻ em bị dâm ô và (5) Trẻ em bị sử dụng vào mục đích mại dâm, khiêu dâm đưới mọi hình thức” (Điều 13).

Có thé thé nhận thay dưới góc độ pháp lý hình sự, trẻ em bị xâm hại tình duc là nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 Bộ Luật Hình sự 2015. Cụ thể các nạn nhân này là những người dưới 16 tuổi,

<small>gôm cả trẻ em nữ và nam.</small>

<small>Tiêp cận từ góc độ tội phạm học, nan nhán của tội phạm là những cá nhân đãchịu thiệt hại về tính mạng sức khỏe, tỉnh thân, tình cảm, tài sản hoặc các quyên và lợi</small>

ich hợp pháp do hành vi phạm tội trực tiếp gây ra `.

Tuy nhiên chúng ta cũng cần lưu ý phân biệt nạn nhân với khái niệm bị hại theo điều 62 Bộ Luật Tổ tụng hình sự 2015: “Bi hai là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thé chát, tinh than, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc de doa gây ra”. Như vay, nạn nhân của tội phạm có thé là cá nhân hay tơ chức cịn người bị hại chỉ là các cá nhân. Hơn nữa, không phải bất cứ cá nhân nào là nạn

<small>nhân của tội phạm thì cũng là người bị hại. Chỉ những nạn nhân của tội phạm tham gia</small>

<small>3 Tran civil society organizations (2015), Rights of the Child in Iran: Joint Alternative Report by Civil Society</small>

<small>Organizations on the Implementation of the Convention of the Rights of the Child by the Islamic Republic of</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>hình sự 20155.</small>

<small>Tuu chung lại, nhóm nghiên cứu định nghĩa trong phạm vi nghiên cứu: “Tré em</small>

bị xâm hại tình duc là người dưới 16 tuổi đã chịu thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh

<small>than, tình cảm do hành vi xâm hai tình dục trực tiêp gây ra”.</small>

<small>b, Đặc diém của trẻ em là nan nhân bị xâm hại tinh duc</small>

Thứ nhất, trẻ em là nạn nhân của XHTD bi tôn thương kéo dài và ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em, bao gồm cả tổn thương về thé chất lẫn tinh thần. Cơ thé trẻ em đang trong giai đoạn phat triển, việc thực hiện các hành vi giao cấu, dâm ô, cưỡng dâm sẽ gây ra ton thương đến cơ thé nạn nhân, đặc biệt là cơ quan sinh sản, đồng thời cịn có thé khiến trẻ em bị lây lan các bệnh phụ khoa, HIV... Đặc biệt đối với trẻ em gái các em có nguy cơ có thai, gây nguy hiểm đến tinh mạng và sức khỏe của cả mẹ và thai nhi vì giai đoạn này cơ thê các em chưa phát triển đầy đủ cho việc mang thai. Về tâm lý, trẻ em bị tổn thương tâm lý lâu dài đặc biệt dễ mắc các bệnh trầm cảm, mat trí nhớ về thời thơ ấu, khó hịa nhập với mọi người, nạn nhân thường cảm thấy xấu hô, tội lỗi, tự đồ lỗi cho bạn thân, cho rằng bản thân đã mất giá trị. Hậu quả dẫn tới các em gặp khó khăn trong thiết lập mối quan hệ với người khác giới. Nạn nhân thường có biểu hiện lo lắng va sợ sệt những người xung quanh. Trong một số nghiên cứu về van dé này cho thay XHTD trẻ em thậm biểu hiện các triệu chứng tâm lý giống triệu chứng tâm lý sau chiến tranh5 .Nguy hiểm hon trong trường hợp này, tôn thương tâm lý và ton thương thé chat đồng thời diễn ra, cộng hưởng với nhau làm ton thương tăng lên, sâu sắc hơn khiến cho việc chữa tri tổn thương cho nạn nhân gặp nhiều khó khăn và phần nhiều là không thể phục hồi triệt dé. Tâm lý trẻ bi ton thương dẫn đến các triệu chứng tram cảm kéo dai, không tin tưởng người xung quanh, lệch lạc trong suy nghĩ về van dé tinh dục 7

<small>Thứ hai, nạn nhan của tội phạm XHTD thường khó chia sẻ tình trang cua minh</small>

đến người khác cũng như ngại trình báo cơ quan chức năng. Rất ít khi trẻ em lên tiếng tố cáo việc mình bị bóc lột, xâm hại vì bản thân trẻ sợ bản thân, gia đình và cả thủ phạm phải chịu hậu quả. Một số trẻ cho rằng sẽ khơng ai tin lời mình nói hoặc các em im lặng vì cho rằng mình đáng bị nhận những hành vi đó và khơng đáng được giúp đỡ. Trẻ em

<small>> Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Van dé nạn nhân của tội phạm, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,</small>

<small>Trần Hữu Tráng chủ nhiệm đề tài, Hà Nội.</small>

<small>® Melissa Hall and Joshua Hall (2011), The Long-Term Effects of Childhood Sexual Abuse: Counseling</small>

<small>Implications, truy cap ngay 30/03/2020 < Dương Tuyết Miên (2005), “Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và</small>

<small>giải pháp khắc phục”, Tạp chí Luật Học, Số đặc san về bình đăng giới, tr. 35 - 40.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

lột. Ngoài ra do hồn cảnh và vì danh dự trẻ có thê chấp nhận thủ phạm bồi thường bằng tiền, lợi ích vật chat thay vì khởi kiện.

Thứ ba, trẻ em là nạn nhân của XHTD là đối tượng dé bị xâm hai nhiều lần. Điều này được lý giải từ khía cạnh tội phạm học theo học thuyết bat lực học của nhà tâm lý học người Mỹ Martin Seligman. Học thuyết này giải thích sự bất lực trong việc nhận

<small>thức những kinh nghiệm đã từng trải trong quá khứ của một người. Thông thường một</small>

người khi đã trải qua rủi ro hay tai nạn trong quá khứ sẽ tích lũy được kinh nghiệm dé có thê tránh được những rủi ro tương tự xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên ở một số người, khả năng này rất hạn chế nhất là trẻ em vì trẻ em khi gặp một sự có khơng tác động lớn đến nhân thức của và xử sự của họ nên khơng dé lại bat kì kinh nghiệm nào.

<small>Vi vậy trong tương lai những người này khơng có khả năng tránh được những hồn cảnh</small>

tương tự đã xảy ra trong quá khứ, kéo theo một số người tiếp tục trở thành nạn nhân của

<small>tội phạm.”</small>

<small>c, Định nghĩa công lý cho trẻ em bị xâm hai tinh duc</small>

Thuật ngữ “cơng lý cho trẻ em” nói đến trách nhiệm của các quốc gia trong việc tôn trọng các quyền trẻ em và đảm bảo tiếp cận công lý hiệu quả cho mỗi trẻ em trong hệ thống pháp luật không chịu bat kỳ sự phân biệt đối xử nào, bất ké màu da, chủng tộc, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, quốc gia, dân

tộc, hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, khuyết tật, khai sinh hoặc tình trạng khác của các

<small>em, của cha mẹ hoặc người giám hộ các em.!°</small>

Từ định nghĩa “cơng lý dành cho trẻ em”, ta có thé hiểu công lý với trẻ em bị XHTD là trách nhiệm của mỗi quốc gia trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền dành cho nạn nhân của hành vi XHTD là trẻ em, dam bao nạn nhân là trẻ em được tiếp cận công lý hiệu quả thông qua hệ thống pháp luật mà không phải chịu sự phân biệt đối xử. Trách nhiệm quốc gia trong khái niệm trên bao gồm trách nhiệm của nhiều cơ

<small>quan chức năng. Theo Luật trẻ em 2016 và Nghị định 56/2017/NĐ-CP, Việt Nam có 17</small>

cơ quan có nghĩa vụ bảo vệ quyền trẻ em, bao gồm: 1. Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp; 2. Chính phủ; 3. Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; 4. Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội; 5. Bộ Tư pháp; 6. Bộ Y tế; 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo; 8. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 9. Bộ Thông tin va Truyén thông: 10. Bộ Công an; 11.

<small>5 Geeta Sekhon, N.T.Tuệ, N.T.Mận, N.T.Hiền (2017), Giới thiệu về bóc lột tình duc trẻ em, Chương trình tập</small>

<small>hn dành cho thâm phán về cơng tác xét xử các vụ án bóc lột tình dục trẻ em, Hà Nội, tr 42</small>

<small>? Đại học Luật Hà Nội (2010), Vấn đề nạn nhân của tội phạm, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trần</small>

<small>Hữu Tráng chủ nhiệm đê tài.</small>

<small>16 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tập bài giảng tư pháp đối với người chưa thành niên, Hà Nội.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; 14. Các tô chức xã hội: 15. Tổ chức kinh tế; 16. Tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em; 17. Quỹ Bao trợ trẻ em.

Tuy thuộc vào thầm quyên, chức năng nhiệm vụ của mình các cơ quan đã liệt kê sẽ thực

hiện năng lực bảo vệ trẻ em băng những khía cạnh chun mơn đảm bảo các quyền và loi ích hợp pháp dành cho trẻ em được đảm bảo. Ngoài ra cũng phải ké đến trách nhiệm

của cộng đồng, xã hội và cha mẹ của trẻ em trong việc hỗ trợ các em là nạn nhân của

XHTD trong q trình tiếp cận cơng lý.

Đối với trẻ em bị xâm hại tình dục, các quyền thiết yếu cần được đảm bảo theo Hướng dẫn tư pháp về các van dé liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em (2005) bao gồm: Quyền được đối xử với nhân phẩm và lòng trắc ấn; Quyền được bảo vệ khỏi hành vi phân biệt đối xử; Quyền được thông tin; Quyền được trợ ø1úp một cách hiệu quả; Quyên riêng tư; Quyền được an toàn; Quyền được bảo vệ tránh bị ton thương khi tham gia quá trình tư pháp; Quyền được hưởng biện pháp khắc phục.

Tựu chung lại có thê hiểu cơng lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục là việc các cơ quan chức năng, các tô chức kinh tế, tổ chức xã hội cùng gia đình và cộng đồng hỗ tro, đảm bảo và tôn trọng các quyên dành cho nạn nhân là trẻ em thông qua việc thực hiện những chức năng nhiệm vụ của mình, đảm bảo quá trình tiếp cận công lý đối với nạn nhân diễn ra kịp thời và hiệu quả.

d, Định nghĩa tiếp cận công ý cho trẻ em bị xâm hại tinh dục

Trong bối cảnh hiện nay, khái niệm “tiếp cận công lý” (access to justice) đang được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.

Theo quan điểm truyền thống, tiếp cận công lý là quyền được xét xử công bang bởi một toa án không thiên vị của mỗi người chiếu theo những quy định nhân quyén quốc té (the right to a fair trial). Theo cách hiểu này, quyền tiếp cận công ly chỉ gói gon trong quy trình tố tụng hình sự đặc thù, bao gồm những nguyên tắc kinh điển như quyền được bào chữa, quyền được kháng cáo, quyền được giữ im lặng,... của người bị buộc tội. Có thé hiểu quyên tiếp cận công lý là quyền sử dụng các dịch vụ pháp lý (công và tư) của người bị buộc tội dé đảm bảo được xét xử một cách cơng bằng và minh bạch

<small>trước tịa an.</small>

Theo quan điểm tiếp cận mới, tô chức quốc tế UNDP cho rang với thiết chế tư pháp chính thống hiện tại cách tiếp cận trên là khơng phù hợp khi cịn tồn tại nhiều nhược điểm như: (i) Thủ tục rườm rà, phức tạp và hay bị trì hỗn; (ii) Chi phí lớn, trong nhiều trường hợp và ở nhiều nơi vượt quá khả năng của những nhóm xã hội yếu thé; (iii) Khó tiếp cận và thiếu tin cậy, hiệu qua; (iv) Dễ bị chi phối bởi thé lực và quyền lực; (v)

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Yếu kém trong việc tổ chức thực thi các quyết định và quy định; (vi) Có ít giải pháp, thiếu các giải pháp mang tính phịng ngừa, kịp thời, bình dang, thích đáng và cơng bằng: (vii) Chứa đựng nhiều định kiến và cản trở với các nhóm xã hội dé bị tơn thương: (viii) Thiếu các thơng tin về thủ tục và tiến trình; (ix) Thiếu cơ chế trợ giúp pháp lý thích hợp; (x) Không thân thiện và thiếu sự tham gia của quần chúng.!!

Cũng theo UNDP, những hạn chế kế trên có thé được khắc phục nếu áp dung mơ hình tiếp cận công lý mới. Cách tiếp cận công lý mới sẽ kế thừa ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của cách tiếp cận công lý truyền thong thông qua việc cung cấp thêm nhiều lựa chon cho người dân trong q trình kiếm tìm cơng lý. UNDP đề xuất bổ sung

<small>những giá tri mới, mở rộng phạm vi định nghĩa của vân đê tiêp cận cơng lý.</small>

Theo đó, tiép cận công lý được hiểu là khả năng đền bù, khắc phục (remedy) những bắt công hay thiệt hại mà một người hay một nhóm người — đặc biệt là nhóm người dé bị ton thương trong xã hội như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật,... — phải gánh chịu. Sự mở rộng trong định nghĩa mới về tiếp cận công lý này thé hiện rat rõ qua việc tìm kiếm sự hỗ trợ pháp lý của người dân khơng cịn giới hạn ở thiết chế tư pháp chính thống (formal justice system) bao gồm các cơ quan điều tra, tòa án, cơ quan thi hành án,... mà cịn ở các thiết chế tư pháp khơng chính thống (informal justice system). Ngồi ra, những bắt cơng hay thiệt hại được gây nên bởi cá nhân hoặc pháp nhân có thê xảy ra trong tat cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không chỉ riêng lĩnh vực tổ tụng hình sự. Đây là mơ hình tiếp cận cơng lý mang tính mới, bước đầu đang được áp dụng tại một số quốc gia phát triển trên thế giới như New Zealand, Canada,... !2

Với trẻ em, vốn là nhóm đối tượng yếu thé trong xã hội, các em chưa có năng lực tự bảo vệ bản thân khỏi những hành động gây thiệt hại từ chủ thể khác, các em còn phụ thuộc vào cha mẹ, người đại diện, môi trường nên các em dễ dàng bị đối xử bat công và nhận những thiệt hại về sức khỏe, danh dự nhân phẩm. Đặc biệt hơn, với trẻ em là nạn nhân bị XHTD với những đặc điểm về mức độ tôn thương sâu sắc, thiệt hại kéo đài, khó phát hiện và dễ bị lặp lại, các em cần được đặc biệt quan tâm, hỗ trợ từ trước trong và sau quá trình tố tung. Các cơ quan chức nang, tô chức kinh tế, tô chức xã hội... có nghĩa vụ phải đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em và đảm bảo các nguyên tắc sau trong “Tuyên ngôn về những nguyên tắc công lý cơ bản cho nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyền lực” năm 1985 của Liên Hợp Quốc:

<small>"| UNDP (2004), Access to Justice Practice Note, truy cap ngay 23/07/2020.</small>

<small>< to justiceandruleoflaw/access-to-justice-practice-note.html> .</small>

<small>+ Nguyễn Quang Đức va Vũ Công Giao (2018) “Các cơ chế tiếp cận cơng lý khơng chính thức (ngồi tịa án) ”,</small>

<small>Cơng lý và quyên tiếp cận công lý: Những van dé lý luận và thực tiễn, 18/4/2018, Nxb Hồng Đức. Hà Nội, tr.351-361.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>1. Xác định nạn nhân không phụ thuộc vào việc xác định thủ phạm.</small>

2. Không phân biệt chủng tộc, mau da, tơn giáo, giới tính, độ tuổi, quốc tịch. 3. Đối xử với sự cảm thông và tôn trọng phẩm giá.

4. Lắng nghe ý kiến và sự biểu đạt của nạn nhân và người làm chứng.

5. Được tiếp cận ngay đến các cơ chế công lý và biện pháp khắc phục ngay lập

Tuu chung lại, tiép can công ly cho trẻ em bi xâm hai tình duc là khả năng các em tiếp cận được những sự dén bù, khắc phục những bat công hay thiệt hại mà trẻ em mà các em phải chịu thông qua việc các cơ quan cơ quan chức năng, các tổ chức kinh tế, tô chức xã hội cùng gia đình và cộng dong hỗ trợ, dam bảo và tôn trọng các quyển dành cho nạn nhân là trẻ em bằng cách việc thực hiện những chức năng nhiệm vụ của

<small>mình kịp thời và hiệu quả.</small>

1.2. Nền tang cho việc tang CƯỜNG tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình dục Tiếp cận cơng lý cho trẻ em bị XHTD dựa trên ba nền tảng chủ yếu: khung pháp

<small>lý bảo vệ trẻ em bị xâm hại tình dục, hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng,</small>

khả năng theo đuôi vụ việc của bên thứ ba (người nha nạn nhân, các chuyên gia, các tô chức xã hdi,..). Dé tăng cường tiếp cận công ly cho trẻ em là nạn nhân bi XHTD cần phải nâng cao hiệu quả thực thi các nền tang tạo cho nạn nhân cơ hội tốt nhất dé tiếp cận đến cơng lý, đồng thời xóa bỏ những rào cản đối với nạn nhân trong q trình tiếp cận

<small>cơng lý.</small>

<small>a, Khung pháp ly bảo vệ trẻ em bị xâm hại tình duc</small>

Khung pháp lý bảo vệ được hiểu là khn khổ các quyền và nghĩa vụ pháp lý làm cơ sở tiền dé trong việc đòi hỏi, yêu cầu và theo đuổi “sự công bằng”. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu tiếp cận “su cơng bằng” theo quan điểm mới của các tổ chức quốc tế như sau: sự cơng bằng là khả năng mọi người tìm kiếm sự đên bù, khắc phục những bất công mà các chủ thể khác gây ra cho mình theo một cách thức hợp

<small>pháp và an tồn.</small>

<small>Khi xem xét khía cạnh bảo vệ pháp lý của pháp luật trong các văn bản quy phạm</small>

pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này, cần xem xét các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó có đem lại sự thuận lợi cho tất cả các bên trong vụ việc, vụ án (đặc biệt là nhóm chủ thể dễ bị tốn thương) hay khơng. Từ đó tìm kiếm được giải pháp tối ưu và cơng băng. Vì trên thực tế, pháp luật ln đi sau xã hội, do đó sẽ cịn các quy phạm thiếu sót và hạn chế

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

hoặc không phù hợp với thời đại. Thậm chí cịn có những quy phạm mang tính chất cản

<small>trở việc giai quyết vụ việc, vụ án.</small>

Dé thực hiện được điều đó, trong q trình xây dựng khung pháp lý, nhà nước cần chi tiết hóa các quy định chung trong Hiến pháp quốc gia và có sự chọn lọc nhất định các quy phạm trong cơng ước, điều ước quốc tế dé nội luật hóa.. nhằm xây dựng

một khung pháp lý hướng tới sự công bằng, bình đặng, tạo điều kiện cho nạn nhân đặc

biệt trong trường hợp nạn nhân là trẻ em bị xâm hại tình dục. Theo khuyến nghị của UNDP, dé tăng cường tiếp cận cơng lý thật tốt thì các quốc gia cần tham gia và thực

<small>hiện đây đủ và tích cực các điêu ước và chn mực qc tê có liên quan."</small>

Tiếp cận công lý cho trẻ em bị XHTD cần được tiếp cận dưới góc độ đa ngành, đa lĩnh vực. Vì trẻ em là nhóm đối tượng yếu thế cần được bảo vệ từ nhiều phía gia đình,

nhà trường, xã hội, cộng đồng, việc hỗ trợ, giúp đỡ trẻ em hồi phục sau tơn thương cần

có sự chung tay kết hợp của nhiều phía. Đầu tiên để bảo vệ trẻ em bị XHTD một cách hiệu quả cần có quy định trong các mảng pháp luật liên quan dé bảo vệ tối đa và giúp

trẻ em bị xâm hại được đền bù và khắc phục thiệt hại. Trước hết, pháp luật về trẻ em

cần chú trọng làm rõ quy định về độ tuôi trẻ em, quyền cơ bản và các nguyên tắc chung khi đối xử với trẻ em. Đồng thời trong pháp luật về trẻ em cũng cần cá biệt hóa các nhóm đối tượng trẻ em để xây dựng các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp. Về phía pháp luật hình sự cần chú ý quy định về độ tuôi, định nghĩa nạn nhân là trẻ em bị xâm hai tinh dục, quy trình t6 tụng cho người chưa thành niên, các quyền và lợi ich quan trọng cần được đảm bảo của trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục, quy định VỀ các cơ

<small>quan tương trợ tư pháp cho nạn nhân, v.v.. Quy định trách nhiệm của các cơ quan chức</small>

năng trong việc hỗ trợ trẻ em, xây dựng mô hình tố tụng phù hợp với trẻ. Trong pháp luật dân sự cần có những quy định hỗ trợ trẻ em về đền bù thiệt hại do thủ phạm gây ra, các van đề về đại diện cho trẻ em khi thủ phạm là người thân trong gia đình... Pháp luật hành chính cần xây dựng các quy định về các quy trình thủ tục hỗ trợ trẻ em tiếp cận đến các quỹ dành cho nạn nhân, các biện pháp thay đổi mơi trường sống, các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân sau q trình tơ tụng. Ngồi ra, trong lĩnh vực giáo dục, gia đình và trường lớp cần có những phương pháp giáo dục trang bị cho trẻ em những kiến thức về phòng chống XHTD cũng như hỗ trợ trẻ em hồi phục hợp lý khi

<small>các em trở thành nạn nhân của xâm hại tình dục.</small>

<small>l3 UNDP (2004), Access to Justice Practice Note. truy cập ngày 23/07/2020,</small>

<small>< to justiceandruleoflaw/access-to-justice-practice-note.html>.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Trẻ em bi XHTD như định nghĩa đã nhắc tới ở trên là nạn nhân của những tội phạm tinh dục vì thé trước hết khung pháp ly cần có quy định cụ thé rõ ràng về quyền

<small>của nạn nhân và nghĩa vụ tơn trọng các qun đó của các chủ thê tham gia tô tụng.</small>

<small>b, Hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ trẻ em bị xâm hạitình dục</small>

Dé khn khơ pháp lý được áp dụng triệt dé, cần có hệ thống cơ quan có đủ điều kiện tiêu chuẩn tham gia. Hệ thống cơ quan tham gia vào việc thiết lập và đảm bảo thực hiện đúng cách là một phần không thể thiếu trong việc giúp các chủ thé đi tìm kiếm “sự công bằng”. Đặc biệt, đối với hệ thống cơ quan tư pháp đại điện cho công lý đối với nạn nhân cần đặc biệt can trọng trong quá trình tố tụng. Nhiệm vụ chủ yếu, cơ bản của hé thong tư pháp chính thức là cung cấp các giải pháp công băng cho các bên trong vụ án băng các nguồn chính thức. Hệ thống phải đảm bảo thể hiện được sự tôn trọng và đảm bảo các quyền và lợi ích của nạn nhân, q trình tiếp cận đối với nạn nhân là trẻ em cần diễn ra một cách thân thiện, tích cực tránh làm trẻ em sợ hãi, rời bỏ q trình tiếp cận cơng lý. Một số nguyên tắc khi tiến hành tố tụng mà cơ quan tư pháp cần tuân thủ dưới đây được Liên hợp quốc nhắc đến trong Tuyên bố về những nguyên tắc cơ bản của tư pháp đối với nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyền lực. Các quốc gia thành viên có thê dựa trên các nguyên tắc này kết hợp với tình hình pháp luật quốc gia để xây dựng các nguyên tắc riêng trong quy định pháp luật của mình đối với các cơ quan chức năng.

<small>- Xác định nạn nhân không phụ thuộc vào việc xác định thủ phạm.</small>

- Không phân biệt chủng tộc, màu da, tơn giáo, giới tính, độ ti, quốc tịch. - Đối xử với sự cảm thông và tôn trọng phẩm giá.

- Lang nghe ý kiến và sự biểu đạt của nạn nhân và người làm ching."

c, Khả năng theo đuối vụ việc của gia đình nạn nhân, các chuyên gia và các tổ

<small>chức xã hội</small>

Đây được coi là nền tảng thứ ba trong cơng cuộc tìm kiếm sự đền bù, khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra. Có hai yếu tố cơ bản liên quan đến van dé trên: Nhận thức pháp luật và tính hiệu quả của các cơ quan trợ giúp pháp lý. Khả năng theo đuôi vụ việc hay là năng lực tiếp cận công lý của nạn nhân bị XHTD thường được đo lường thơng qua hai khía cạnh chính, đó là: sự hiểu biết pháp luật (legal awareness) và sự sẵn có cùng tính hiệu quả của hệ thống trợ giúp và tư van pháp ly (legal aid and legal counsel

<small>dế Đại hội đồng Liên hợp quốc (1985), Những nguyên tắc cơ bản của tư pháp đối với nạn nhân của tội phạm và</small>

<small>sự lạm dung quyên lực, truy cập ngày 23/07/2020, < class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

system). Trong đó, sự hiểu biết về pháp luật thường được đo lường dưới các chiều cạnh

(1) Sự hiểu biết về các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thé;

(2) Sự hiểu biết về cách thức tìm kiếm sự đền bù, khắc phục khi các quyền và lợi ích đó bi vi phạm, như: hiểu biết về các cơ chế, thủ tục cần phải tiếp cận hoặc áp dụng dé đảm bảo quyên và lợi ích chính đáng. !Š

Đối với trẻ em bị xâm hại tình dục, hiểu biết của các em cơ bản về pháp luật còn bị hạn chế dẫn đến khả năng tiếp cận đến sự trợ giúp của hệ thống hỗ trợ và tư vẫn pháp lý còn thấp. Đề cải thiện vấn đề này, ngoài việc xây dựng khung pháp lý chặt chẽ, các nhà làm luật cũng cần tìm ra giải pháp tuyên truyền hiệu quả về kiến thức pháp luật, kiến thức về các tô chức hỗ trợ, tư vấn pháp lý đến trẻ em và gia đình. Những thơng tin, kiến thức đó sẽ phương tiện quan trọng dé trẻ em tiếp cận công lý.

1.3. Chuẩn mực pháp lý quốc tế về tiếp cận công lý cho trẻ em bị xâm hai tình dục Trong van dé này, Liên Hợp Quốc đã xây dựng những chuẩn mực nhất định dé các quốc gia thành viên xây dựng những quy định phù hợp với pháp luật từng quốc gia. Xuất phát từ quan điểm bị can, bị cáo là đối tượng dễ bị tôn thương hơn trong quá trình tố tụng. Nạn nhân và nhân chứng là người chưa thành niên nhận được sự quan tâm muộn hơn của Liên Hợp Quốc. Cho đến năm 1985, văn kiện đầu tiên “Tuyên bố về những nguyên tắc cơ bản của tư pháp đối với nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyên lực ” mới được ban hành. Từ thời điểm đó trở đi các quy định bảo về quyền của nạn

<small>nhân và nhân chứng là người chưa thành niên mới được quan tâm và nghiên cứu như</small>

“Hướng dan về tư pháp doi với những van dé liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em”!®. Văn bản này đã xác định rõ các nguyên tắc cơ bản và đảm bảo tổ tụng đặc thù cho nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em. Thêm nữa, dé hỗ trợ các quốc gia cụ thể hơn trong việc nội luật hóa các quy định trên, ủy ban Liên Hợp Quốc về chống ma túy về tội phạm ban hành: “Ludt mẫu về tư pháp đổi với những vấn dé liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em”. Nội dung của

<small>ba văn kiện trên kêt hợp cùng hệ thông văn bản điêu ước qc tê về trẻ em có thê được</small>

<small>l5 Trương Hồ Hải và Đặng Viết Dat (2020), Nang cao năng lực tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại</small>

<small>tình duc ở Việt Nam, truy cập ngày: 04/07/2020, < .</small>

<small>Me _Economic and Social Council (2005), Guidelines on justice in matters involving child victims and witnesses</small>

<small>of crime, truy cập ngày 04/07/2020,</small>

<small>< Victims Witnesses.pdf>.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

coi là khung pháp lý cơ bản để xây dựng quy chế tiếp cận công lý cho nạn nhân là trẻ <small>em.</small>

Thứ nhất, nhằm hỗ trợ các quốc gia trong việc ban hành các văn bản mới và sửa đổi bồ sung hoàn thiện những văn bản có sẵn. Dựa vào các quy định được nêu trong luật mẫu các quốc gia có thê đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật nước mình. Đồng thời, các quốc gia nên tiến hành sửa đôi những quy định chưa phù hợp, mâu thuẫn với các quy phạm trong luật mẫu có thé gây ra những rào cả và hạn chế những quyền của

<small>trẻ em là nạn nhân hoặc của tội phạm.</small>

Thứ hai, Luật mẫu cũng đưa ra những khuyến nghị trong việc đối xử với nạn nhân và nhân chứng trong q trình tơ tụng đối với chính phủ và các bên liên quan, các tổ chức đảm bảo quyên lợi trẻ em. Điều nay nhắc nhở các chủ thé tham gia quá trình tố tụng trong vụ án hình sự có nạn nhân hoặc nhân chứng là trẻ em cần cần trọng trong hành vi và cách ứng xử. Cần có những quy tắc ứng xử phù hợp, can trọng tránh làm tôn thương đến trẻ em trong vấn đề này.

Thứ ba, Luật mẫu tập trung xây dựng nội dung xoay quanh hệ thống tư pháp hình sự nhưng cũng có thê sử dụng làm tài liệu tham khảo trong các hệ thống luật khác như hơn nhân gia đình, nhập cư, ni con nuôi dé đảm bảo các quyền của trẻ em được dam bảo. Các quy định của luật mẫu có tính khái qt chung và có gia trị tham khảo cho nhiều quốc gia, nhiều lĩnh vực, mặc dù tính chất vụ việc khác nhau nhưng tâm lý trẻ em trong một số hoàn cảnh nhất định như trong vụ việc ly hôn, di cư, nhận con nuôi. cũng dé dang bị tổn thương, cần được hỗ trợ khắc phục sau q trình tư pháp. như vậy có thé tham khảo các hướng dẫn của luật mẫu sau quá trình tố tụng đối với một số lĩnh vực liên <small>quan.</small>

Tựu chung lại, khung pháp lý của Liên Hợp Quốc là cơ sở, là tiền đề cho các quốc gia xây dựng các quy định pháp luật nhằm đảm bảo giúp tăng cường khả năng tiếp

<small>cận công lý của người chưa thành niên là nạn nhân hoặc nhân chứng. Dưa trên khung</small>

pháp lý được ban hành, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện q trình nội luật hóa pháp luật nước mình theo thời gian dé thực hiện cam kết quốc tế. Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong việc ký kết công ước quốc tế về quyên trẻ em chứng tỏ Việt Nam vô cùng quan tâm cũng như tán thành vẫn đề này. Việc nâng cao khả năng tiếp cận công lý của trẻ em sẽ là một trong những cơ sở quan trọng trong việc đây mạnh thực thi công ước. Mặc dù pháp luật quốc tế nói chung khơng quy định cụ thể quốc gia cần phải thực hiện điều ước quốc tế bằng cách thức nào, hay nói cách khác các quốc gia tồn quyền có thé tự do lựa chọn các cách thức dé thực hiện điều ước những với khung pháp ly vừa nêu các quốc gia như Việt Nam hồn tồn có cơ sở dé xác định mức độ của tiến

<small>trình thực hiện Cơng ước Liên Hop Quoc về qun trẻ em của qc gia mình.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Kết luận Chương 1

Thứ nhất, “7rẻ em bị xâm hai tinh duc là người dưới 16 tuổi đã chịu thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh than, tình cảm, tài sản hoặc các quyên và lợi ích hợp pháp do hành vi xâm hại tình duc trực tiếp gây ra”.

Thứ hai, trẻ em là nạn nhân cua tội phạm XHTD mang ba đặc điểm chính: Trẻ em là nạn nhân của tội phạm XHTD bị tổn thương sâu sắc, kéo dai, ảnh hưởng đến qua

<small>trình hình thành nhân cach và tương lai của trẻ; Trẻ em là nạn nhân của XHTD khó chia</small>

sẻ tình trạng của mình đến người khác; Trẻ em là nạn nhân của XHTD dễ bị xâm hại

<small>nhiêu lân.</small>

Thứ ba, tiép cận công lý cho trẻ em bị xâm hại tình duc là khả năng các em tiếp cận được những sự dén bù, khắc phục những bat cong hay thiệt hại ma các nạn nhân phải chịu thông qua việc các cơ quan cơ quan chức năng, các tô chức kinh tế, tổ chức xã hội cùng gia đình và cộng đơng hỗ trợ, dam bảo và tôn trọng các quyên dành cho nạn nhân là trẻ em bằng cách việc thực hiện những chức năng nhiệm vụ kịp thời và hiệu

Thứ tư, tiếp cận cơng lý dựa trên ba nền tảng chính khung pháp lý bảo vệ trẻ em

<small>bị xâm hại tình dục; hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ trẻ em bị</small>

xâm hại tình dục; khả năng theo đi vụ việc của gia đình nạn nhân, các chuyên gia và các tô chức xã hội.

Thứ năm, chuẩn mực quốc tế trong việc bảo vệ trẻ em là nạn nhân của XHTD dựa trên các nguyên tắc, quy định trong ba văn bản “Tuyên bố về những nguyên tắc cơ ban của tu pháp đối với nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyền luc” năm 1985 của đại hội đồng Liên Hợp Quốc; “Hướng dan về tư pháp doi với những van đề liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em” của Uy ban Kinh té và Xã hội Liên Hợp Quốc; “Luật mẫu về tư pháp đối với những van dé liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em” của ủy ban Liên Hợp Quốc về chống ma túy về tội phạm. Ba văn ban đóng vai trị căn cốt trên đã xác định rõ các quyền và lợi ích hop pháp của nạn nhân bị XHTD và các nguyên tắc khi đối xử với trẻ em là nạn nhân của XHTD trong quá trình tố tụng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

CHƯƠNG 2: THUC TIEN TANG CƯỜNG TIẾP CAN CONG LY CHO TRE EM BI XAM HAI TINH DUC O VIET NAM

<small>2.1. Thực trang khung phap lý bao vệ trẻ em khỏi xâm hai tình duc tại Việt Nam</small>

Hiện nay, khung pháp lý bảo vệ trẻ em khỏi bị XHTD tại Việt Nam bao gồm các quy định của Luật Trẻ em 2016, Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Trợ giúp pháp lý 2017 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 cùng một số văn bản dưới luật khác có liên quan. Nhìn vào số lượng những văn bản pháp luật trên, có thé thay đó là tín hiệu đáng mừng khi Việt Nam đã bồ sung và hoàn thiện nhiều khuôn khổ pháp lý để trẻ em bị XHTD có cơ hội tiếp cận cơng lý. Trong phần này, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích và đánh giá các văn bản pháp luật nói trên trong tương quan so sánh với khung pháp lý quốc tế bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại tình dục.

<small>a, Luật Trẻ em năm 2016</small>

Luật Trẻ em 2016 là văn bản pháp luật quy định một cách toàn diện về quyên, bồn phận và lợi ich hợp pháp của một đối tượng cụ thé trong xã hội là trẻ em — khác với những văn bản luật khác nơi trẻ em chỉ là một trong nhiều đối tượng tác động. Do đó, đây là đạo luật hàng đầu của Việt Nam trong danh mục các văn bản pháp lý bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại tình dục. Ngay tại Điều 1, Luật Trẻ em 2016 định nghĩa “trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Mặc du quy định độ tuôi thấp hon so với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, song quy định của Việt Nam vẫn được coi là phù hợp với quy định mở của Công ước: “Trẻ em là mọi người dưới 18 tuôi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định ti thành niên sớm hơn”.

Trong q trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thay Chương IV trong Luật Trẻ em 2016 có nhiều quy định về cách thức bảo vệ trẻ em bị XHTD của các cơ quan chức năng, các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, của gia đình, nhà trường và cả cộng đồng — một điểm phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Pháp luật Việt Nam xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em khỏi XHTD theo ba cấp độ: phòng ngừa, hỗ trợ và ngăn chặn. Ở mỗi cấp độ đều có những biện pháp chăm sóc cụ thê đi kèm như xây dựng mơi trường an tồn cho trẻ, tìm kiếm người chăm sóc thay thế, giúp đỡ trẻ phục hồi sau chan thương, vv.... Đối với trẻ bị xâm hại tình dục, Chương IV cũng đặt ra vấn dé bảo VỆ các em xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự với nguyên tắc hàng đầu là xử lý vụ việc kịp thời, nhanh chóng và có sự liên kết chặt chẽ giữa gia đình, các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em với các cơ quan có thâm quyên. Bên cạnh đó, những quy định về cách thức thành lập và hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em trong Luật Trẻ em 2016 là điểm mới so với các quy định về cơ sở trợ giúp trẻ em trong Luật Bảo

<small>vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 trước đây. Các cơ sở cung câp dịch vụ bảo vệ trẻ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

em có nhiệm vụ hiện thực hóa một hoặc một số biện pháp bảo vệ trẻ em bị XHTD theo ba cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ và ngăn chặn nhăm kiến tạo sự hài hòa giữa văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng.

Nghị định 56/2017/NĐ-CP là văn bản hướng dẫn chỉ tiết một số quy định của Luật Trẻ em 2016. Nghị định này đã bổ sung thêm nhiều biện pháp hỗ trợ, can thiệp và chăm sóc thay thế cho trẻ em bị XHTD tại chương II và chương V trên cơ sở các điều khoản bảo vệ trẻ em thuộc chương IV Luật Trẻ em 2016. Nhóm nghiên cứu nhận thay trong nghị định cịn có quy định cu thé về việc thành lập Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em là quy định mới, có tính ứng dụng cao trong thực tiễn bảo vệ trẻ em. Khi tiếp nhận tin báo tội phạm XHTD từ Tổng dai, các cơ quan chức năng có trách nhiệm tiếp nhận thơng tin phải nhanh chóng phối hợp xử lý thông tin, đánh giá kịp thời mức độ tơn hại, lên kế hoạch và rà sốt kế hoạch hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em bị xâm hại tình đục. Như vậy có thể thấy cả luật và văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng luật đều có mơi liên kết thống nhất trong việc đưa ra các quy định bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm hại

<small>tình dục.</small>

Đối chiếu với chuân mực pháp lý quốc tế, những quy định trên phù hợp với hướng khuyến nghị của Liên Hợp Quốc trong công tác bảo vệ trẻ em là nạn nhân của tội phạm xâm hại tình đục. Nguyên tắc giải quyết vụ việc XHTD trẻ em được nhắn mạnh là phải nhanh chóng, kịp thời (khoản 6 Điều 47 Luật Trẻ em 2016) phù hợp với u cầu “tránh sự trì hỗn khơng cần thiết” của “Tuyên ngôn về những nguyên tắc công lý cơ bản đối với nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyên lực” năm 19851”, cũng như những quy định về việc thiết lập Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em và cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em đáp ứng được yêu cầu của Tuyên ngôn về việc “các nạn nhân nên nhận được sự trợ giup cần thiết về vật chat, y té, tam ly va xã hội thông qua các phương tiện tự nguyện của chính phủ, cộng đồng và địa phương”. Việc bảo vệ trẻ em theo ba cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ và ngăn chặn theo Luật Trẻ em 2016 góp phan định hướng Việt Nam trong xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện như mơ hình của các quốc gia phát

<small>triên khác.</small>

<small>Tuy nhiên, những quy định trên trong Luật Trẻ em 2016 khơng phải khơng có</small>

thiếu sót. Những vấn đề chiến lược cần chú ý để bảo đảm phòng, chống XHTD đối với trẻ em thông thường bao gồm: (1) tăng cường hỗ trợ kinh tế đối với các gia đình; (2)

<small>thay đơi các quy phạm xã hội nhăm khun khích các bậc cha mẹ vào việc nuôi dạy con</small>

<small>Hv Đại hội đồng Liên hợp quốc (1985), Những nguyên tắc cơ ban của tư pháp doi với nạn nhân của tội phạm và</small>

<small>sự lạm dung quyền lực, truy cập ngày 23/07/2020, < class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

cái tích cực; (3) cung cấp chăm sóc và giáo dục có chất lượng từ khi đầu đời; (4) nâng cao kỹ năng nuôi dạy trẻ dé thúc đây trẻ phát triển lành mạnh; (5) can thiệp làm giảm bớt tác hại và phòng ngừa rủi ro tương lai!Š. Với những điểm này, Luật Trẻ em năm 2016 dường như chú ý nhiều tới van đề can thiệp nhằm làm giảm bớt tác hại và phòng ngừa rủi ro tương lai, còn các vấn đề khác chưa được làm rõ. Vấn đề hỗ trợ kinh tế gia đình - đối với các gia đình đơng con hay gia đình mà bố mẹ khơng có khả năng lao động - và thay đổi quy phạm xã hội (quy phạm đạo đức, quy phạm phong tục,...) là hai van đề chưa được chú trọng một cách đúng mức. Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989, tại lời nói đầu có nhắc tới các điểm chiến lược này như sau: “Tin tưởng rang, gia đình, với ý nghĩa là tế bào xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là trẻ em, cần được sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng”. Như vậy, việc hỗ trợ các gia đình chính là đảm bảo cho trẻ em có mơi trường sống an tồn, lành mạnh nhất có thé, bởi gia đình là nơi bảo vệ trẻ em tốt nhất ; qua đó đáp ứng được cấp độ

<small>phịng ngừa tội phạm XHỈTD trẻ em.</small>

Bên cạnh đó, trong luật vẫn cịn khá nhiều quy định khơng có nhiều ý nghĩa trong thực tiễn thi hành. Chăng hạn, Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Nguồn tài chính thực hiện quyền trẻ em bao gồm ngân sách nhà nước; ủng hộ của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong nước, nước ngoài; nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ; viện trợ quốc tế và các nguồn thu hợp pháp khác” (khoản 2 Điều 7). Như vậy, khi đã đặt ra vấn đề nguồn thu thì Luật Trẻ em năm 2016 cũng cần quy định, hướng dẫn thêm một số vấn đề liên quan như cơ quan nào có nhiệm vụ quản lý thu chi, chế tài nào sẽ được áp dụng nếu có vi phạm xảy ra trên thực tế và cơ quan nào có vai trị giám sát cơ quan quản lý thu chi. Bên cạnh đó, có thé thấy rằng Luật Trẻ em năm 2016 đặt ra nhiều điều khoản về cách thức thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo trợ trẻ em. Với các quy định về nguồn thu chi cịn thiếu sót như trên, trong trường hợp xảy ra vi phạm sẽ khó xử lý và trực tiếp ảnh hưởng tới quyền lợi của trẻ em bị xâm hai tình dục. "Một số chế tài quy định trong Nghị định xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến phịng, chống XHTD trẻ em trên nhiêu lĩnh vực cũng khơng cịn phù hợp, mức phạt khơng đảm bảo tính răn

<small>đe, phịng ngừa chung và chậm được sửa đôi, bô sung”°.</small>

<small>'8 CDC National Center for Injury Prevention and Control, Preventing child abuse and neglect: A Technical</small>

<small>Package for Policy, Norm, and Programmatic Activities, Atlanta - Georgia - USA, 2016, p. 10. truy cập ngày23/07/2020,</small>

<small>! Ngô Huy Cương, Mới số bát cập của Luật Trẻ em 2016, trang thơng tin điện tử phịng tư pháp Tam Ky,</small>

<small>Quang Nam, ngày 06/11/2018, truy cập ngày 23/07/2020, < Tre-em-nam-20 16-42 17.html>.</small>

<small>a0 Báo cáo Kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phịng, chống xâm hại trẻ em”, Đồn Giám</small>

<small>sát Quốc hội khóa XIV, ngày 19 tháng 05 năm 2020.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<small>b, Bộ luật Dân sự năm 2015</small>

Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền của trẻ em bị XHTD còn được thé hiện trong những quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe, danh dự, nhân pham, uy tín bị xâm phạm”!. Văn bản pháp lý quốc tế “Tuyên bồ về những nguyên tắc cơ bản của tư pháp đối với nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyền lực” của Liên Hợp Quốc đề xuất “quyền được bồi thường” là một trong những quyền mà nạn nhân bị XHTD cần được hưởng. Mặc dù quy định của Bộ luật Dân sự 2015 là những quy định khái quát, theo nhóm nghiên cứu, trẻ em bị XHTD có quyền yêu cầu bồi thường bởi rõ ràng sức khỏe cũng như danh dự, nhân pham của các em bị ton hại bởi hành vi XHTD trái pháp luật. Ngoài việc bồi thường chi phí hợp ly cho việc chữa trị y tế của nạn nhân, chi phí hợp ly và thu nhập thực tế bị mat của người chăm sóc nạn nhân thì Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định cả về chi phí bồi thường tốn that tinh than mà nạn nhân phải gánh chịu”. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã quy định rat chi tiết về han mức các chi phí hợp lý này. Về mức bồi thường thiệt hại do ton thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu, Nghị định 03/2006/NQ-HDTP ghi rõ nếu nạn nhân bị tôn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm thì mức bồi thường tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định tại thời điểm bôi thường”;

nếu nạn nhân bị tốn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì mức

bồi thường tối đa khơng quá 10 tháng lương tối thiêu do nhà nước quy định tại thời điểm bồi thường”? (trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được mức bồi thường tỉnh thần). Tuy nhiên Bộ luật Dân sự 2015 lại quy định mức bồi thường tốn thất tinh thần cho nạn nhân do sức khỏe bị xâm phạm là “tối đa không quá 50 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định”? trong trường hợp này áp dụng mức bồi thường do Bộ luật Dân sự 2015 đưa ra theo đúng nguyên tắc áp dụng Bộ luật Dân sự tại khoản 2 Điều 4.

Mặc dù đã có những quy định về bồi thường thiệt hại cho nạn nhân theo đúng tinh thần của chuẩn mực pháp lý quốc tế, song trên thực tế áp dụng, quy định về thông thường thiệt hại tinh thần còn nhiều vướng mắc do thiệt hại về tinh thần thiên về mặt chủ quan, trừu tượng, rất khó xác định và quy đổi thành giá trị kinh tế. Các điều 590 và 592 của Bộ luật Dân sự 2015 đã đặt ra một số mức trần về thiệt hại tinh thần trong những trường hợp có sự xâm phạm các giá trị nhân thân: xâm phạm về sức khỏe và xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Tuy nhiên, việc chỉ đưa ra mức tran sẽ dẫn đến sự ling

<small>71 Điều 590, Điều 592 Bộ luật dân sự 2015.</small>

<small>?2 Khoản 2 Điều 590, khoản 2 Điều 592 Bộ luật dan sự 2015.</small>

<small>? Khoản c tiểu mục 1.5 mục 1 phan II của Nghị quyết. 03/2006/NQ-HĐTP?4 Khoản c tiểu mục 3.3 mục 3 phan II của Nghị quyết. 03/2006/NQ-HDTP25 Khoản 2 Điều 590 Bộ luật dân sự 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

túng, không thống nhất trong q trình xét xử của Tịa án trong việc xác định mức độ thiệt hại và mức bồi thường tương xứng. Bên cạnh đó, tại tiểu mục 1.1 mục 1 phần I của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HDTP cũng cần xem xét đến các tình tiết cụ thé khác, chang hạn như mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm, mức độ giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh, thời gian chịu đựng tổn thất, mức độ đau thương, buồn phiền, mat mát về tình cảm, vv... Nhóm nghiên cứu cho rằng, những tơn thất về tinh thần của nạn nhân không thé định nghĩa theo cách liệt kê này được mà cần dựa trên những đánh giá y tế khách quan dé có thé xác định chính xác. Sau khi vụ việc XHTD trẻ em xảy ra, vai trò của các cơ sở y tế trong việc tham vấn, điều trị tâm lý cho các em là rất quan trọng; có thé sử dụng các đánh giá tâm ly này nhằm xác định nhanh mức độ tôn thương tinh thần cũng như khoản bồi thường thích hợp.

<small>c, Bộ luật Hình sự năm 2015</small>

Trong Bộ luật Hình sự 2015, rất nhiều hành vi XHTD trẻ em được hình sự hóa, và Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP được ban hành nhằm giải thích rõ hơn những hành vi quan hệ tình dục trái pháp luật đó. Một điểm đáng lưu ý là pháp luật hình sự Việt Nam có sự phân định rõ ràng về chính sách xử lý đối với các hành vi XHTD trẻ em theo nhiều mức độ, tùy thuộc vào độ tuổi nạn nhân và việc tiếp tục sửa đổi pháp luật được coi là cần thiết dé chắc chắn rang tất cả người dưới 18 tuổi đều được bảo vệ theo đúng chuẩn mực pháp lý quốc tế. Nhóm nghiên cứu sẽ phân chia các tội danh XHTD trẻ em trong Bộ luật Hình sự 2015 thành từng nhóm tội cụ thé như sau:

Thứ nhất, nhóm tội liên quan đến mại dâm trẻ em

Những tội phạm liên quan đến mại dâm trẻ em bao gồm: tội chứa mại dâm (Điều 327), tội môi giới mại dâm (Điều 328) và tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329). Nghị định thư không bắt buộc về Buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phâm khiêu dâm trẻ em, b6 sung cho Công ước Liên Hợp Quốc về quyên trẻ em năm 2000 (sau đây gọi là Nghị định thư không bắt buộc CRC) đưa ra định nghĩa mại dâm trẻ em là “việc sử dụng trẻ em trong các hoạt động tình dục dé lay tién hay đồ vật dưới bat

<small>kỳ hình thức nào”.</small>

<small>Bộ luật Hình sự 2015 khơng nêu rõ định nghĩa mại dâm trẻ em, song định nghĩa</small>

đó có thê tìm thấy trong Pháp lệnh phịng, chống mại dâm 2003: mại dâm là “hành vi mua dam, bán dâm” - tức là “hành vi giao cau của một người với một người khác dé được trả tiền hoặc lợi ich vật chất khác”. Cùng với đối tượng là người dưới 18 tuổi, có thé hiểu như sau: mại dâm trẻ em là “hành vi mua dâm, bán dâm người dưới 18 tuổi”. Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP không giải thích những điều luật thuộc nhóm tội này. Như vậy, định nghĩa chung hành vi mại dâm trẻ em của pháp luật hình sự Việt Nam về

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

nhóm tội mại dâm trẻ em cịn tản mạn, chưa được thong nhất như định nghĩa của Nghị định thư không bắt buộc CRC.

Điểm chung của những tội danh trong nhóm tội này là việc tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với những hành vi mại dâm người dưới 18 tuổi. Don cử như tội chứa mại dâm theo Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015: người nao thực hiện các hành vi tao điều kiện dé cho hoạt động mại dâm được thực hiện với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuôi sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Ngoài ra, đối với các tội danh liên quan đến mại dâm trẻ em nêu trên, bên cạnh hình phạt chính là các hình phạt bổ sung như phạt tiền, phạt quản chế hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Có thê thay những người thực hiện hành vi mại dâm với những em từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu hình phạt

<small>nghiêm khắc, có tính chat ran de cao.</small>

Nếu như Bộ luật Hình sự 2015 quy định sự trừng phạt thích đáng đối với những hành vi mại dâm trẻ em thì Nghị định 178/2014/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh phòng, chống mại dâm cung cấp biện pháp phòng ngừa hành vi mại dâm trẻ em bằng cách nghiêm cam người dưới 18 tuổi “làm những công việc tiếp xúc trực tiếp với khách hang có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thé lực, trí lực và nhân cách của ho” tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng dé hoạt động mại dâm như: nhà hàng, khách sạn, vũ trường,.... Tuy nhiên điều cắm này chưa thực sự chặt chẽ bởi chu sở hữu những co sở kinh doanh nói trên có thể sử dụng những cách thức gián tiếp khác để thực hiện hành vi mại dâm với người dưới 18 tuổi — điều khiến các cơ quan chức năng khó có thé kiểm

<small>sốt, quản lý sâu sát được.</small>

Mặc dù đã đưa ra nhiều quy định phòng, chống tội phạm mại dâm trẻ em song Bộ luật Hình sự 2015 chưa giải quyết được van đề chứa mại dâm hoặc môi giới mại dâm người đưới 13 tuổi. Theo ý kiến nhiều chuyên gia, người nào thực hiện hành vi mua dam người đưới 13 tuôi sẽ bị xử lý về tội hiếp đâm người dưới 16 tuổi — vì theo điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự 2015 thì mọi trường hop giao cau với trẻ em dưới 13 tuổi đều bị coi là phạm tội hiếp dâm trẻ em. Còn người nào thực hiện hành vi chứa chấp, môi giới mai đâm người đưới 13 ti thì sẽ bị xử lý về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên nếu pháp luật hình sự quy định cụ thể hơn về vấn đề này thì sẽ khơng cần phải dựa vào nhóm tội khác dé đưa ra hình phạt thích đáng cho những

<small>tội phạm liên quan đên mại dâm trẻ em.</small>

<small>Thứ hai, nhóm tội về tân cơng tình dục trẻ em</small>

Những tội danh thuộc nhóm tội này bao gồm: tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

145) và tội đâm ô người dưới 16 tuổi (Điều 146). Điểm mới dễ nhận thấy của Bộ luật Hình sự 2015 là việc bố sung “hành vi quan hệ tình dục khác” trong một số cầu thành tội phạm nhằm xử lý các hành vi XHTD không thông qua con đường giao cấu truyền thống.

Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), điểm b khoản 1 là điều khoản hết sức đáng lưu ý. Theo đó, đối với trẻ em dưới 13 tuổi thì mọi hành vi giao câu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tinh dục khác đối với các em đều là phạm tội hiếp dâm trẻ em, bất kế người phạm tội có dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay thủ đoạn nào khác và bat ké việc trẻ có đồng thuận với hành vi đó khơng. Với yếu tơ đồng thuận trong quan hệ tình dục, cũng tại Điều 142, việc “trái ý muốn nạn nhân” là yếu tố bắt buộc phải đặt ra khi định tội người thực hiện hành vi hiếp dâm người từ đủ 13 tudi đến dưới 16 tuổi. Tuy nhiên nhiều chuyên gia cho rằng yêu tô này đã đặt gánh nặng chứng minh lên nạn nhân hon là người phạm tội, bởi nạn nhân phải đưa ra những chứng cứ thé hiện việc quan hệ tình dục “trái ý muốn” của mình như hành động kháng cự hay đưa ra nhân chứng cho biết nạn nhân đã phản kháng như thế nào. Điều này sẽ gây ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của cơ quan chức năng trong việc tiễn hành tổ tụng sau này và khiến

<small>nhiêu nạn nhân bỏ cuộc.</small>

Tội giao cau hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tudi đến dưới 16 tudi có điểm khác biệt so với những tội danh khác ở yếu tố đồng thuận của trẻ. Dù có yêu tố đồng thuận trong quan hệ tinh duc song van đề hình phạt vẫn đặt ra với người phạm tội trong trường hợp này vì pháp luật coi những người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là những người chưa có đầy đủ nhận thức để đưa ra quyết định quan hệ tình dục ở bất kỳ hình thức nao. Tuy nhiên hành vi giao cau hoặc quan hệ tình dục khác của người từ đủ 18 tuổi trở lên với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc của người dưới 18 tuổi với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà có sự đồng thuận cùng với hành vi dâm 6 của người người từ đủ 18 tuổi trở lên với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lại không phải là tội phạm. Đây là một trong những hạn chế của Bộ luật

<small>Hình sự Việt Nam liên quan tới việc phân chia độ tuôi trẻ em như đã đê cập ở trên.</small>

Tất cả các tội danh trong nhóm tội này đều đã được Nghị quyết 06/2019/NQ-HDTP giải thích và hướng dẫn áp dụng. Day là một điểm tiến bộ lớn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc định tội, đưa ra mức phạt thích đáng cho người phạm tội và bảo vệ tốt hơn

<small>quyên lợi của trẻ em bị xâm hại tình dục.</small>

Theo Tài liệu điều tra XHTD trẻ em dành cho lực lượng cảnh sát điều tra (do European Union phối hợp cùng UNODC và Học viện Cảnh sát nhân dân), các hành vi tan cơng tình dục trẻ em nêu trên có thé được phịng ngừa sớm hơn, ngăn chặn tốt hon nếu như hình sự hóa được hành vi “dụ dỗ, gây cảm tình nhằm XHTD trẻ em”. Hành vi

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

này xảy ra khi người phạm tội có hành vi săn đón, lấy lòng trẻ, gây dựng sự tin tưởng từ trẻ nhằm mục đích cuối cùng là XHTD trẻ. Với sự phát triển của công nghệ hiện dai, những hành vi dụ dỗ, gây cảm tình thường diễn ra trên khơng gian mạng, nơi người phạm tội giả làm trẻ em hoặc người trẻ tuổi trò chuyện với các em hàng ngày. Khi đã có được niềm tin của trẻ, người phạm tội sẽ thực hiện những hành vi tan công tinh duc

<small>ngồi đời thực hoặc khai thác những hình anh khiêu dâm từ trẻ. Những hành vi nay ở</small>

Việt Nam không phải là những hành vi hiém gặp: số liệu thống kê cho thấy vào năm 2015, có hơn 1.400 người phạm tội thơng qua hình thức giao lưu trực tun với trẻ em.”° Do đó, đây cũng là một gợi ý hay mà Việt Nam cần học hỏi.

Thứ ba, nhóm tội liên quan đến khiêu dâm trẻ em

Những tội danh trong nhóm tội nay bao gồm tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) và tội truyền bá văn hóa phẩm đổi trụy (Điều 326). Cần lưu ý một điều quan trọng là pháp luật hình sự Việt Nam chưa có quy định tội khiêu dâm trẻ em riêng biệt như khuyến nghị của Nghị định thư không bắt buộc CRC.

Về tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm theo Điều 147, Nghị quyết 06/2019/NQ-HDTP đã có những hướng dan chi tiết về các hình thức trình diễn khiêu đâm có sự tham gia của người dưới 16 ti và việc trực tiếp chứng kiến trình diễn khiêu dâm của người dưới 16 tuổi dudi mọi hình thức. Tuy nhiên quy định này không bảo vệ được những người từ đủ l6 tuôi đến dưới 18 tuôi khi họ bị sử dụng vào mục đích khiêu dâm cũng như khơng đặt ra chế tài xử lý những người từ đủ 18 tuổi trở lên xem trẻ em trình diễn khiêu dâm.

Nghị định thư không bắt buộc CRC định nghĩa văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em là “bất kỳ sự trình bày nào, bằng bắt kỳ phương tiện gì, về trẻ em tham gia vào các hoạt động tình dục một cách thực sự hoặc mô phỏng, hay bat cứ sự trình bày nào về các co quan sinh dục của trẻ em, mà chủ yếu là nhằm các mục đích tình dục”. Điều 326 của Bộ luật Hình sự 2015 quy định về văn hóa phẩm đồi trụy là quy định gần nhất với định nghĩa văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em trong Nghị định thư không bắt buộc CRC, song quy định này vẫn còn rất nhiều sót. Thiếu sót của điều luật này nằm ở chỗ chưa có định nghĩa văn hóa pham đồi trụy nhằm phân biệt được văn hóa phẩm khiêu dâm có nội dung liên quan đến trẻ em với văn hóa pham khiêu dâm có nội dung liên quan đến người lớn, do đó chưa phản ánh được tính chất nghiêm trọng của tội phạm. Thực tiễn tại Việt Nam hiện nay cho thấy, có rất nhiều trường hợp phạm tội XHTD nghiêm trọng đối với trẻ em mang tính chất loạn ln hoặc có yếu tố quan hệ tình dục tập thé xảy ra do người phạm

<small>? Quỳnh Vinh, (2020), Số tré em bị xâm hại tăng đột biến, 1 ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm hại, Cơng an nhân</small>

<small>dân online, truy cập ngày 23/07/2020, < class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

tội tiếp xúc với tranh ảnh, phim truyện khiêu dâm, đồi trụy qua Internet hoặc nhiều nguồn khơng chính thức khác.

Bên cạnh đó, Luật Trẻ em 2016 quy định hành vi “Cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác; sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyền, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em” là những hành vi bị cam. Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003 nghiêm cam “Cơ quan, tô chức, cá nhân không được sản xuất, lưu hành, vận chuyền, tàng trữ, mua bán, xuất khâu, nhập khẩu, phố biến những hình anh, vật phẩm, sản phẩm, thơng tin có nội dung và hình thức đơi trụy, khiêu dâm, kích động tình dục”. Tuy vậy hai văn bản pháp luật trên cũng chưa phân biệt thế nào là văn hóa phâm khiêu dâm trẻ em và văn hóa pham khiêu dâm người lớn. Do đó, những tội danh trong nhóm tội này cần được nghiên cứu thêm dé cấu thành một tội danh chuyên biệt về khiêu dâm trẻ em trong Bộ luật Hình sự

<small>2015, đảm bảo trật tự xã hội và sự an toàn cho các em.</small>

<small>Một loại tội phạm mới hình thành trong xã hội chưa được văn bản pháp luật nàocủa Việt Nam quy định là tội phạm du lịch tình dục trẻ em. Hiện nay chưa có định nghĩa</small>

quốc tế nào thống nhất về du lịch tình dục trẻ em; loại tội phạm này có thé được hiểu là “hành vi XHTD trẻ em mang tính chất thương mại của những người đi từ đất nước của họ tới một đất nước khác để tham gia vào các hoạt động tình dục trẻ em”. Việt Nam được ghi nhận là có tham gia ký kết Hiệp định du lịch ASEAN (2002) nhằm tái khang định sự tuân thủ chung đối với Bộ luật toàn cầu về ứng xử trong du lịch của Tổ chức du lịch thế giới thuộc Liên Hợp Quốc (UNWTO) và đặc biệt cam kết thực hiện các biện pháp nghiêm khắc để ngăn chặn các hành vi lạm dụng, bóc lột liên quan đến du lịch đối

<small>với phụ nữ và trẻ em. Song trong các văn bản pháp luật trong nước có liên quan, Việt</small>

Nam khơng hề có quy định nao về tội danh này. Đây là một thiếu sót lớn vì từ khi ngành du lịch Việt Nam khởi sắc, nạn XHTD trẻ em qua con đường du lịch ngày một tăng cao. Nạn nhân chủ yếu là các em lang thang cơ nhỡ, trong đó trẻ em nam chiếm ty lệ lớn. Trẻ em nam khi bi XHTD gặp phải khó khăn trong việc tiếp cận cơng ly hơn trẻ em nữ rất nhiều bởi hệ thống pháp luật Việt Nam ưu tiên bảo vệ và chăm sóc nạn nhân nữ. Một sé quy định cua Bộ luật Hình sự 2015 cịn là rào cản cho trẻ em nam bi XHTD vi những hành vi như hiếp dâm, cưỡng dâm.... được mô tả trong phạm vi rất hẹp: nam giới là người phạm tội còn nữ giới là nạn nhân. Khơng chỉ dừng lại ở đó, tội danh này còn biến tướng theo con đường lữ hành, nghĩa là trẻ em cịn bị XHTD bởi nhiều nhóm đối tượng khác như khách công vụ, nhân viên NGO làm việc trực tiếp với trẻ em, lực lượng quân

<small>đội làm nhiệm vụ tại nước ngoài, các nhà ngoại giao và nhân viên chính phủ làm việctại nước ngồi, những người xa xứ cư ngụ tại nước ngoài,...</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Khoảng trống lớn trong việc thiết lập hệ thống du lịch và lữ hành Việt Nam đáp ứng đủ tiêu chuẩn của Bộ quy tắc ứng xử dé bảo vệ trẻ em khỏi XHTD trong ngành du lịch và lữ hành 1998 (sau đây gọi là Bộ quy tắc 1998) là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng du lịch tình dục trẻ em diễn ra tràn lan qua nhiều cách thức khác nhau. Một ví dụ điển

<small>hình là người phạm tội thường lợi dụng các cơ sở giải trí nhỏ lẻ, các đại lý lữ hành hay</small>

nhà nghỉ địa phương — những nơi ít ký kết Bộ quy tắc 1998 và thực hiện nghiêm chỉnh Bộ quy tắc này — dé thực hiện tội phạm. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, VIỆC cần thiết phải làm là bồ sung thêm các quy định về tội phạm du lịch tình duc trẻ em trong các văn bản pháp lý có liên quan tại Việt Nam nhằm phòng ngừa, ngăn chặn sớm những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trong đó, đồng thời cũng dé bảo vệ các em theo đúng chính

<small>sách của Nhà nước.</small>

d, Bộ luật TỔ tụng hình sự năm 2015

Một trong những quyền mà nạn nhân bị XHTD là trẻ em cần thiết phải được hưởng là “quyền được bảo vệ khỏi những khó khăn trong quá trình tư pháp” theo “Hướng dẫn về tư pháp đối với những van đề liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ em”? năm 2005 của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội thuộc Liên Hợp Quốc. Mục XI của văn bản pháp lý quốc tế nói trên đã liệt kê ba điều khoản hướng dẫn chỉ tiết cách thức bảo vệ trẻ em trong suốt q trình tơ tụng hình sự, bao gồm việc thiết kế phòng thầm van cũng như các câu hỏi tham van phù hợp với trẻ em; dam bao sự hiện diện cua trẻ tại Tòa án chỉ trong trường hợp thật sự cần thiết; hạn chế số lần trẻ tham gia trực tiếp các thủ tục tô tụng bang cách ghi hình trẻ dé thay thế; đảm bảo ln có người chăm sóc

<small>đi cùng trẻ; ngăn cách trẻ với người phạm tội và các quy định liên quan khác. Trên cơ</small>

sở thực hiện “quyền được bảo vệ khỏi những khó khăn trong q trình tư pháp” của trẻ em bị xâm hại tình dục, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã thiết kế Chương XXVIII “Thủ tục tô tụng đối với người đưới 18 tuổi” và Chương XXXIV “Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác”.

Các thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuôi tại Chương XXVIII đặt ra phạm vi áp dụng đối với bị hại là người dưới 18 tuổi (Điều 413) và trình bày những nguyên tắc tiễn hành tố tụng dựa trên sự thân thiện, phù hợp với lứa tuổi, tâm lý của bị hại cũng như cam kết một số quyền như quyền được giữ bí mật, quyền được trợ giúp pháp lý, quyền được trình bày ý kién,... của bị hại được đảm bảo vì lợi ich của bị hại (Điều 414).

<small>Việc tham gia tô tụng của người đại diện của người dưới 18 tuôi, của nhà trường, tô</small>

<small>27 Economic and Social Council, Guidelines on justice in matters involving child victims and witnesses of crime,</small>

<small>truy cập ngày 04/07/2020,</small>

<small>< Victims Witnesses.pdf>.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

chức nơi người dưới 18 tuôi học tập. lao động và sinh hoạt được đảm bảo tại Điều 420 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Điều 421 Bộ luật Tổ tụng hình sự 2015 ghi rõ việc lay lời khai của bị hại dưới 18 tuổi phải có sự tham dự của người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại; thời gian lấy lời khai người đưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày, mỗi lần không quá 02 giờ và chỉ được tiến hành đối chất giữa bị hại dưới 18 tuôi với bị can, bị cáo trong trường hợp khơng đối chat thì khơng giải quyết

<small>được vụ án.</small>

Văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết các điều khoản trên là Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP. Ngoài hướng dẫn áp dụng một số điều khoản liên quan đến các tội danh xâm hại tình dục, Nghị quyết còn hướng dẫn thêm việc xét xử vụ án XHTD có bị hại là người dưới 18 tuổi. Điều 7 của Nghị quyết 06/2019/NQ-HDTP trình bày thêm nhiều quy định mới, ví dụ như việc lựa chọn thâm phán có kiến thức, kinh nghiệm xét xử những vụ án XHTD liên quan đến người dưới 18 tuổi, việc xét xử vụ án phải được diễn ra tại Phòng xử án thân thiện. Bên cạnh đó, Nghị quyết quy định chi tiết một số điều kiện cần đáp ứng trong quá trình xét xử như: hạn chế triệu tập bị hại đến Tòa án, chủ yếu áp dụng các biện pháp thay thế khác như ghi âm, ghi hình có âm thanh... cịn trong trường hợp bắt buộc triệu tập thì cán bộ tư pháp phải giúp các em làm quen trước với mơi trường Tịa án; thiết kế câu hỏi phù hợp với trình độ hiểu biết, lứa tuổi của bị hại; không để bị cáo hỏi bị hại trực tiếp; không xác định bộ phận bị xâm hại của bị hại một cách trực tiếp mà thay thế bằng sơ đồ hoặc mơ hình cơ thể; vv... nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho nạn nhân bị XHTD là trẻ em, đáp ứng “quyền được bảo vệ khỏi

<small>những khó khăn trong q trình tư pháp” của các em.</small>

Chương XXXIV của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ghi nhận quyền được bảo vệ của trẻ em bị XHTD trong suốt quá trình tố tụng. Tuy nhiên, các biện pháp bảo vệ này khơng bắt buộc, bị hại có quyền làm văn bản yêu cầu, đề nghị được bảo vệ và cơ quan có thâm quyền sẽ xem xét việc bảo vệ đó là cần thiết hay khơng?Š. Căn cứ xác minh bị hại cần được áp dụng biện pháp bảo vệ dựa trên việc tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân pham của bị hại bị xâm hại hoặc bi đe dọa xâm hại do việc cung cap chứng cứ, tài liệu, thông tin liên quan đến tội phạm. Dựa trên căn cứ đó, co quan có thâm quyền sẽ tiến hành áp dụng một số các biện pháp bảo vệ như: bồ trí lực lượng canh gác, bảo vệ; hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ; giữ bí mật và yêu cầu người liên quan giữ bí mật cho người được bảo vệ; thay đổi lý lịch người được bảo vệ nếu họ đồng ý; xử lý kịp thời các hành vi xâm hại đến người được bảo vệ và các biện pháp khác liên quan theo quy định của pháp luật??. Trên co sở đó, Nghị quyết 06/2019/NQ-HDTP quy

<small>? Điều 487 Bộ luật Tế tụng hình sự 2015.29 Điều 486 Bộ luật Tế tụng hình sự 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

định tại khoản 5 Điều 7 như sau: “Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thâm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định tại Chương XXXIV của Bộ luật Tố tụng hình sự khi bi hại, người thân thích của bi hại u cầu hoặc cơ quan,

tơ chức có thâm quyền kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài

sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị hại, người thân thích của họ”.

Như vậy, nhóm nghiên cứu đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP đã có sự phù hợp nhất định với các tiêu chí bảo vệ trẻ em bị XHTD khỏi những khó khăn trong q trình tư pháp mà “Hướng dẫn về tư pháp đối với những van đề liên quan đến nạn nhân và nhân chứng của tội phạm là trẻ

<small>em” năm 2005 đã đưa ra.</small>

<small>e, Luật Trợ giúp pháp ly năm 2017</small>

Nham giúp đỡ trẻ em bị XHTD có thé tìm đến sự hỗ trợ từ phía co quan nha nước, Chính phủ ban hành Luật Trợ giúp pháp lý 2017 với nhiều quy định mới, ví dụ như quy định tất cả trẻ em đều là người được trợ giúp pháp lý, quy định bổ sung một số đối tượng so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 như: Người bị buộc tội từ đủ 16 tuôi đến dưới 18 tuổi; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có khó khăn về tài chính là bị hại trong vụ án hình sự (Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2017). Đề triển khai có hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý, cho đến nay, về cơ bản hệ thống văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý đã bao dam day đủ, đồng bộ, gồm một Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý; ba Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về các nội dung: quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý; hướng dẫn một số nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; quy định tiêu chí vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình; một Thơng tư liên ngành quy định về quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng va đã nội luật hóa các cam kết có liên quan đến hoạt động trợ giúp trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như: Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị; Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em, và các Hiệp định tương trợ tư pháp song phương và khu vực. Trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã thực hiện nhiều giải pháp khác nhau để đưa các quy định của

Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành vào cuộc sống. Cu thé, vào năm 2014, Bộ trưởng

Bộ Tư pháp đã ban hành Thơng tư số 11/2014/TT-BTP quy định về bình dang giới trong hoạt động trợ giúp pháp lý thay thế Thông tư số 07/2011/TT-BTP ngày 31/3/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn bảo đảm bình đăng giới trong tơ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý. Trong đó, quy định cụ thé rang ““Thực hiện các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ cho người

<small>được trợ giúp pháp lý là người mẹ, trẻ em gái, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bịmua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục”.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Đặc biệt, với mục đích hướng dẫn khoản 9 Điều 8 Thông tư liên tịch SỐ 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT), Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tịa án nhân dân tơi cao nghiên cứu xây dựng cơ chế người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án và dự kiến áp dụng điểm tại một số địa phương nhằm bảo đảm đối tượng thuộc diện trợ giúp pháp lý bao gồm các đối tượng đặc thù như: trẻ em, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến đưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo.... được giải thích đầy đủ về quyền được trợ giúp pháp lý, được tiếp cận, cung cấp và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời, tránh việc phải đi lại xa xơi, nhiều lần, giảm thiểu tối đa việc bỏ sót đối tượng; tăng cường công tác phối hợp giữa Trung tâm

<small>trợ giúp pháp lý nhà nước với Tòa án nhân dân trong việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt trong</small>

việc thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý9.

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu nhận thấy người từ đủ 16 tudi đến dưới 18 tuổi là nạn nhân bị XHTD mà khơng có khó khăn về tài chính lại khơng phải đối tượng được trợ giúp pháp lý. Điều này có phan hạn chế quyền của nhóm người từ đủ 16 tuôi đến dưới 18 tuổi bị XHTD theo yêu cầu của “Tuyên ngôn về những nguyên tắc công ly cơ bản cho các nạn nhân của tội phạm và sự lạm dụng quyền lực” năm 1985?! rằng “các nạn nhân nên được thơng báo về sự sẵn có của các dịch vụ xã hội và sức khỏe, các trợ giúp thích hợp khác và sẵn sang cho họ được tiếp cận dé dàng”. Khơng chỉ có vậy, những quy định đó cũng chưa đáp ứng được việc Nguyên tắc 11 trong văn bản “Các nguyên tắc và hướng dẫn về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong các hệ thống tư pháp hình sự của Liên Hợp Quốc” địi hỏi trợ giúp pháp lý vì lợi ích tốt nhất của trẻ, theo đó yêu cầu việc trợ giúp pháp lý ở các quốc gia cần được ưu tiên cho trẻ và phải dễ tiếp cận, phù hợp với lứa tuôi, có tính đa ngành, hiệu quả, đồng thời đáp ứng được nhu cầu pháp lý, nhu cầu xã hội của trẻ em — nhất là trẻ em có nguy cơ tơn thương cao như trẻ em bị xâm hại tình dục. Xuất phát từ định nghĩa “trẻ em là người dưới 16 tuổi” của Luật Trẻ em 2016 và chính sách của nhà nước về trẻ em mà đối tượng thuộc nhóm tuổi này chưa có nhiều quy định hỗ trợ khi bị xâm hại tình dục.

f, Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014

Trong tiến trình cải cách tư pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 đã có nhiều điểm đổi mới, trong đó sự thay đổi quan trọng nhất là việc bổ sung Tòa gia đình và người

<small>chưa thành niên vào ba câp tịa là Tòa án nhân dân câp cao, Tòa án nhân dân câp tỉnh và</small>

<small>30 Trần Nguyên Tú, “Tre giúp pháp lý cho trẻ em bị xâm hại, thực trạng và kiến nghị, trang thông tin điện tử</small>

<small>Trợ giúp pháp lý Việt Nam”, ngày 13/01/2020.</small>

<small>31 Đại hội đồng Liên hợp quốc (1985), “Declaration of Basic Principles of Justice for Victims of Crime and</small>

<small>Abuse of Power” < class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 30, Điều 38, Điều 45 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 2014). Thơng tư số 01/2017/TT-TANDTC, Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLDTBXH là ba văn bản đưới luật hướng dẫn chi tiết về Phòng xử án thân thiện, về các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên và việc phối hợp giữa các co quan có thẩm quyên trong hoạt động tố tụng hình sự có người dưới 18 tuổi tham gia.

Về mơ hình Phịng xử án thân thiện, Điều 6 Thông tư 01/2017/TT-TANDTC đã quy định khá chi tiết về hình thức và trang thiết bị dé giảm bớt căng thang của trẻ em bị XHTD khi tới phiên xét xử. Phịng xử án thân thiện được bồ trí thuộc thâm qun của Tịa gia đình và người chưa thành niên, vị trí ngồi của những người tham gia tơ tụng được sắp xếp theo hình thức bàn trịn và người dưới 18 tuổi được bố trí ngồi cạnh người đại điện hoặc người bảo vệ quyên, lợi ich hợp pháp của họ. Việc bổ sung thêm quy định về Phòng xử án thân thiện đối với trẻ em bị XHTD trong luật phù hợp với yêu cầu của Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em: “Trong tat cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù do các co quan phúc lợi xã hội công cộng hay tư nhân, tòa án, các nhà chức trách hành chính hay các cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em

<small>phải là mơi quan tâm hang đâu””.</small>

Về việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia là người đưới 18 tuổi thuộc thâm qun của Tịa gia đình và người chưa thành niên, Thơng tư 02/2018/TT-TANDTC đã có hướng dẫn chỉ tiết và đã được cụ thê hóa hơn trong Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP về việc phân công thẩm phán, việc tham gia của người chăm sóc trẻ và việc tiếp xúc giữa bị hại với bi cáo. Những vụ án XHTD người dưới 18 tuổi cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Thơng tư, song nhóm nghiên cứu nhận thấy khơng phải vụ án XHTD người dưới 18 tuổi nào cũng thuộc thâm quyền xét xử của Tịa gia đình và người chưa thành niên. Với mục đích bảo vệ nhóm người yếu thế, Thông tư quy định rõ chỉ những “vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc vụ án hình sự có người bị hại là người dưới 18 tuôi bi ton thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, hoc tập do khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác” tại khoản 1 Điều 1 là những vụ án thuộc thâm quyền của Tịa gia đình và người chưa thành niên. Thơng tư cũng giải thích “bị hại là người dưới 18 tuổi bị ton thương nghiêm trong về tâm lý” là “người luôn ở trong trạng thái hoảng loạn, sợ hãi, suy nhược về tinh thần và thê chất, rỗi loạn tâm thần và hành vi do tác động bởi hành vi phạm tội gây ra” và “bị hại là người dưới 18 tudi cần sự hỗ trợ về điêu kiện sống, học tập do khơng có mơi

<small>3ˆ Khoản 1 Điều 3 Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em 1989, truy cập ngày 26/07/2020,</small>

<small>< class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác” là “người có hồn cảnh khơng bình thường (như: m6 côi, cha mẹ ly hôn, hay bi bạo hành, có cha mẹ nghiện rượu, ma túy, vi phạm pháp luật...) dẫn đến bị thiếu thốn về vật chất, tinh thần, khơng có nơi ở, bỏ học hoặc không được đi học như những người dưới 18 tuôi khác”.

Theo nhóm nghiên cứu, khơng phải chứng tơn thương tâm lý do hành vi phạm tội gây ra cho trẻ em nào cũng có biểu hiện giống như miêu tả trên của Thơng tư. Ví du như chứng rối loạn stress sau sang chan (post traumatic stress disorder — PTSD) rất phổ biến ở trẻ em bị xâm hại tình dục, với những biểu hiện như tái diễn trải nghiệm sau sang chan, tránh né sự kiện gợi nhớ đến sang chan, thay đôi về niềm tin, cảm xúc và có các triệu chứng bồn chén, tăng cảnh giác. Một điều đáng lưu ý là tại Việt Nam hiện nay chưa có các xét nghiệm đặc hiệu dé chân đốn PTSD ở trẻ?3. Nhu vậy, chứng PTSD ở trẻ dé bị nhằm lẫn với các biêu hiện của lo âu, căng thang khác ở người bình thường, va nếu khơng phù hợp với miêu tả của Thông tư về “tổn thương tâm lý nghiêm trong” thì trẻ có khả năng sẽ trải qua q trình tố tụng ở Tịa án hình sự. Trên cơ sở nguyên tắc thực hiện những lợi ích tốt nhất cho trẻ em — nhất là trẻ em bị XHTD — nhóm nghiên cứu cho răng quy định này cần sửa đổi: thay thế những miêu tả trên bằng những chứng cứ xác thực về y học, về giám định tâm thần đối với trẻ em sau khi bị xâm hại tình dục. Cịn về quy định “bị hại là người đưới 18 tuổi khơng có mơi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác”, nhóm nghiên cứu nhận thấy đây là quy định nhân

<small>văn, giúp đỡ được các em có hồn cảnh u thê trong q trình tiêp cận cơng lý.</small>

Tựu chung lại, hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em khỏi XHTD của Việt Nam đã hoàn thiện bước đầu trong xây dựng khung pháp lý phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em khỏi XHTD của Việt Nam cịn chưa tồn diện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, Luật Trẻ em 2016 vẫn chưa thực sự đóng vai trị một đạo luật bảo vệ trẻ em bị xâm hai tình dục, thé hiện ở việc chưa có chế tài xử lý cụ thể cho những hành vi vi phạm. Vi dụ như tại chương IV của Luật Trẻ em 2016 có rất nhiều quy định về biện pháp bảo vệ trẻ em, về các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và các biện pháp chăm sóc thay thế nhưng lại thiếu văng các quy định xử lý các cá nhân, tơ chức có trách nhiệm bảo vệ trẻ em vi phạm pháp luật. Trẻ em bị XHTD là những cá thé chịu nhiều tổn thương sau vụ việc, nếu như xảy ra dấu hiệu vi phạm trong công tác chăm sóc, điều trị và bảo vệ các em thì các em sẽ dễ dàng trở thành nạn nhân một lần nữa, đi ngược lại với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về quyên trẻ em 1989: “Các quốc gia thành viên

<small>phải đảm bảo răng những tô chức, cơ quan, cơ sở chịu trách nhiệm chăm sóc hoặc bảo</small>

<small>33 vũ Ngọc Uy, Rồi loạn stress sau sang chấn. truy cập ngày 26/07/2020, </small>

<small>< class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<small>vệ trẻ em phải theo đúng những tiêu chuân do các nhà chức trách có thâm quyên quyđịnh, đặc biệt trong các lĩnh vực an tồn, sức khỏe, vê sơ lượng và sự phù hợp của đội</small>

<small>ngũ nhân viên các co sở đó cũng như về sự giám sát thành thạo”.</small>

Thứ hai, Bộ luật Dân sự 2015 đặt ra quy định về việc bôi thường tôn thất tinh thần cho nạn nhân chưa thật sự hợp lý. Quy định bồi thường này còn chú trọng vào đối tượng là người trưởng thành khi chủ yêu miêu tả cảm giác xấu hồ, mất uy tín trong cơng việc, ảnh hưởng đến hình ảnh xã hội,... và việc quy đổi ra giá trị kinh tế của khoản bồi thường rất khó xác định. Nhóm nghiên cứu đề xuất nên đưa thêm các chứng cứ y khoa, chứng cứ giám định tâm thần vào luật nhằm xác minh rõ hơn những ton that tinh than mà nạn nhân bị XHTD là trẻ em phải gánh chịu. Việc bồi thường ton thất tinh thần cho trẻ em bị XHTD cần được đảm bảo thực hiện kịp thời, do đó nhóm nghiên cứu cho rằng pháp luật dân sự có thể tham khảo khuyến nghị của “Tuyên ngôn về các nguyên tắc công lý cơ bản cho các nạn nhân của tội phạm và lạm dụng quyền lực” năm 1985 trong việc nhà nước cần cô gắng cung cấp những khoản bồi thường thông qua các quỹ cộng đồng khi người phạm tội không bồi thường hoặc khơng có khả năng bồi thường cho nạn

Thứ ba, pháp luật hình sự Việt Nam cịn nhiều khoảng trồng lớn trong các quy định về tội danh XHTD trẻ em. Các tội danh về mại dâm trẻ em, khiêu dâm trẻ em và du lịch tình dục trẻ em cịn thiếu sót hoặc tản mạn trong Bộ luật Hình sự 2015, chưa thống nhất theo khuyên nghị của Nghị định thư không bắt buộc CRC. Trong một số trường hợp, do sự phát triển của xã hội, tội phạm XHTD trẻ em ngày càng trở nên tinh vi, khó kiểm soát nên nảy sinh thêm nhiều thủ đoạn vi phạm mà pháp luật hình sự Việt Nam chưa dự liệu tới, ví dụ như các thủ đoạn dụ dỗ trẻ em qua Internet. Cần lưu ý là việc bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng là yêu cầu rất bức thiết nhưng pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ, dan tới hiệu quả công tác thực tiễn chưa cao?5. Ngoài ra, do quy định về độ tuôi trẻ em của pháp luật Việt Nam nên một vài hành vi không được coi là tội phạm, bởi người phạm tội thực hiện với nhóm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tudi là nhóm người chưa thành niên. Đồng thời định kiến giới tính khiến cho trẻ em nam

<small>bi XHTD thường it được chú ý hơn trẻ em nữ, đặc biệt là khi trẻ em nam bị người nữ</small> trưởng thành xâm hại, quấy rỗi tình dục. Nhóm nghiên cứu cho rằng, Bộ luật Hình sự

<small>34 Khoản 3 Điều 3 Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em 1989, truy cập ngày 26/07/2020,</small>

<small><hftfps://www.unicef.org/vietnam/v1/c%C3%B4ng-%C6%B0%EI%BB%%9Bc-li%C3%AAn-h%EI%BB%A3p-qu%E1%BB%9 1c-v%E1%BB%8 1-quy%E1%BB%8 In-tr%E1%BA%BB-em>.</small>

<small>3Š Điều 12, Điều 13 Tuyên ngôn về các nguyên tắc công lý cơ bản cho các nạn nhân của tội phạm và lạm dụng</small>

<small>quyền lực năm 1985.</small>

<small>36 Báo cáo Kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phịng, chống xâm hại trẻ em”, Đồn Giám</small>

<small>sát Quốc hội khóa XIV, ngày 19 tháng 05 năm 2020.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

2015 cần hoàn thiện hơn các quy định về tội danh XHTD trẻ em, bởi điều quan trọng là nhà nước khơng chỉ phịng ngừa tội phạm, chăm sóc, điều trị cho các em sau khi bị xâm hại tình dục, mà cịn phải nỗ lực trừng phạt, ran đe các loại tội phạm này, theo đúng tinh thần của Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989: “Nhà nước phải bảo vệ trẻ em chống lại sự lạm dụng và bóc lột tình dục. Các quốc gia phải thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp dé ngăn ngừa việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động tình dục trái pháp luật nào; sử dụng trẻ em dé bóc lột trong mại dâm hay các hoạt

<small>động tình dục, biêu diễn hay các tài liệu khiêu dâm”””.</small>

Thứ tư, trong quá trình tố tụng hình sự và trợ giúp pháp lý đối với trẻ em bị xâm hại tình dục, nhóm nghiên cứu cho rằng các quy định về độ tuổi và tinh trạng tổn thương tâm lý của nạn nhân chưa phù hợp với quy định quốc tế và thực tiễn đời sống như đã phân tích rõ ở phan trên. Ngồi ra, dù đã có quy định về quy trình, trách nhiệm, thâm quyền đánh giá nguy cơ và quản lý trường hợp trẻ em bi bạo lực, bi XHTD nhưng chưa có quy định cụ thé về trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em, thiếu quy định cụ thể đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác và phối hợp xác minh, đánh giá, điều tra về hành vi xâm hại, tình trạng mat an tồn hoặc gây tơn hại, mức độ nguy cơ gây tôn hại đối với trẻ em; chưa có quy định về thâm quyền, thủ tục tách trẻ em ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp chính cha mẹ, người chăm sóc có hành vi XHTD đối với trẻ em; thiếu hệ thống theo dõi để đảm bảo những trẻ em này không tiếp tục bị bạo lực, bị xâm hai tình duc*®.

Hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em bi XHTD tại Việt Nam, do đó, sẽ cần tham khảo và học tập nhiều hơn từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới để nhanh chóng hồn thiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ.

2.2. Thực trạng hoạt động của các cơ quan có thẩm quyển bảo vệ trẻ em khỏi xâm

<small>hại tình dục tại Việt Nam</small>

a, Các cơ quan có thẩm quyên bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại tình dục tại Việt <small>Nam</small>

<small>Hiện nay ở Việt Nam có các co quan sau chịu trách nhiệm bảo vệ trẻ em nóichung, trẻ em bi XHTD nói riêng theo Luật Trẻ em năm 2016 và Nghị định 56/2017/NĐ-CP:</small>

<small>37 Điều 34 Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989.</small>

<small>https:/www.unicef.org/vietnam/vi/c%C3%B4ng-%C6%B0%EI%BB%59Bc-li%C3%AAn-h%EI%BB%A3p-qu%E1%BB%91c-v%E1%BB%8 1-quy%E1%BB%8 1n-tr%E1%BA%BB-em, truy cập ngày 26/07/2020.</small>

<small>38 Đạo Hồng Lan (2016), Tăng cường phịng ngừa và giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, cơng</small>

<small>thơng tin Bộ Lao động — Thương bình và Xã hội, truy cập ngày 26/07/2020,< class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Thứ nhất, Cơ quan lập pháp:

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có thâm quyền quyết định mục tiêu, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dé thực hiện quyền trẻ em, giám sát việc thực hiện quyền trẻ em của các cơ quan, tô chức liên quan đến trẻ em và phân bồ ngân sách thực hiện quyền trẻ em hàng năm. Như vậy, nhóm cơ quan này có trách nhiệm thiết lập, đưa vào hoạt động và giảm sát các chính sách nhà nước về trẻ em.

<small>Trẻ em bị XHTD sẽ là một trong những nhóm trẻ em được bảo vệ theo quy định củachính sách.</small>

<small>Thứ hai, Cơ quan thuộc nhanh hành pháp:</small>

Chính phủ có thâm quyên thống nhất quan lý nha nước về trẻ em, tơ chức thực hiện chính sách, pháp luật về trẻ em, bảo đảm cơ chế phối hợp giữa các cơ quan ngang bộ, các bộ thực hiện và giải quyết các van đề về trẻ em. Đồng thời Chính phủ cũng chỉ đạo các cơ quan thuộc thâm quyền quản lý của mình thanh tra, kiểm tra, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo va xử lý những vi phạm pháp luật về trẻ em. Có thé thấy rang, Chính phủ là cơ quan có trách nhiệm thi hành và chỉ đạo các cơ quan thuộc quyền quản lý kiểm tra việc thi hành những đạo luật, chính sách bảo vệ trẻ em do cơ quan thuộc

<small>nhánh lập pháp ban hành. Việc thực thi các chính sách pháp luật bảo vệ trẻ em có mức</small>

ảnh hưởng nhất định đến nhóm trẻ em bị xâm hại tình dục, thực tiễn hóa những quy định

<small>bảo vệ các em.</small>

Các bộ thuộc Chính phủ có liên quan trong cơng tác bảo vệ trẻ em bị XHTD gồm: Bộ Lao động — Thương bình và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa — Thê thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Cơng an. Nhóm nghiên cứu sẽ trình bày lần lượt thẩm quyền của từng bộ trong hoạt động bảo vệ trẻ em bị XHTD

<small>như dưới đây:</small>

Bộ Lao động — Thương binh và Xã hội có trách nhiệm điều phối việc thực hiện quyền trẻ em và bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được Chính phủ giao hoặc ủy quyên.

<small>Cục Trẻ em thuộc Bộ Lao động — Thương binh và Xã hội có nhiệm vụ giúp đỡ Bộ trưởng</small>

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực trẻ em trong phạm vi trách nhiệm của Bộ, bao gồm các nhiệm vụ như nghiên cứu dự luật, hướng dẫn, kiểm tra các quy định pháp luật về trẻ em, phối hợp cùng Bộ quản lý các chương trình, chính sách cũng như nguồn quỹ bảo trợ trẻ em, vv...? Cục Trẻ em cùng Bộ Lao động — Thương binh và Xã

<small>Sỹ Quyết định 1126/2017/QĐÐ-BLĐTBXH quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tô chức của Cục</small>

<small>Trẻ em ngày 13 tháng 07 năm 2017, truy cập ngày 27/07/2020,</small>

<small>< 126-QD-LDTBXH-2017-chuc-nang-nhiem-vu-quyen-han-co-cau-to-chuc-Cuc-Tre-em-357353.aspx></small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

hội là hai trong số những cơ quan hàng đầu trong bảo vệ trẻ em khỏi XHTD tại nước ta

<small>hiện nay. nga</small>

Bộ Tư pháp có thâm quyền quản lý, hướng dẫn việc thực hiện trợ giúp pháp lý

<small>cho trẻ em bị XHTD và cha, mẹ, người chăm sóc các em. Bộ Tư pháp là cơ quan có</small>

trách nhiệm đảm bảo cho trẻ em bị XHTD được tiếp cận công lý, chủ yếu thông qua Luật Trợ giúp pháp lý 2017 và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật.

<small>Bộ Y tê bảo đảm trẻ em nói chung và trẻ em bị XHTD nói riêng được tiêp cận</small> dịch vụ chăm sóc sức khỏe công băng, chat lượng cũng như hướng dẫn việc chăm sóc, <small>điêu tri khác cho các em.</small>

Bộ Giáo dục và Đảo tạo có trách nhiệm tơ chức phổ biến, giáo dục kiến thức về

quyền và bồn phận của trẻ em cho học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; đồng thời t6 chức thực hiện chính sách, pháp luật và áp dụng biện pháp trợ giúp giáo dục phù

<small>hop cho trẻ em có hồn cảnh đặc biệt — trong đó có trẻ em bị xâm hại tình dục.</small>

Bộ Văn hóa, Thé thao và Du lich có nhiệm vụ phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hướng dẫn việc phát triển thiết chế văn hóa cho trẻ em. Nhóm nghiên cứu cho rằng việc phát triển thiết chế văn hóa có sự tham gia của cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội sẽ giúp loại bỏ được nhiều an phẩm có hại như ấn phâm khiêu dâm có nội dung về tinh dục người lớn hoặc về tình dục trẻ em, ngăn ngừa sớm sự phát triển lệch lạc trong nhận thức của người đọc dé giảm thiêu các hành

<small>vi XHTD trẻ em sau này.</small>

Bộ Thông tin va Truyền thơng có trách nhiệm trong việc bảo vệ thơng tin, bí mật, hình ảnh cá nhân của các em, đồng thời bảo vệ các em khỏi các hành vi XHTD trên

<small>khơng gian mạng.</small>

Bộ Cơng an có thâm quyền hướng dẫn và tô chức thực hiện các biện pháp phịng

<small>ngừa, ngăn chặn mọi hành vi bạo lực, bóc lột và XHTD trẻ em cùng với Bộ Lao động —</small>

Thương binh và Xã hội và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Bộ Cơng an cũng có trách nhiệm hướng dẫn và tơ chức thực hiện nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyên trẻ em, yêu cầu và biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, nhất là trẻ em là bị hại; đào tạo, bồi dưỡng về quyền trẻ em, về tâm lý học, khoa học giáo duc cho công an viên, cán bộ trường giáo dưỡng và Điều tra viên tiến hành tố

<small>tụng các vụ án có liên quan dén trẻ em.</small>

Ngồi Chính phủ và các bộ thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp cũng có trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý, tô chức thực hiện quyền trẻ em; bồ trí và vận

<small>động ngn lực bao đảm thực hiện quyên của trẻ em và bảo vệ trẻ em theo quy định cua</small>

</div>

×