Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Môn học cơ sở văn hóa việt nam bài kiểm tra giữa kì nhà mồ tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.18 MB, 35 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG</b>

<b>KHOA QUAN HỆ CÔNG CHÚNG & TRUYỀN THÔNG</b>

<b>MÔN HỌC: CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAMBÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>ĐIỂM VÀ NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>10Nguyễn Lê Bảo Hân 2273201080468Tìm nội dungNguyễn Lê BảHân </b>

<b>16Nguyễn Thị PhươngThanh </b>

<b>Phương Than</b>

<b>18Bùi Nguyễn NhưNgọc</b>

<b>22Nguyễn Hoàng Đăng</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN...</small>

<small>1. Địa lý, lịch sử, dân cư và bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên...</small>

<small>2.3. Quan niệm của người dân Tây Nguyên về nhà mồ...</small>

<small>Chương 3: NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN...</small>

<small>3.1. Nhà mồ của người dân Tây Nguyên...</small>

<small>3.2. Cấu trúc nhà mồ...</small>

<small>3.3. Dịp sử dụng...</small>

<small>Chương 4: TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA NHÀ MỒ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỐ VÀ TINH THẦN CỦA NGƯỜI TÂY NGUN...</small>

<small>4.1. Tính ứng dụng của nhà mồ trong đời sống của người Tây Nguyên...</small>

<small>4.2. Tác động của nhà mồ trong đời sống hiện nay...</small>

<small>4.3. Hành động của giới trẻ trong việc giữ gìn nét đẹp di sản nhà mồ...</small>

<b>PHẦN C: PHỤ LỤC...</b>

<small>1Tài liệu tham khảo...</small>

<small>2Hình ảnh tham khảo...</small>

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU</b>

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Mộ (đồng nghĩa: mồ hay mả hay còn gọi chung là mồ mả, hay cịn gọi là nơi chơn cất) là nơi người chết được chơn cất hay cịn được gọi là nơi người đã vĩnh viễn ra đi an nghỉ theo hình thức mai táng và tục lệ xây nhà mồ an táng người qua đời đã trở thành nét văn hoá đặc trưng của của nhiều dân tộc châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hoá Việt Nam, văn hoá Trung Hoa, văn hoá Triều Tiên và văn hố Đơng Nam Á. Đối với Việt Nam Nhà mồ của người dân Tây Nguyên đã trở thành mảng đặc sắc của văn hóa cổ truyền.

Đây là một nét tín ngưỡng cao đẹp về sự tồn tại của sự sống, người dân Tây Nguyên không xem cái chết là sự kết thúc của một vòng đời. Đối với người Tây Nguyên cái chết là sự trở về núi rừng, nơi con người sinh ra và tượng nhà mồ chính là một chế tác đặc biệt sinh ra từ suy nghĩ ấy. Trải qua hằng trăm năm lịch sử cho đến ngày nay nhà mồ Tây Nguyên vẫn luôn giữ cho mình một sức hút bí ẩn, ma mị mãnh liệt. Sức hút ấy không chỉ hấp dẫn ở sự đa dạng độc đáo về kĩ thuật xây dựng, điêu khắc tượng mồ mà còn là biểu dượng cho sự tổng hồ các giá trị văn hố đặc sắc của người dân xứ sở “ Cao nguyên miền Thượng”, là sự dung hoà giữa giá trị nghệ thuật và giá trị tinh thần của tộc người nơi đây nói riêng và cả đất nước Việt Nam nói chung.

Để thẩm thấu được cái chất, cái hồn văn hóa tuyệt vời ẩn chứa trong lịng Tây Ngun nhóm 6 chúng tơi quyết định chọn đề tài “Nhà mồ Tây Nguyên” để khai phá sâu hơn

về cách mà người dân Tây Nguyên có thể tạo nên nhà mồ và tượng nhà mồ? Quy trình thực hiện và giá trị văn hố cũng như giá trị tinh thần mà tập tục dựng nhà mồ của người Tây Nguyên đã mang lại trong nền văn hố Việt Nam? Nhiều nghiên cứu tìm hiểu đã chỉ ra rằng việc xây dựng nhà mồ nhằm tạo ra sự đảm bảo về tinh thần của người còn sống rằng người thân của họ sẽ được siêu thốt và sống một cuộc sống mới và quy trình thực hiện tượng vơ cùng kì cơng, tốn nhiều thời gian và sức lực.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu, phân tích và mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát nhất về nhà mồ Tây Nguyên. Từ đó giúp cho bạn đọc hiểu hơn về văn hố nước nhà Việt Nam, có định hướng và ý thức cao hơn trong việc gìn giữ nét đẹp của di sản này.

<b>PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>

- Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp: Là nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng. Tổng hợp là liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thơng lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về đối tượng. Ở phương pháp này nhóm 3 đã nghiên cứu các thơng tin liên quan đến nhà mồ Tây Nguyên thông qua sách Nhà mồ – tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc dân gian Tây Nguyên của tác giả Ngô Văn Doanh.

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Là phương pháp nghiên cứu chủ yếu thu thập thông tin qua các tài liệu hay văn bản. Trong phương pháp này, chủ thể nghiên cứu tham khảo, tìm kiếm thơng tin ở bài viết được nhóm 3 tìm và thu thập chủ yếu ở hai đầu báo Giáo Dục Thời Đại và Người Đưa Tin.

- Phương pháp quan sát: Là phương pháp trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các giác quan để quan sát đối với các đối tượng trong tự nhiên và xã hội. Ở phương pháp này nhóm 3 đã quan sát thơng qua hình ảnh được đăng tải trên Google.

- Phương pháp lịch sử: Là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của các sự kiện lịch sử, phong trào cách mạng theo một trình tự liên tục, trong mối liên hệ tác động lẫn nhau của chúng. Trong phương pháp lịch sử nhóm 3 đã

8

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

tìm hiểu được quá trình hình thành của Tây Nguyên theo năm tháng và được thể hiện ở chương 1.

- Phương pháp tham khảo: Trong quá trình nghiên cứu khoa học, viết luận án, bài báo hay một quyển sách, các tác giả thường tham khảo và sử dụng các tài liệu để trích dẫn vào cơng trình nghiên cứu, các tài liệu được tác giả trích dẫn gọi là tài liệu tham khảo.

<b>PHẦN B: NỘI DUNG</b>

<b>Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT VÀCON NGƯỜI TÂY NGUYÊN</b>

<b>1. Địa lý, lịch sử, dân cư và bản sắc văn hoá các dân tộc Tây Nguyên </b>

<b>1.1. Địa lý: Tây Nguyên là một khu vực địa lý nằm ở Trung Bộ Việt Nam, bao gồm 5</b>

tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí từ Bắc xuống Nam gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nơng và Lâm Đồng với diện tích khoảng 54.7 nghìn km² chiếm 16,8% diện tích cả nước. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đơng giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú n, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia). Khu vực này có địa hình đồi núi cao với nhiều cao nguyên rộng lớn như Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuộc và Đà Lạt. Tuy nhiên Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà bao gồm các cao nguyên liền kề: cao nguyên Kon Tum, cao nguyên Măng Đen(Kon Plông), cao nguyên Kon Hà Nừng, cao nguyên Playku, cao nguyên M’Drăk, cao nguyên Mơ Nông, cao nguyên Lâm Viên.

Địa hình: Nằm về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đơng sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đơng Nam thổi vào. Địa hình chia cắt phức tạp có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm:

- Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo lên bề mặt của vùng. Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với quy mơ lớn. - Địa hình vùng núi.

- Địa hình thung lũng chiếm diện tích khơng lớn chủ yếu phát triển cây lương thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt.

Khí hậu: Tây Nguyên nằm trong vùng Nhiệt đới Xavan, khí hậu Tây Nguyên được chia làm 2 mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khơ từ tháng 11 đến tháng 4, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng nóng và khơ nhất. Mùa khơ nóng hạn, thiếu nước trầm trọng, mùa mưa nóng ẩm, tập trung 85-90% lượng mưa của cả năm. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 20 C điều hoà quanh năm biên độ nhiệt ngày và đêm<small>o</small> chênh lệch cao trên 5,5<small>o</small>C.

Tài nguyên nước: Tây Nguyên được ưu đãi khi có nguồn tài nguyên nước dồi dào, phong phú với 4 hệ thống sơng chính: Sê San, Srêpốk, sông Ba và sông Đồng Nai. Chế độ dịng chảy chịu tác động của khí hậu. Nguồn nước ngầm tương đối lớn nhưng nằm sâu, giếng khoan trên 100 mét.

Tài nguyên đất:

- Đất đai được coi là tài nguyên cơ bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nơng lâm nghiệp. Diện tích đất chủ yếu là đất đỏ bazan, tầng phong hố dày, địa hình lượn sóng nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Pleiku, Đắk Nông, Kon Tum chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều... và rừng. Đất đỏ vàng chiếm diện tích 10

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

khoảng 1,8 triệu ha, kém màu mỡ hơn đất đỏ bazan nhưng giữ ẩm tốt và tơi xốp nên thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngồi ra cịn có đất xám phân bố trên các sườn đồi thoải phía Tây Nam và trong các thung lũng, đất phù sa ven sơng, thích hợp cho trồng cây lương thực.

- Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị thoái hoá nghiêm trọng (đất bazan thoái hố tới 71,7%; diện tích đất bị thối hố nặng chiếm tới 20%).

Tài nguyên rừng:

- Tây Nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam. Rừng Tây Nguyên giàu về trữ lượng, đa dạng về chủng loại trữ lượng rừng gỗ chiếm tới 45% tổng trữ lượng rừng gỗ của cả nước. Diện tích rừng Tây Ngun là 3.015,5 nghìn ha chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước. Các cây dược liệu quý được tìm thấy ở đây như sâm bổ chỉnh, sa nhân, địa liền, thiên niên kiện, hà thủ ô trắng,... và các cây thuốc quý có thể trồng được ở đây như atisô, bạch truật, tô mộc, xuyên khung... - Hệ động vật hoang dã cũng rất phong phú có ý nghĩa kinh tế và khoa học. Có tới 32 lồi động vật q hiếm như voi, bị tót, trâu rừng, hổ, gấu, cơng, gà lơi...

Tài ngun khống sản:

- Chủng loại khống sản ít. Đáng kể nhất là quặng bôxit với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước, phân bố chủ yếu ở Đắc Nông, Gia Lai Kon Tum. Việc khai thác quặng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông và lâm nghiệp.

- Vàng có 21 điểm vàng trữ lượng khoảng 8,82 tấn phân bố ở Kon Tum, Gia Lai. Ngồi ra cịn các loại đá quý, các mỏ sét gạch ngói phân bố ở Chưsê - Gia Lai và Bản Đôn - Đắc Lắc, than bùn và than nâu phân bố ở Biển Hồ, làng Bua, làng Vệ - Gia Lai, Chư Đăng - Đắc Lắc.

<b>1.2. Lịch sử: Vùng đất Tây Nguyên được hình thành từ khoảng 40-50 triệu năm khi</b>

các núi lửa nổ ra và tạo ra các đá bazan kiềm giải phóng nơi đây. Vùng đất Tây Nguyên được coi là vùng đất bí ẩn của Việt Nam do được bao phủ bởi các rừng nhiệt đới, thác nước và những dãy núi đá vôi. Người dân bản địa trên vùng đất này gồm các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, Ba Na và Xơ Đăng. Và theo quá trình hình thành Tây Nguyên được chia làm 3 giai đoạn:

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>Giai đoạn 1: Thời nguyên thủy đến trước thế kỷ 19</b>

Vùng đất Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số săn đầu người, chưa phát triển thành một quốc gia hồn chỉnh, chỉ có những quốc gia mang tính chất sơ khai của người Êđê, Giarai, Mạ,...

Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Đồ Bàn, bắt sống vua Champa là Trà Toàn, sáp nhập 3 phần 5 lãnh thổ Champa thời đó vào Đại Việt. Hai phần Champa cịn lại, được Lê Thánh Tơng chia thành các tiểu quốc nhỏ thuần phục Đại Việt. Phần đất Phan Lung (tức Phan Rang ngày nay) do viên tướng Chăm là Bồ Trì trấn giữ, được vua Lê coi là phần kế thừa của vương quốc Chiêm Thành. Một phần đất nay là tỉnh Phú Yên, Lê Thánh Tông phong cho Hoa Anh vương tạo nên nước Nam Hoa. Vùng đất phía Tây núi Thạch Bi, tức miền bắc Tây Nguyên ngày nay được lập thành nước Nam Bàn, vua nước này được phong là Nam Bàn vương.

Sau khi Chúa Nguyễn Hoàng xây dựng vùng cát cứ phía Nam, các Chúa Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của người Việt. Tuy nhiên, các bộ tộc ở đây vẫn còn manh mún và mục tiêu của các chúa Nguyễn nhắm trước đến các vùng đồng bằng, nên chỉ thiết lập quyền lực rất lỏng lẻo ở đây. Trong một số tài liệu vào thế kỷ 16, thế kỷ 17 đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Đá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Đá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay.

Tuy sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời Nhà Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789) Tây Sơn thượng đạo, vùng đất phía Tây đèo An Khê là một căn cứ chuẩn bị lực lượng cho quân Tây Sơn thuở ban đầu. Người lãnh đạo việc hậu cần này của quân Tây Sơn là người vợ dân tộc Ba Na của Nguyễn Nhạc.

<b>Giai đoạn 2: Thời Nhà Nguyễn</b>

12

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Sang đến triều Nhà Nguyễn, quy chế bảo hộ trên danh nghĩa dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, mặc dù vua Minh Mạng có đưa phần lãnh thổ Tây Nguyên vào bản đồ Việt Nam (Đại Nam nhất thống toàn đồ – 1834). Người Việt vẫn chủ yếu khai thác miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ).

Trong cuốn Đại Việt địa dư tồn biên, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có viết: Thủy Xá, Hoả Xá ở ngoài cõi Nam Bàn nước Chiêm Thành. Bấy giờ trong Thượng đạo tỉnh Phú An có núi Bà Nam rất cao. Thủy Xá ở phía Đơng núi ấy,... Hỏa Xá ở phía Tây núi ấy, phía Tây tiếp giáp với xứ Sơn Bốc sở nam nước Chân Lạp, phía Nam thì là Lạc man (những tộc người du cư). Phía trên là sơng Đại Giang, phía dưới là sông Ba Giang làm giới hạn bờ cõi hai nước ấy...

Năm 1863 vua Tự Đức lập đơn vị sơn phịng để củng cố và bình định vùng sơn cước của ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Tuy mục đính chính là quân sự nhưng cơ sở sơn phòng sau biến thành mạch giao thương giữa miền xuôi và miền núi qua trung gian các thuộc lái trong khi quan lại kiểm soát việc thu thuế. Việc nhũng nhiễu của lái buôn và lạm thu của giới quan liêu khiến người Thượng vì bị bức bách, đã tràn xuống miền xuôi cướp phá nhiều đợt. Quan quân phải truy đuổi đánh dẹp. Hệ thống sơn phòng tồn tại sang thời Pháp thuộc đến năm 1905 thì Chính quyền Bảo hộ ra lệnh bãi bỏ và người Pháp trực tiếp cai trị vùng Cao nguyên.

<b>Giai đoạn 3: Thời Pháp thuộc </b>

Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.

Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ơng thành lập Vương quốc Sedang có Quốc kỳ và phát hành giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua xưng là Marie đệ Nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu vận động xin viện trợ từ các cường quốc Tây phương, chính phủ Pháp đã đưa cơng sứ Quy Nhơn F. Guiomar (1889 -1890) lên tiếp thu. Mayréna trên đường trở lại Đơng Dương khi q cảnh Singapore thì

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

bị nhà chức trách giữ lại. Chính phủ Pháp cũng ra lệnh cấm Mayréna nhập cảnh. Mayréna mất khơng lâu sau đó ở Mã Lai. Vùng Tây Ngun kể từ năm 1889 được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn và vương quốc Sedang cũng bị giải tán. Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra Cao nguyên Lang Biang. Ơng đã đề nghị với Chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm sốt của Triều đình Huế. Vì vậy, ngày 16 tháng 10 năm 1898, Khâm sứ Trung Kỳ là Léon Jules Pol Boulloche (1898 - 1900) đề nghị Cơ mật Viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung Kỳ. Năm 1898, khi vương quốc Sedang bị giải tán thì ngay năm sau (tức 1899), thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ ngày 16 Tháng 10 trao cho họ Tây Nguyên để họ có tồn quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây. Triều đình Huế chỉ giữ việc bổ nhiệm một viên quan Quản đạo có tính cách tượng trưng. Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sáp Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát, bắt đầu sự can thiệp trực tiếp trên cao nguyên. Trong quá khứ, Tây Nguyên là khu vực không được khai thác nhiều đến khi Pháp thực hiện chiến dịch khai thác khoáng sản. Với hợp đồng khai thác cao su, các nhà khai thác đã tiến hành xây dựng hệ thống đường sắt và các cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam thống nhất, Tây Nguyên đã phát triển mạnh mẽ hơn với ngành công nghiệp kinh doanh cà phê, cao su và chăn nuôi gia súc.(. Theo Wikipedia )

<b>1.3. Dân cư: Tây Nguyên có 4,4 triệu dân ( 2002 ), trong đó đồng bào dân tộc ít người</b>

chiếm khoảng 30% ( Gia Rai, Ê Đê, Ba Na ). Là vùng thưa dân nhất nước ta (81 người/km<small>2</small> năm 2002). Dân tộc Kinh phân bố chủ yếu ở các đô thị, ven đường giao thông các nông trường, lâm trường. Đời sống dân cư cịn nhiều khó khăn và đang được cải thiện đáng kể.

<b>Chương 2: GIỚI THIỆU VỀ NHÀ MỒ TÂY NGUYÊN</b>

14

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>2.1. Hiện tượng nhà mồ</b>

Hiện tượng nhà mồ Tây Nguyên cũng giống như các khu vực khác trong văn hóa dân gian Việt Nam, có những truyền thuyết và nghi lễ riêng. Nhà mồ là một kiểu kiến trúc đặc trưng của người Tây Nguyên được xây dựng bằng những thanh gỗ vng nhọn được đóng cọc sâu vào đất, sau đó được nối với nhau bằng những sợi dây tơi hoặc dây nứa được sử dụng để chôn cất các thành viên trong gia đình đã mất cùng với đồ vật cá nhân. Theo sử sách, nhà mồ của người Tây Nguyên là một loại kiến trúc cổ đại của nền văn minh Sa Huỳnh và đầu đồng hóa của người Ê Đê thường được xây ở nơi cao và rộng, được trang trí mỹ nghệ và chứa đựng nhiều dụng cụ hỗ trợ cho việc tế tự và thờ cúng. Đây là một phần của văn hoá vật thể của người dân tộc thiểu số địa phương tại khu vực Tây Nguyên của Việt Nam.

<b>2.2. Nguồn gốc của nhà mồ</b>

Tục chơn cất người chết được hình thành trong sự phát triển của loài người. Thuở sơ khai con người chưa có hành vi chơn cất người chết. Dần dần về sau, con người dần có những hành vi để chôn cất người chết từ đơn giản đến phức tạp. Những ngơi mộ sơ khai nhất được tìm thấy vào thời xã hội ngun thuỷ, sau đó những ngơi mộ được tìm thấy ở thời đồ đá. Từ đó tục lệ chôn cất người chết ra đời và nhà mồ Tây Nguyên cũng không ngoại lệ.

Nhà mồ Tây Nguyên là một loại kiến trúc truyền thống của người đồng bào Tây Nguyên tại Việt Nam. Về nguồn gốc, theo các nhà nghiên cứu, nhà mồ Tây Nguyên có xuất xứ từ vùng Đài Loan (Đài Loan được gọi là Formosa, nghĩa là "đảo đẹp" trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

tiếng Bồ Đào Nha). Đến thế kỷ 16-17, người đồng bào nhà mồ đã di chuyển từ Đài Loan sang các vùng đất khác nhau trên Tây Nguyên và xây dựng các nhà mồ theo phong cách và kiến trúc tương tự như nhà mồ Formosa nhưng có sự biến tấu thay đổi phù hợp với nền văn hố phương Đơng Việt Nam.

Tại Việt Nam, nhà mồ được tìm thấy ở hầu hết các khu vực Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk…trong đó nổi bật nhất là nhà mồ của người Gia Rai và Ba Na.

<b>2.3. Quan niệm của người dân Tây Nguyên về nhà mồ</b>

Người Tây Nguyên quan niệm, họ sinh ra từ rừng nên khi chết đi sẽ về với rừng, rừng sẽ bao bọc lấy linh hồn, thân thể của người đã khuất. Chính vì vậy quan tài được khoét rỗng từ một thân cây, sau đó cho thi hài vào bên trong với ngụ ý thần rừng đang che chở và bao bọc lấy thân thể người đã khuất. Chính vì thế khi trong gia đình có người thân mất đi thì việc chuẩn bị mồ mả là rất quan trọng. Tuỳ theo tình trạng qua đời mà người dân thiểu số nơi đây sẽ có cách chuẩn bị ma chay khác nhau, hình thức cũng có phần thay đổi.

Người Tây Nguyên có hai quan niệm về cái chết. Theo đó, đối với người chết trẻ, chết ngồi đường, xó chợ, ngã cây... gọi là cái chết bất đắc kỳ tử. Với những trường hợp này, thi hài người chết không được đưa vào nhà mà để bên ngồi, sau đó đưa ra nghĩa địa để chơn.

Đối với những người do già chết đi, người Tây Nguyên gọi đó là cái chết bình thường, thi hài được để trong nhà, sau đó đưa ra nghĩa địa để chôn cất. Bên trên những ngôi nhà mộ này được trang trí những tượng gỗ điêu khắc vơ cùng nghệ thuật.

<small>Nhà mồ Đài LoanNhà mồ dân tộc Cơ Tu</small>

16

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<b>Chương 3: NÉT KIẾN TRÚC ĐỘC ĐÁO CỦA NHÀ MỒTÂY NGUYÊN</b>

<b>3.1. Nhà mồ của người dân Tây Nguyên </b>

Nhà mồ nhìn chung là có cùng kết cấu và hình dáng kiến trúc với nhà ở, đây là một dạng kiến trúc nhà mồ độc nhất vô nhị mà ta khó có thể kiếm được ở nơi đâu khác ở vùng cao nguyên Nam Trung Bộ này. Nhà mồ ở Tây nguyên thường được xây tập thể và đặt tại phía Tây của những cánh rừng bạt ngàn, nơi vắng vẻ, n lặng hồ mình sâu vào lịng thiên nhiên vì người dân Tây Ngun cho rằng phía Tây là nơi tập trung của ma quỷ và những điều kì bí khó lý giải chính vì thế mà hầu hết các ngơi mộ hay các nghĩa trang ở đây đều được đặt ở hướng Tây những khu rừng cách xa nơi sinh sống của dân làng.

<b>3.2. Cấu trúc nhà mồ</b>

Như bất kì mọi tác phẩm nghệ thuật kiến trúc khác, ở nhà mồ Tây Nguyên để tạo nên giá trị nghệ thuật và giá trị tín ngưỡng tâm linh thì kiến trúc của nhà mồ đã góp phần khơng nhỏ. Xét về mặt cấu trúc, nhà mồ Tây Nguyên bao giờ cũng gồm ba bộ phận chính: lối hàng rào gồm các cột tượng và cột trang trí bao quanh bên ngồi, ngơi nhà ở trong và phần trang trí phía trên nóc nhà (hoặc là hàng chạm khắc hoặc là cột trang trí). Bố cục của 3 bộ phận đó là bố cục hướng tâm và tỷ lệ chiều cao của các bộ phận

</div>

×