Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Phân tích số phận bi kịch của vũ nương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.88 KB, 82 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b><small>Phân tích số phận bi kịch của Vũ Nương – Chuyện người con gái Nam Xương...2</small></b>

<b><small>Phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu...6</small></b>

<b><small>Phân tích Đồn thuyền đánh cá – Huy Cận...11</small></b>

<b><small>Phân tích bài thơ Bếp lửa – Bằng Việt...18</small></b>

<b><small>Phân tích bài thơ Ánh trăng – Nguyễn Duy...25</small></b>

<b><small>Phân tích nhân vật ơng Hai trong tác phẩm Làng – Kim Lân...30</small></b>

<b><small>Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên – Lặng lẽ Sa Pa...36</small></b>

<b><small>Phân tích nhân vật bé Thu trong tác phẩm Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng...41</small></b>

<b><small>PHÂN TÍCH NHÂN VẬT ƠNG SÁU – CHIẾC LƯỢC NGÀ...45</small></b>

<b><small>Phân tích Mùa xuân nhỏ nhỏ – Thanh Hải...49</small></b>

<b><small>Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác...55</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Phân tích số phận bi kịch của Vũ Nương –Chuyện người con gái Nam Xương</b>

<b>I. Mở bài:</b>

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” ( “Truyện Kiều” – Nguyễn Du )

Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có “quốc sắc thiên hương” đến đâu, có phẩm hạnh hồn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng ngòi bút mang cái “hồn” của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc mn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương.

<b>II. Thân bài:</b>

“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kì Mạn Lục”.Từ một sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ, nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng ” Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi . Mong manh như sương như khói , ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn ” ( Đồng Thị Sáo ).

Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo ni nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn “. Khi mẹ chồng vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lịng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”, sự cô đơn, lẽ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trơng đến thổn thức. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay “mây che kín núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can, nỗi buồn “khơng thể nào ngăn được”. Quả là lấy cảnh mà lột tả đươc cái tình của con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm “Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm :

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắc khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Cịn Vũ Nương, nàng nương tựa vào Trương Sinh cũng vì cái thú vui “nghi gia nghi thất” . Đây là một cuộc hơn nhân khơng chứa chan ái tình và cũng chẳng có âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vơ hình mang tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.

Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen tng che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đốn, bất cơng và tàn bạo, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính cịn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình. Cịn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sơng nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu cịn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”. Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lịng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình xuống sơng Hồng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo dạt mây trơi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đốn là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.

Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngịi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.

Ở chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng “bất tử” nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhống xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ Nương trên sơng Hồng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Cịn việc Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đơi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>III. Kết bài:</b>

Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương” , ta không khỏi thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vơ tri vơ giác đã đẩy đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa tang thương.Tác phẩm khơng kể lại chuyện đời một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung hịa giữa tự sự và trữ tình kết hợp với những yếu tố kì ảo hoang đường. Đây là cách thức kể chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn thân vào các tình tiết.“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tơi đầy bất cơng. Truyện cịn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Trang truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước những phận đời “hồng nhan đa truân”, quẫn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu</b>

<b>I. Mở bài:</b>

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã chứng kiến bao kì tích của những người nơng dân. Họ đã làm nên lịch sử từ đôi bàn tay cày cuốc, đôi bàn chân lấm lem bùn lầy. Họ là những chàng “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Đã có biết bao tiếng hát, lời thơ ca ngợi những anh hùng “chân đất” ấy. Là một chiến sĩ, đồng thời cũng là một nghệ sĩ, với bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã góp một bản hùng ca hoà vào bản đàn chung về những người lính anh dũng của một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng.

<b>II. Thân bài:</b>

Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngơn từ hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

Bằng ngịi bút tài hoa của mình Chính Hữu cùng với câu thơ tự do, thủ thỉ đầy tâm tình, ơng dẫn người đọc từ từ vào cơ sở hình thành nên tình đồng chí : “Q hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Với cấu trúc song song cùng thành ngữ “nước mặn đồng chua“ chính là nơi anh ra đi, cịn với tôi là nơi “đất cày lên sỏi đá”. Tác giả đã giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi với anh đều là những người nghèo khổ, đều là những người “mới hơm qua cịn tì tay lên cán cuốc” mà hom nay đây, vì đất nước thân u, vì phải chóng lại bọn giặc xâm lược mà tơi với anh đã khốc lên mình màu áo xanh của chiến sĩ. Chính thi nhân đã làm nên sự mộc mạc, giản dị mà hết sức đáng u và cũng chính là cơ sở hình thành nên tình đồng chí sau này.

Họ đều ở những nơi khác nhau, nhưng Chính Hữu đã nhắc đến họ với một hình dáng thân quen, gần gũi với nhau :

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Họ là những người ra đi từ những vùng miền khác nhau, chẳng biết gì đến nhau nhưng cùng chung một chữ “nghèo” và chung một lý tưởng cách mạng. Chính lịng yêu nước đã để họ gặp nhau, để cùng thắp lên ngọn lửa quyết tâm chống giặc ngoại xâm, điều đó đã từng được nhà thơ Hồng Nguyên nhắc đến trong bài thơ “Nhớ” của chính mình :

“Lũ chúng tơi bọn người tứ xứ Gặp nhau hịi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến ”

Cũng chính từ đó mà chúng ta hiểu rõ hơn về cơ sở hình thành của tình đồng chí, tác giả tiếp tục khắc họa hình ảnh người lính như sau :

“Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Tác giả đã điệp lại từ “súng ” và “đầu” đến hai lần, có thể thấy với cách vận dụng biện pháp nghệ thuật như vậy, Chính Hữu đã tạo một âm hưởng có phần khỏe khoắn, vui tươi, cổ vũ người lính đang đấu tranh trong lúc “mưa bom lửa đạn”. “Súng” là một cách nói hàm súc, đó là một vật mang ý nghĩa chiến đấu, một biểu tượng mang tâm hồn của người lính sống và đấu tranh hết lịng. Cịn “đầu” hình ảnh thể hiện ý chí và tinh thần bất khuất của người lính tiền tuyến hậu phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy ác liệt. Không những chỉ phải đấu tranh gian khổ, họ phải cam chịu thêm những thiên tai nơi rừng núi hoang sơ. Đêm rét không đủ ăn, không đủ ấm nhưng họ vẫn chia sẻ cho nhau những gì mình có. Độ lạnh bên ngồi khơng làm vụt tắt đi “ngọn lửa” trong lịng của người lính. Họ chia ngọt sẻ bùi cũng đủ sưởi ấm cho nhau cho những gì người lính cảm nhận được. Chính vì cùng nhau vượt qua những cái khó khăn, gian khổ ấy mà họ đã trở thành “đơi tri kỷ”. Một tình bạn tốt đẹp, thân mật, gắn chặt bền bỉ, họ xem nhau như bản thân của họ, cứ thế mà chia sẻ

Đã là đôi tri kỉ phải hiểu nhau thông cảm cho nhau , chia sẻ ngọt bùi cho nhau . Phải là người bạn chí cốt bên nhau . Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân , cùng chung lí tưởng chiến đấu . Câu thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể , giản dị mà hết sức gợi cảm .

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Lời thơ như gấp gáp hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn, như một bản lề khép lại :

“Đồng chí!”

Chỉ với hai tiếng ngắn ngủi nhưng âm điệu mới mẻ đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lịng người đọc. Trong mn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như sâu lắng hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.

Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thơng, thấu hiểu nỗi lịng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình u Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hốn dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng ln nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính ln hướng về q hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run người vầng trán ướt mồ hơi Áo anh rách vai

Quần tơi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đơi đối xứng “anh – tơi”, “áo anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí ln kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình u thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.”

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính khơng thể nào qn. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của tồn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hịa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.

<b>III. Kết bài:</b>

Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngơn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đơi, ngịi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí. Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca khơng qn trong lịng bạn đọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>Phân tích Đồn thuyền đánh cá – Huy Cận</b>

<b>I. Mở bài:</b>

Huy Cân là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng kể từ sau cách mạng tháng Tám, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có nhiều chuyển biến. Thơ ơng khơng cịn ưu sầu, ảo não nữa mà chan chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới. Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến khơng khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui cùng mừng vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp.

<b>II. Thân bài:</b>

Ngay mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đồn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong buổi hồng hơn thật huy hồng, tráng lệ, đầy sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hịn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Biện pháp so sánh độc đáo gợi lên hình ảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn sâu vào lòng biển cả để lại trên mặt biển những tia sáng đỏ ối, báo hiệu một ngày mới đã trơi qua, hồng hơn bắt đầu bng xuống. Sang đến câu 2, hình ảnh thơ càng trở nên mới lạ độc đáo, thể hiện một trí tưởng tượng vơ cùng phong phú của nhà thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Trong cách cảm nhận của Huy Cận, vũ trụ giống như một ngôi nhà lớn, cịn những con sóng lăn tăn trên mặt biển chính là cái then cài khố chặt cánh cửa của màn đêm. Câu thơ gợi cho ta cảm giác vũ trụ như đang chìm trong trạng thái nghỉ ngơi, và bóng tối bắt đầu bao trùm lên thiên nhiên cảnh vật nhưng đó lại chính là lúc:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Đêm tối vạn vật chìm trong giấc ngủ. Đó cũng là lúc con người lại bắt đầu lao động, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Hình ảnh thơ nói lên sự cần cù nhiệt tình lao động, chịu thương chịu khó của những người dân vùng biển.

Công việc đánh cá nhọc nhằn vất vả, hiểm nguy nhưng đoàn thuyền lại ra khơi trong tiếng hát. Tiếng hát khoẻ khoắn vang vọng khắp cả một vùng sông nước bao la, rộng lớn và cả trong lòng người thể hiện một niềm vui tươi, phấn khởi, đầy lạc quan tin tưởng của người đánh cá lúc ra khơi. Và chính tiếng hát đó khơng chỉ làm cho cơng việc lao động đỡ nhọc nhằn vất vả mà nó cịn tạo nên một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn cùng với gió biển đưa con thuyền lao nhanh về phía trước. Cả đồn thuyền ra khơi trong một khí thế vơ cùng mạnh mẽ đầy tin tưởng trong cuộc hành trình chinh phục biển cả.

“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đồn thoi Đêm ngày dệt biển mn luồn sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”!

Những câu thơ thể hiện trực tiếp khúc ca say mê của người đánh cá. Họ mong muốn trời yên biển lặng để đánh cá được nhiều, để cuộc sống được đủ đầy no ấm. Biện pháp so sánh “Cá thu biển Đông như đồn thoi” cho ta cảm nhận biển Đơng bao la rộng lớn, trù phú, chất chứa trong mình biết bao nhiêu là cá. Nhìn từng đàn cá thu bơi lội thành từng đàn, những con cá với những chiếc vẩy bạc nối tiếp nhau di chuyển trong nước tạo thành những luồng sáng lấp lánh trên mặt biển tối đen, nhà thơ cảm nhận mặt biển như biến thành khung cửi khổng lồ còn những con cá kia chẳng khác nào những chiếc thoi đưa thoăn thoát đang ngày đêm âm thầm dệt nên tấm áo choàng rực rỡ cho vũ trụ về đêm.

Cách so sánh vô cùng độc đáo, sự xuất hiện của những đoàn cá thu như làm sáng bừng lên cả một không gian biển cả bao la rộng lớn làm cho cảnh vật ngời sáng, lung linh, lấp lánh. Ánh sáng ấy gieo vào long người một niềm vui mừng, hân hoan khôn xiết cho nên cái cách mà người nông dân gọi cá “Đến dệt lưới ta đồn cá ơi” nghe có gì đó thân thương, trìu mến ẩn chứa trong đó một niềm khát khao, ước vọng mong muốn đánh bắt thật nhiều cá, hải sản quý hiếm để góp phần làm giàu cho quê hương, cho tổ quốc thân yêu. Cảnh đoàn thuyền đánh bắt cá trong đêm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng, Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách nói vơ cùng sáng tạo, mới lạ độc đáo đem đến cho câu thơ những hình ảnh vừa lãng mạn, bay bổng vừa nên thơ, kì vĩ, tráng lệ. Đọc câu thơ người ta cảm nhận người, thuyền, thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt đi giữa lớp mây cao, biển bằng thật hùng dũng hiên ngang nó ra khơi khơng phải chỉ với khí thế hăm hở do người cầm lái mà còn được thiên nhiên nâng đỡ chở che.

Ở đây gió trở thành bánh lái của con thuyền. Chính con thuyền có thể lái cả gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm tuy nhỏ bẻ nhưng có thể mang theo cả vầng trăng trên cao trong suốt cả một hành trình dài. Ánh trăng lung linh bang bạc chiếu sáng cả không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ, huyền ảo. Ở đây ta nhận ra con thuyền tuy ra khơi giữa không gian biển cả bao la rộng lớn mà không hề nhỏ bé. Nó “lướt” đi vun vút như một con tuấn mã băng băng tiến về phía trước mà khơng hề sợ hãi. Xung quanh nó là gió trăng làm bầu bạn. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng dũng biết bao. Con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, cảnh vật:

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Hai câu thơ gợi lên những cuộc đánh bắt cá xa bờ đầy những gian khổ hiểm nguy. Nhưng khơng vì thế khiến lịng người nao núng. Bởi họ mang trong mình nỗi khát khao chinh phục biển cả, thám hiểm, thăm dò “bụng biển” để tìm kiếm những luồng cá lớn.

Dưới ngịi bút miêu tả tài hoa, sáng tạo, lãng mạn của Huy Cận, cuộc đánh bắt cá của ngư dân trên biển bỗng trở thành những cuộc thuỷ chiến đầy gay go, quyết liệt. Con người dùng chính trí tuệ và sức mạnh của mình để chinh phục đại dương, biển cả. Thế trận con người bày ra bằng những tấm lưới chắc chắn đan vào nhau, bủa vây sẵn sàng chờ đón cá. Vừng bước, từng bước con người dành lấy từ bàn tay vĩ đại của thiên nhiên những nguồn khoáng sản, những gì q giá nhất để góp phần làm giàu thêm quê hương đất nước, hàn gắn những vết thương của chiến tranh.

“Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.

Biện pháp liệt kê: “cá nhụ, cá chim cùng cá đé / Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi lên sự trù phú, giàu có của biển cả nước ta. Có biết bao lồi tơm cá, hải sản quý hiếm mà đâu phải nơi mênh mông làm rực sáng cả một biển trời. Những con cá tung tăng bơi lội, đùa giỡn, tắm mình dưới ánh sáng của vầng trăng và những chiếc đi nhỏ bé của nó như đang quẫy đạp vào ánh trăng vàng đang lung linh trong mặt nước.

Một cảnh tượng thiên nhiên thật thơ mộng, ánh trăng bàng bạc chiếu sáng khắp cả không gian lung linh, huyền ảo. Ta ngồi đây mà nghe xung quanh mình những nhịp thở đều đặn màn đêm của đại dương bao la rộng lớn: Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Đêm thở, lại một cách dùng từ rất sáng tạo, độc đáo của nhà thơ Huy Cận. Ngịi bút nhân hố của ơng đã khiến cho màn đêm trở thành một sinh vật khổng lồ, có sự sống như con người. Nhịp thở của màn đêm chính là âm thanh của những cơn sóng tràn bờ đều đặn, liên tục, khơng ngừng nghỉ. Đó khơng chỉ là tiếng sóng, là những âm vang từ ngoại cảnh mà đó cịn là những âm vang, những rung động, cảm xúc trong lịng người, thấy mình với vũ trụ khơng cịn ngăn cách. Mỗi bước đi sự chuyển mình của thiên nhiên, trời đất, vũ trụ con người dường như đều cảm nhận được một cách kì diệu, tinh tế. Câu thơ khơng chỉ gợi lên âm thanh mà tràn đầy hình ảnh, những vì sao lung linh toả sáng như từng bước từng bước xơ đẩy con sóng vào bờ, mặt biển lấp lánh ánh trăng sao êm đềm, sáng trong, dịu mát.

Sang khổ thơ thứ 5, con người – chủ thể của bức tranh thiên nhiên nên thơ tươi đẹp được miêu tả trong tư thế lao động miệt mài, thoải mái khoan thai với những lời ca câu hát vút cao, trong trẻo:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lịng mẹ Ni lớn đời ta tự thuở nào”.

Tiếng hát lại một lần nữa vút cao bay bổng, sảng khoái ung dung. Ánh trăng lung linh in xuống dịng nước rồi theo những cơn sóng lăn tăn đánh nhẹ vào mạn thuyền hoà cùng nhịp gõ cá của ngư dân. Hiện thực cuộc sống chỉ thế nhưng qua cách cảm nhận, miêu tả của Huy Cận thì cảnh vật hiện ra bỗng trở

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nên có hồn. Ánh trăng trên cao như muốn hồ mình, gởi những tia sáng vàng óng ả để nâng đỡ giúp cho công việc đánh bắt của người dân đỡ phần nhọc nhằn vất vả.

Biển cho ta cá như lịng mẹ: câu thơ ví von so sánh như một lần nữa khẳng định tấm lòng bao la của biển cả như người mẹ hiền ngày đêm đem hết sự sống của mình để ni dưỡng con khôn lớn trưởng thành. Biển cả đã bao đời nay hào phóng ban tặng cho con người biết bao tài nguyên, hải sản quý hiếm để nuôi dưỡng sự sống của mỗi người chúng ta. Con người cứ ngày đêm khai thác lấy đi từ lòng đại dương biết bao nguồn lợi lớn nhưng biển cả thì giống như người mẹ hiền cứ cho đi mà không hề nuối tiếc. Câu thơ thể hiện lòng trân trọng, biết ơn sâu sắc của con người đối với thiên nhiên, bờ biển quê mình đã nuôi dưỡng đem lại cho con người cuộc sống tốt đẹp, đủ đầy no ấm.

Sau một ngày lao động nhọc nhằn vất vả, gờ đây khi sao mờ đi, bình minh ló dạng, mặt trời vươn mình khỏi mặt biển để đón chào ngày mới cũng là lúc họ khẩn trương xếp lưới, căng buồm trở về nhà:

“Sao mờ kéo lười kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đơng Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

Từ ngữ gợi tả độc đáo “kéo xoăn tay chùm cá nặng” giúp ta hình dung những thân hình vạm vỡ đang ra sức kéo mẻ lưới cuối cùng. Cá nằm trong lưới nặng đến mức những bắp tay của học nổi lên cuồn cuộn. Cá chi chít san sát nhau như một chùm quả gợi lên trong lòng người biết bao niềm vui mừng hạnh phúc khi nhìn thấy những chùm cá tươi roi rói – kết quả khả quan của một ngày lao động nhọc nhằn vất vả. Họ ra đi trong tiếng hát và trở về với một khoan thuyền đầy cá nặng.

Nhưng có lẽ đẹp nhất là hình ảnh “vẩy bạc, đi vàng l rạng đơng”. Dưới ánh sáng bình minh l lên, những con cá mắc vào lưới càng trở nên rực rỡ. Dường như ngoài bản chất nhà thơ, Huy Cận cịn mang trong mình tố chất của người hoạ sĩ. Cách phối màu “bạc, vàng” được vận dùng tài tình khéo léo, tơ đậm thêm thành quả lao động của người dân vùng biển.

Câu thơ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” với các động từ “xếp, lên, đón” và cách ngắt nhịp 2/2/3 diễn tả mọi cơng việc diễn ra theo trình tự một cách thành thạo, nhanh chóng để kịp thời trở về đất liền. Hình ảnh lưới xếp và

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

cánh buồm được căng phồng lên trong gió như khép lại một màn đêm mệt mỏi mở ra một buổi sáng đẹp trời với những phiên chợ tấp nập đơng vui: “Câu hát căng buồm với gió khơi

Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhơ màu mới

Mắt cá huy hồng mn dặm phơi”.

Đây là lần thứ 3, Huy Cận nhắc lại câu hát này. Lần đầu là tiếng hát hứng khởi lúc ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Tiếng hát lần thứ hai là tiếng hát say mê lao động: “Ta hát bài ca gọi cá vào”. Và lần cuối cùng chính là tiếng hát của niềm vui thắng lợi: “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Câu hát thay ngọn gió làm căng cánh buồm đẩy thuyền về đất liền trong một tư thế mới: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.

Tác giả đã nhân hoá và nói q hai sự vật “đồn thuyền và mặt trời” đang chạy đua cùng nhau. Trong cuộc đua không cân sức ấy, con người đã thắng. Đất liền chào đó những đứa con thắng trận trở về với khung cảnh thật đẹp đẽ kì vĩ. Vầng dương bao la toả những tia nắng ấm áp, đẹp lung linh xuống mặt biển. Và mặt trời như từ từ dưới lòng sâu biển cả đang từ từ đội nước nhô lên. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng vĩ, tràn đầy sức sống.

Mắt cá huy hoàng là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một cuộc đời mới vui tươi xán lạn đang chờ đợi con người phía trước. Dưới ánh sáng mặt trời hàng trăm đôi mắt cá li ti đầy ắp dưới khoang thuyền phản chiếu những giọt vàng chan chứa, bống chốc tất cả đều lấp lánh rạng rỡ, nhìn về đâu người ta cũng thấy những mắt cá chiếu sáng lấp lánh như hứa hẹn một cuộc sống đủ đầy no ấm.

Trước cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn. “Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm”. Nhưng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá màu sắc buồn bã bi quan đó khơng cịn mà thay vào đó là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai sức mạnh của con người, quê hương đất nước đang trên đà thay da đổi thịt, tất cả đều toát lên một cái gì đó tràn đầy sức sống, mạnh mẽ hiên ngang, con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.

Hình ảnh thơ sang tạo, độc đáo mới lạ, câu thơ giàu chất tạo hình, khơi gợi nhiều cảm xúc rụng động thẩm mĩ nơi người đọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<b>III. Kết bài:</b>

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

Tập làm chủ, tập làm người xây dựng Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>Phân tích bài thơ Bếp lửa – Bằng Việt</b>

<b>I. Mở bài:</b>

Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khí giới thanh cao mà đắc lực mà chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Văn chương trao truyền những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con người hướng đến vẻ đẹp của chân thiện mĩ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang văn câu thơ bồi đắp thêm cho ta những tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tình cảm ta chưa có. Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thế. Cũng viết về những tình cảm mn thuở của lồi người đó là tình bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước.

<b>II. Thân bài:</b>

Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ơng tốt lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trị, tình cảm gia đình và “Bếp lửa cũng không là bài thơ ngoại lệ. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang Vũ.

Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.

Trước hết là hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân u, có bà và có cả những kỉ niệm ầu ơ khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắm mưa.”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa hiện lên thật giản dị mà chân thực, ấm áp biết bao nhiêu. Trong tâm thức người đọc cũng như chính nhà thơ, hình ảnh bếp lửa như vừa thực, vừa mơ qua các từ ngữ “chờn vờn”, “ấp iu”. “Chờn vờn” là từ láy thích hợp nhất để đặc tả sự thống ẩn hiện, trở đi trở lại của bếp lửa.Từ bếp lửa ngoài đời thường đã đi vào trong trang thơ một cách rất đỗi tự nhiên. “Ấp iu” gợi lại hình ảnh người bà tần tảo đang nâng niu, dùng tay mình ủ ấm ngọn lửa để lan tỏa hơi ấm đến cháu. Hình ảnh bà lồng trong hình ảnh bếp lửa, cũng có khi tách riêng ra đứng song song nhưng chung quy lại cũng chỉ là một. Bếp lửa huyền ảo cịn bà thì lại chân thật biết bao. Từ đó đánh thức dịng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.

Như vậy, với ba câu thơ mở đầu tác phẩm, Bằng Việt đã thể hiện tình cảm nỗi nhớ da diết của mình về bếp lửa quê hương và người bà thân yêu. Có thể coi đây là khúc dạo đầu viết về nỗi nhớ. Từ đó định hướng cảm xúc cho toàn bài. Bài thơ sẽ là lời tâm tư, nỗi nhớ của người cháu về bếp lửa, về người bà và cả những kỉ niệm buồn vui khi còn bên cạnh bà.

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta ln thường trực nghĩ tới những năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ trong gâng tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy là khi lên bốn tuổi:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đén giờ sống mũi cịn cay!”

Thành ngữ “đói mịn đói mỏi” gợi tả cái đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì thế, cái đói đã khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn cũng khô héo, tiều tụy, xanh xao…tất cả đã khiến cho người đọc dâng lên một nỗi niềm xót xa khi nhớ tới nạn đói khủng khiếp đến rợn người năm Ất Dậu 1945 năm nào. Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi cịn cay”. Làn khói đã in đậm, in sâu trong tâm trí của người cháu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo, cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người cháu. Những câu thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót xa khi dịng hồi niệm tuổi thơ dâng đầy trong lòng thi sĩ khiến “sống mũi cịn cay”.

Tiếp đến là những dịng hồi niệm về tám năm rịng trong cuộc sống có chiến tranh sống bên bà:

“Tám năm rịng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà Bà hay kể những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xốy vào trong lịng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mơng và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hồi đến khơ khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xơi, heo hút (Kêu chi hồi trên những cánh đồng xa)… Tiếng chim tu hú trở thành điệp

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

khúc chủ âm của những dịng hồi niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mơng; lại vừa gieo vào lịng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà u q. “Mẹ và cha cơng tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao q của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu ln ghi lịng tạc dạ đức cơng ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thơi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình u thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.

Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh “Bố ở chiến khu, bố cịn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến cơng việc trong qn ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tụ do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lịng, được trích ngun văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quí biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy khơng chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà cịn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lịng bà ln ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà khơng chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà cịn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.

Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quí của người bà: tần tảo, giàu đức hi sinh và giàu lòng nhân ái:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ơi kì lạ và tiêng liêng – bếp lửa!”

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân, lận đận nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (4 lần) bao gồm rất nhiều nghĩa, nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa ln ấm nóng, tỏa

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả cơng việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai cịn nhóm lên cả niềm u thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thơng thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của cơng việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lịng của người cháu để cháu ln nhớ về nó và đó cũng chính là ln khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ơi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.

Khổ cuối bài thơ là lời bộc bạch chân thành của người cháu khi đã lớn khôn, trưởng thành. Dù cho khoảng cách về khơng gian, thời gian có xa xơi “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng người cháu vẫn luôn khắc khoải trong lịng nỗi nhớ khơn ngi về bà, về bếp lửa: “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa “khói lửa” của cuộc sống hiện đại với bếp lửa bình dị, đơn sơ của bà đã cho thấy sức sống bất diệt của ngọn lửa mà bà nhóm lên trong mỗi sớm chiều luôn thường trực và sống mãi trong lòng của người cháu. Ngọn lửa ấy đã trở thành kỉ niệm của tuổi thơ về bà – một người truyền lửa, truyền sự sống, tình yêu thương và niềm tin “dai dẳng” bất diệt cho thế hệ tiếp nối. Chính vì thế nhớ về bà là nhớ về bếp lửa, nhớ về cội nguồn dân tộc. Bài thơ khép lại bằng câu thỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hồi vọng xa xăm của người cháu ln đau đau, thiết tha nhớ tới tuổi thơ, nhớ tới gia đình, nhớ tới quê hương, đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<b>III. Kết bài:</b>

Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu. Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trần trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:

“Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người…”

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b>Phân tích bài thơ Ánh trăng – Nguyễn Duy</b>

<b>I. Mở bài:</b>

Trăng - hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.

<b>II. Thân bài:</b>

Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:

“Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ”

Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là những nơi chôn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể qn được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên của tác giả.Tuổi thơ như thế khơng phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc

tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong những năm tháng máu lửa.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:

“Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”

Vầng lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tơ đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sơng. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:

“Từ hồi về thành phố quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường”

Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là cịn ở lại trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói lố. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã qn đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như khơng quen khơng biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lịng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hố đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vơ tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:

“Thình lình đèn điện tắt phịng buyn -đinh tối om

vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn”

Khi đèn điện tắt, cũng là khi khơng cịn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng qn ln ở ngồi kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, khơng bao giờ ốn giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lịng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hồn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người khơng ai có thể đốn biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống n bình mà khơng có khó khăn, thử thách. Cũng như một dịng sơng, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!

“Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể như là sơng là rừng”

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dịng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lịng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sơng” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó ln lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngơn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.

Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người: “Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vơ tình ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng trịn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, trịn đầy và khơng hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng khơng nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng qn bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hố tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b>III. Kết bài:</b>

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Cịn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức q giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ khơng chỉ hay về mắt nội dung mà cịn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dịng thơ khơng viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<b>Phân tích nhân vật ơng Hai trong tác phẩmLàng – Kim Lân</b>

<b>I. Mở bài:</b>

Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn là cõi nhân sinh, mục tiêu cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người” (Chữ dùng của Hemingway). Với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiêm về những con người khác nhau. Trong tác phẩm “Làng”, nhà văn Kim Lân đã tạc nên những trang viết neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông Hai – một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước nồng nàn.

<b>II. Thân bài:</b>

Bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của Kim Lân đong đầy bóng dáng làng quê và con người Việt Nam. Truyện “Làng” được sáng tác trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp, lần đầu ra mắt bạn đọc trên “Tạp chí Văn nghệ” năm 1948. Lấy bối cảnh cuộc tản cư trong những năm đầu kháng chiến, tác phẩm xoay quanh những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ơng Hai. Ơng khơng thuộc hạng cùng đình nghèo khổ như anh Pha, chị Dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. Từ con người của làng quê, ông trở thành con người của kháng chiến, của sự nghiệp chung.

Ấn tượng đầu tiên mà ông Hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của ơng. Dường như hình ảnh ngơi làng ln thường trực trong tâm trí của lão nơng ấy để khi nói về nơi ni dưỡng mình, chốn q thân thuộc “hai con mắt ơng sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. Đặc biệt, ơng Hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ơng không cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng khơng quan tâm họ có nghe hay khơng, ơng chỉ nói để thỏa niềm tự hào, nỗi nhớ da diết của mình đối với làng. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ơng cũng thay đổi. Duy chỉ có tình u làng của ông vẫn thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.

Xa rời quê hương, sống nhờ nơi đất khách quê người, lịng ơng đau đáu nhớ q, nhớ làng.Ơng hoài niệm về những năm tháng được cùng anh em đào

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

đường, đắp ụ, xẻ hào, khn đá… Ơng Hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng.” Càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những đợt sóng lịng dồn dập, vỗ nhẹ vào trái tim ơng phát ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miên về những ngày quá khứ : “Chao ôi, ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là tình u xóm làng chân thành, bất diệt. Tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt dào và tha thiết. Vì nhớ, vì u nên ơng Hai vẫn thường xun vào phịng thơng tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. Dọc đường đi, gặp ai quen ơng lão cũng níu lại, cười cười, ơng vui cả với cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.Ơng phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến.Ruột gan ông lão như múa cả lên vì nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của làng. Quả đúng như Raxun Gamzatov từng nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người”.

Trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được, ông Hai gặp gỡ những người dưới xuôi lên và nghe được cái tin làng Chợ Dầu theo giặc từ một người đàn bà tản cư. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi ,tưởng như đến không thở được”. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét mặt và cử chỉ. Ông lão bàng hồng và sững sờ vơ cùng, dường như có một bàn tay vơ hình đang bóp nghẹt trái tim ông. Lúc đầu ông không thể tiếp nhận được, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng đời đàm tiếu, giọng ông như lạc hẳn: “Liệu có thật khơng hở bác. Hay là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng làng ơng “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ. Là người làng Chợ Dầu, ơng đâu cịn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ơng vội vàng ra về cùng câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cái cớ ơng bám lấy để rời khỏi đây :”Hà, nắng gớm, về nào”. Mảnh độc thoại ấy sao mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy thực tại tàn nhẫn, khơng muốn ai phát hiện ra mình là người làng Chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thơng tin ơng hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Bởi cõi lòng ông Hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ơ nhục và tủi thân.

Mang trong mình cả một khoảng trời giơng bão, cả một mối tơ lịng hỗn độn, ơng Hai lê từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng cịn tâm sức để làm gì cả. Nhìn lũ trẻ mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xơ đẩy, giằng xé trong đầu ơng :”Chúng nó

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã khắc họa thành cơng nỗi lịng của ơng lão nơng dân ấy. Ơng Hai xót thương cho số phận của chính mình và đám trẻ non nớt mới mấy tuổi đầu. Bởi gia đình ơng là người làng Chợ Dầu nên đè nặng trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là bản án mang tên “cái giống Việt gian bán nước”. Ông Hai căm phẫn lũ tội đồ phản nước theo giặc. Tất cả như dồn nén trong từng con chữ đanh thép :”Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Ông kiểm điểm lại từng người anh em đã cùng nhau đồng cam cộng khổ thuở trước, từng người con của làng Chợ Dầu. Trong trí óc của ơng, họ đều là những người sung sức, tràn đầy tinh thần yêu nước nồng nàn. Giờ phút ấy, ông Hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn đại hồng thủy dữ dội. “Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng khơng sai rồi. Khơng có lửa làm sao có khói ? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì ?”. Những dịng suy nghĩ đó cứ ồ ạt kéo đến đâm vào trái tim ông, phủ phàn dập tắt ngọn lửa niềm tin. Ông Hai bất lực chấp nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bị vùi dập tả tơi. Ơng đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng mà ơng cịn đau cho những người đồng hương cùng cảnh ngộ:”Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này chưa?”. Nỗi bứt rứt trong tâm can của ông bị dồn nén quá nhiều nên sinh gắt gõng khi nói chuyện với bà Hải. Ơng Hai khơng muốn nghe ai nhắc đến chuyện tồi tệ đó, khơng muốn ai sát muối vào vết thương trong lịng ơng. Bủa vây ơng là nỗi lo trăm bề “trằn trọc đến không ngủ được”, là tiếng thở dài bất lực làm sao. Nỗi lo ấy hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác khiến “chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được” hay “trống ngực ông lão đập thình thịch”. Như một điều tất lẽ dĩ ngẫu, dân ta từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn bọn Việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ơng đi, dồn gia đình ơng vào thế cùng cưc, tuyệt đường đất sinh nhai.

Từ khi nghe tin làng theo giặc, ơng Hai như người mất hồn. Ơng ăn khơng ngon, ngủ khơng n. Ơng cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến ngồi”. Ơng rất sợ ai đó nhắc đến những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhơng… Ơng né tránh tất cả những gì liên quan đến cái tin dữ dội kia và gọi chuyện phản bội tồi tệ đó là “chuyện ấy”. Bởi chính ơng chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế đầy phủ phàng và đau đớn. Ngẫm kĩ, đối với một lão nông dân chất phác, chân lắm

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

tay bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái tin làng theo giặc quả là một cú trời giáng chí mạng, là nỗi uất ức, nhục nhã tột cùng. Với ông Hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà cịn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lịng tự tơn, là danh dự. Ơng và cái làng ấy đã trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.

Từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ơng đi, ơng Hai thực sự rơi vào bế tắc. Chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ơng vào tình thế là phải lựa chọn: làng Chợ Dầu hay Tổ quốc ? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “Hay là quay về làng ?” để gia đình ơng có chỗ dung thân. Thuở trước, làng Chợ Dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. Nhưng giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lịng ơng đắng ngắt, đau nhói từng hồi. Mới hôm nào về làng là khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và phải dập tắt ngay cái ý nghĩ đen tối đó. Bởi làng giờ đã nối gót theo Tây, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”, là cam chịu trở về với kiếp sống lầm than, kiếp sống của những kẻ nơ lệ. Dịng máu Việt Nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi qua mọi ngõ ngách trong trái tim ơng. Tận sâu nơi cõi lịng người nơng dân ấy, ngọn lửa của tình u nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khốt :”Làng thì u thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ơng Hai đã khẳng định tình cảm rạch rịi của người nơng dân, tình u nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng liêng bao trùm lên tình cảm làng quê.

Trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ơng Hai chỉ cịn biết thả trơi nỗi lịng của mình vào những lời thủ thỉ, tâm sự với thằng con út. Chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi bày hết thảy những rợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lịng. Ơng hỏi con về làng, để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi con. Ơng muốn con ghi nhớ “Nhà ta ở làng Chợ Dầu” cũng như muốn chính mình khơng được qn Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác. Phải chăng chính ơng vẫn cịn u làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị trong trái tim ơng. Ơng hỏi con về Cụ Hồ – biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã bám chặt vào mạch huyết. Đồng thời, ông cũng muốn truyền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao đẹp, thiêng liêng, nhân bản nhất của con người: Tình yêu làng và yêu nước.Cuộc đối thoại giữa hai bố con chỉ xoay quanh chuyện làng và chuyện nước. Ơng nói với con, nhưng thực chất là lời từ vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lịng trong sạch của mình, mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ơng. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Ông Hai đã ngời sáng với những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân, nét đẹp chung hịa giữa tình u làng và lịng yêu nước.

Bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng đến tuyệt vọng, từ hãnh diện tự hào đến khổ đau tủi nhục, đêm đen đã qua, nhường chỗ cho những rạng đơng phía cuối chân trời. Cái tin làng cải chính đã đến với ơng Hai. Ơng như được hồi sinh một lần nữa, rủ sạch được hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ơng trở lại với “thói quen” cũ của mình, lật đật đi khoe khoang khắp nơi rằng :”Tây nó đốt nhà tơi rồi ơng chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính…cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo ! Láo hết, chẳng có gì sất. Tồn là sai sự mục đích cả”. Sách “Bình giảng văn học 9″ có viết :” Có lẽ chưa có ai trên đời lại đi khoe cái sự “Tây nó đốt nhà tơi rồi. Đốt nhẵn ” một cách hả hê sung sướng thật sự như ông “. Đối với người nông dân, ngôi nhà là tài sản lớn lao, là biết bao tháng ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao hồi ức vui buồn. Vậy vì cớ gì mà ông Hai lại lấy làm vui mừng trước sự mất mát của ngôi nhà ? Bởi quân Tây đốt nhà ông nghĩa là làng ông không hề theo giặc mà vẫn một lòng yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Ơng đã có thể thoát khỏi cái danh “người làng Việt gian”, được sống như một người yêu nước,lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình. Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp tình hợp lý, đó chính là sự sắc sảo, độc đáo của ngịi bút miêu tả tâm lý nhân vật. Ông Hai cịn dự định ni lợn ăn mừng, niềm vui sướng tưởng như vỡ òa, như những thanh âm vang vọng cả phần kết truyện. Khơng khó để nhận ra với những người nông dân thật thà, chất phác, họ thà hi sinh thửa ruộng, mảnh vườn hay gian nhà chứ nhất định không để cho danh dự và tự tơn của mình, của làng và của Tổ quốc bị vấy bẩn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b>III. Kết bài:</b>

Với thứ hương thơm tỏa ra từ đoá hoa mang tên “Nghệ thuật” của thiên truyện, với ánh chiếu của ngòi bút đa tài, Kim Lân đã khiến người đọc phải nguyện ý thả hồn vào trang viết, phải dùng trái tim để cảm nhận nét đẹp của từng con chữ. Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm “Làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. Bên cạnh đó, việc miêu tả chân thực, cụ thể nét mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng góp phần xây dựng thành công chân dung nhân vật ông Hai. Kim Lân đã thật tài tình khi sử dụng hàng loại câu cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật độc thoại nội tâm như xé đôi lòng người để đặc tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự nơm nớp lo sợ, nỗi đau xót, xấu hổ, nhục nhã. Ngơn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày, giản dị, chân chất của người nông dân Bắc Bộ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<b>Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên –Lặng lẽ Sa Pa</b>

<b>I. Mở bài:</b>

Mạch nước âm ỉ dưới vách núi đã đổi thay qua những ngày xuân xanh đến những chiều thu buồn. Những đền đài rồi xụp đổ dưới ánh chiếu của thời gian, những tranh tượng rồi tiêu tan hoá thành bụi vàng của quá khứ. Ấy vậy mà có những tác phẩm vẫn tồn tại bền bỉ tựa dòng suối chảy mãi trong tâm hồn bao thế hệ hôm qua, hôm nay và ngày mai.Bằng Việt từng chiêm nghiệm: “Những trang sách đi suốt đời vẫn nhớ.Như những đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”. Ẩn chứa trong những tác phẩm ấy là thế giới được nhà văn phác họa một cách nhẹ nhàng mà lắng đọng, đẹp đẽ mà không khoa trương, giản dị mà chẳng kém phần tinh tế. “Lặng lẽ Sa pa” chính là một trong số đó. Nguyễn Thành Long đã dẫn lối ta đến với xứ sở của những con người lao động miệt mài mà thầm lặng. Nhân vật anh thanh niên chính là biểu tượng cho phẩm chất và con người ở miền đất ấy.

<b>II. Thân bài:</b>

Nguyễn Thành Long được đánh giá là cây bút đầy cuốn hút, chuyên viết về truyện ngắn và kí. Thước phim mang tên “Cuộc đời” của ông là những năm tháng lặng lẽ sống, lặng lẽ viết và lặng lẽ ra đi. Những tác phẩm của Nguyễn Thành Long có lối viết nhẹ nhàng, trong trẻo, thơ mộng pha chất kí, giàu chất trữ tình và đậm chất thơ. “Lặng lẽ Sa Pa” sáng tác năm 1970 trong chuyến đi thực tế Lào Cai, in trong tập “Giữa trong xanh” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy. Trong truyện, ta bắt gặp những trang đời, ta thấm nhuần vẻ đẹp của những con người lao động hăng say mà thầm lặng. Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên ngời sáng với những phẩm chất tốt đẹp.

Anh thanh niên là một chàng trai 27 tuổi, cái tuổi sôi nổi, yêu đời và khát khao được cống hiến cho đời. Anh sống và làm việc một mình ở đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết và sương rơi. Anh làm cơng tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. Công việc mỗi ngày của anh là “ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo trấn động mặt đất”. Nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu, Đó là cơng việc địi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác, kiên nhẫn và có tinh thần trách nghiệm cao. Chính hồn cảnh sống đặc biệt ấy lại là “chiếc địn bẩy” nâng tầm cho ý chí sắt đá, nghị lực phi thường của anh thanh niên được nổi bật và neo giữ mãi trong trái tim người đọc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Anh thanh niên là một người nhiệt thành, yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm cao. Anh tự nguyện chấp nhận sống trên đỉnh núi cao vời vợi, thiếu vắng thanh âm của con người và phải một mình chống chọi, vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết. Đối với cơng việc, anh u và say mê nó đến nổi khi người ta còn ái ngại cho cuộc sống ở độ cao 2600m của anh thì anh lại mơ ước được làm việc trên đỉnh Phan-xi-băng cao đến 3142m. Bởi với anh “làm khí tượng ở độ cao thế mới là lí tưởng”. Anh cịn có những chiêm nghiệm đúng đắn và sâu sắc về mối liên kết giữa công việc với con người. Với anh, công việc như một người bạn tri âm tri kỉ song hành cùng ta đi qua những nốt thăng trầm:” Khi ta làm việc, ta với cơng việc là đơi, sao gọi là một mình

được”. Anh đâu xem cơng việc của mình là những nhiệm vụ khô khan và nhạt nhẽo. Công việc với anh là lí tưởng, là nguồn vui, dẫu nó thật gian khổ, thật cơ độc nhưng “cất nó đi cháu buồn chết mất”. Chan chứa trong những câu nói ấy là biết bao tình yêu, bao nỗi niềm say mê của người thanh niên trẻ. Anh cịn tìm ra ý nghĩa của công việc thầm lặng ấy. Anh hiểu rằng cơng việc của mình gắn bó với biết bao tâm sức của những anh em đồng chí dưới kia, là mắt xích quan trọng trong sự nghiệp “phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Khi biết việc mình phát hiện được một đám mây khơ đã góp phần vào chiến thắng của khơng qn ta trên cầu Hàm Rồng, anh thấy “thật hạnh phúc” biết nhường nào. Cũng chính vì u tha thiết cơng việc nên ở anh cịn có những hành động đầy trách nhiệm. Dẫu làm việc một mình, chẳng có ai đơn đốc hay giám sát, anh vẫn luôn tự giác, nghiêm túc và tận tụy với nghề. Có là ngày hay đêm, mưa tuyết hay rét lạnh, anh thanh niên vẫn chẳng nề hà vất vả, không bỏ qua bất kỳ một giờ “ốp” nào. Anh ln cố gắng hồn thành xuất sắc cơng việc của mình với tác phong khoa học, nghiêm túc và chính xác.

Tuy được ví như “người cơ độc nhất thế gian” , tuy phải sống một mình trong điều kiện thiếu thốn trăm bề nhưng anh thanh niên không hề buông thả bản thân hay cảm thấy chán nản và buồn tẻ. Ở anh toát lên lối sống giản dị, lạc quan và yêu đời. Anh tự tạo ra âm hưởng của niềm vui trong bản hòa tấu mang tên “Cuộc sống” của anh. Anh thanh niên trồng đủ những loại hoa như “hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn”. Người ta cứ ngỡ bức họa về cuộc sống nơi đỉnh núi cao vời vợi ấy sẽ chỉ độc nhất mảng màu lạnh lẽo, xám xịt của mây trời bạt ngàn và màn sương dày đặc. Nhưng anh thanh niên đã chấm phá cho ngôi nhà nhỏ của mình bao sắc màu ấm áp và rạng ngời. Anh cịn ni gà, ni ong để làm phong phú nguồn lương thực và làm những món quà nho nhỏ gửi trao những vị khách hiếm hoi. Anh thanh niên cịn tìm đến sách như một người bạn tâm giao cùng anh chuyện trò, cùng nương tựa vào nhau để vượt qua sự vắng lặng kéo dài từ ngày này qua tháng nọ. Nhờ có sách, anh có thể tự trau dồi thêm tri thức cho bản thân và làm giàu thế giới quan của mình. Khơng chỉ sắp xếp, tổ chức cơng việc một

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

cách khoa học, chính trong gian nhà nhỏ của anh cũng toát lên vẻ gọn gàng, ngăn nắp. Anh làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách, đọc báo như một người đang sống và làm việc giữa lòng thành phố, với mọi người, chứ khơng phải riêng mình anh. Khơng gian sống của người thanh niên trẻ đã gieo vào trái tim ông hoạ sĩ bao xúc cảm trầm trồ và ngỡ ngàng. Những giọt nắng ấm nóng của tinh thần lạc quan đã sưởi ấm cõi lòng anh trong khí trời lạnh lẽo và thống đãng của thiên nhiên Sapa. Chính tình u tha thiết dành cho cuộc đời đã trở thành điểm tựa vững bền giúp anh chủ động bước tiếp về phía trước, vượt qua hết thảy những gian truân, vất vả của hoàn cảnh sống đặc biệt. Từ ấy, anh tìm được niềm vui, hạnh phúc và ý nghĩa trong những điều nhỏ nhặt. Tâm hồn anh vẫn ln gần gũi, vẫn ấm nóng, chân thành, cởi mở và hiếu khách biết chừng nào. Anh “thèm người”, “thèm nghe chuyện dưới xuôi” và khao khát được bên người, được cùng người trao nhau ánh mặt và chuyện trị cùng người. Chính vì lẽ đó, anh liền bày kế lấy những khúc thân cây chắn ngang đường để dừng lại những chiếc xe hiếm hoi. Niềm hưng phấn khi được chào đón những vị khách cứ dào dạt trong anh, toát lên qua “nét mặt rạng rỡ”. Phải chăng vì đã lâu khơng được gặp người nên anh cứ luống cuống cả lên chẳng kiềm được cảm xúc rồi cứ tất tả chạy ngược chạy xuôi. Anh gửi trao những quan tâm chân thành và chu đáo đến mọi người. Chỉ thoáng nghe qua lời kể từ bác lái xe rằng bác gái vừa ốm dậy, anh đã chủ động đi đào củ tâm thất một cách âm thầm để biếu bác dẫu chẳng có ai nhờ cậy anh làm. Đâu chỉ dừng lại ở đó, anh thanh niên cịn vơ cùng thân thiện, cởi mở với những người chỉ mới gặp lần đâu. Anh niềm nở tiếp đón bác hoạ sĩ cùng cơ kĩ sư lên thăm nhà. Bó hoa cho cô gái vào lần đầu gặp gỡ, nước chè cho ông hoạ sĩ già và làn trứng ăn dọc đường cho hai bác cháu.Anh hồ hởi và thích giao tiếp, anh nói “những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta ít nghĩ”. Anh hồn nhiên kể về công việc, về những người đồng nghiệp và cuộc sống thường nhật của anh. Với anh thanh niên, từng khoảnh khắc tít tắc trơi qua được trị chuyện với những người mà anh chỉ mới gặp thôi cũng thật quý giá biết bao. Khoảnh khắc ấy, anh thổ lộ những điều bám rễ trong lòng mà rất lâu rồi anh mới có dịp tâm sự cùng người. Bởi thế, anh cứ đếm từng giây từng phút trôi qua và lo sợ sẽ hồi phí 30 phút gặp gỡ ngắn ngủi mà q giá.

Cơng việc của anh thanh niên có vị trí quan trọng trong sự nghiệp chuyển mình của đất nước. Thế nhưng, anh lại rất khiêm tốn và thành thực cảm thấy những điều anh làm thật nhỏ bé biết bao so với người khác. Anh chỉ dành 5 phút ngắn ngủi để nói về bản thân, về công việc và cuộc sống của anh. Tác giả như muốn nhấn mạnh sự chênh lệnh về thời gian để làm nổi bật phẩm chất khiêm tốn của anh. Khi ơng hoạ sĩ muốn vẽ kí họa về anh, anh thật tình

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

bối rối, cảm thấy bản thân khơng có gì đáng để một họa sĩ ghi lại :”Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng để bác vẽ hơn”. Đó là ơng kĩ sư vườn rau ngày đêm miệt mài và kiên nhẫn để đem đến cho nhân dân xứ Bắc những củ su hào ngon ngọt và to hơn. Đó là đồng chí nghiên cứu bản đồ sét quanh năm suốt tháng bám trụ nơi cơ quan và luôn giữ vững tư thế sẵn sàng trong công việc. Anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của xứ sở Sa pa, thấm thía sự hi sinh của “những nốt nhạc trầm” trong bài ca lao động.

Trái tim của anh luôn rạo rực một ngọn lửa khát vọng, khát vọng được sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi người. Đất nước có chiến tranh, anh xin ra trận. Khơng được ra trận, anh vẫn tận tụy làm thật tốt công việc. Hạnh phúc của người con trai ấy chẳng phải là ái tình tuổi trẻ, được giàu sang hay quyền lực. Hạnh phúc với anh là được làm việc, được cống hiến cho đất nước. Hạnh phúc khi ấy đã vượt ra ngoài biên giới của nó, khơng chỉ bó hẹp trong từng cá nhân mà lan tỏa đến những người khác, có ý nghĩa với nhiều người. Phải chăng một trong số những ẩn ý của tác giả qua việc không đặt tên riêng cho nhân vật chính mà lại gọi anh là “anh thanh niên” bởi anh đại diện cho tầng lớp các bạn trẻ đang ngân vang giai điệu bất diệt của lí tưởng sống cao cả, lao động quên mình vì Tổ quốc. Dừng chân trên thi đàn văn học, ta bắt gặp những hồn thơ mang âm hưởng sâu sắc về lí tưởng sống, lịng nồng nàn yêu nước của thanh niên trẻ. Một trong số đó là thi phẩm “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:

“Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Khơng ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<b>III. Kết bài:</b>

“Lặng lẽ Sa pa” đã đạt được nhiều thành công trong phương diện nghệ thuật. Cốt truyện đơn giản khơng có những thanh âm kịch tính, hối hả. Tác phẩm như dòng suối tĩnh lặng, nhẹ nhàng chảy trôi vào đời, đi qua những ngõ ngách trong trái tim người đọc và cứ thế lắng đọng nơi sâu thẳm cõi lịng. Cách xây dựng tình huống truyện hợp lí, tự nhiên, độc đáo và đặc sắc, đó là cuộc gặp gỡ bất ngờ của những nhân vật. Trong 30 phút ngắn ngủi ấy, tác giả đã thật tài tình khi vận dụng cách kể chuyện giản dị, cách miêu tả con người và cảnh vật dưới nhiều điểm nhìn. Thành cơng nổi bật của tác phẩm là việc chung hòa giữa tự sự, bình luận và trữ tình. Với ngơn ngữ đậm chất hội hoạ, thiên truyện có dáng dấp như một bài thơ. Khiến ta ngây ngất trong chất men say trữ tình lãng mạn của một thiên nhiên nên thơ đến những con người làm việc lặng lẽ, quên mình vì Tổ quốc.

</div>

×