Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

PHÂN TÍCH 9+ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.79 KB, 26 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>I. MỞ BÀI</b>

Không biết tự bao giờ, dịng sơng đã trở thành bến đỗ tâm hồn của biết bao văn nhân, thi sĩ.

<i><b>Hoàng Cầm đã hát về sông Đuống “nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”, Văn Cao đã</b></i>

hát về sơng Lơ với một điệu hồn hùng tráng và mãnh liêt, HPNT đã hát về sông H với tất cả niềm mê say và yêu thương. Một nha văn độc đáo như Nguyễn Tuân cũng đã hát về sông Đà bằng tất cả sự tài hoa và uyên bác, để lại cho đời áng văn tuyệt bút mang tên NLĐSĐ. Với kiệt tác nghệ thuật này, NT đã đặc biệt thành công khi biến vùng sông nước ấy thành nguồn cảm hứng của nghệ thuật, khi thổi vào Sông Đà 1 tâm hồn, 1 cá tính riêng độc bạo, vừa hung bạo vừa trữ tình. Đoạn trích…là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ của Đà giang ở thương nguồn/ là bức tranh đậm chất trữ tình của ĐG. Qua đó cho thấy….

<b>II. KHÁI QUÁT</b>

<b> Trả lời phỏng vấn của báo Văn Nghệ số tết Bính Dần (1986), Nguyễn Tuân chia sẻ: “Tôi </b>

quan niệm đã viết văn phải cố viết cho hay và viết đúng cái tạng riêng của mình”. Thật vậy, ơng u nghề, u con chữ, vì thế, trên từng con chữ ông viết ra đều mang theo sự độc đáo riêng biệt, đều được bàn tay tinh xảo của người nghệ sĩ đẽo gọt tỉ mỉ, sắc sảo như một người thợ kim hồn chính hiệu. Ông trở thành một nhà văn với phong cách văn chương tài hoa uyên bác, bền bỉ dành cả cuộc đời để sáng tạo nên những tác phẩm mang tính duy mỹ và hồn thiện. Theo sát phương châm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” của mình, ơng đã đến rất nhiều miền đất, kiến tạo nên những áng văn bất hủ và chiêm nghiệm được những giá trị thiêng liêng qua từng thời kỳ lịch sử vàng son của đất nước. Vẫn cái lối chơi “ngông” vẫn “chủ nghĩa xê dịch” đó đây, nhưng ơng đã khơng cịn viết về vẻ đẹp của những kẻ “sinh lầm thế kỷ”, mà sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đã khám phá được cái đẹp trong hiện thực của cuộc sống đương thời, ấy chính là cái đẹp của con người lao động, của công cuộc chiến đấu và dựng xây cuộc sống mới. Có thể nói, thể hiện rõ nhất và thành công nhất cái khám phá vĩ đại ấy của Nguyễn Tuân chính là tùy bút “Người lái đị Sơng Đà”, in trong tập “Sơng Đà” năm 1960 - kết quả của chặng hành trình dài gần hai năm ròng rã lên miền núi rừng Tây Bắc. Nổi bật trong áng văn ấy không chỉ là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” - con người Tây Bắc, mà còn hiển hiện rõ ràng một dịng sơng Đà với những nét tính cách đối lập.

<b>III. VẺ ĐẸP HUNG BẠO CỦA SÔNG ĐÀ</b>

<i><b>1. Hung bạo của sông Đà đươc thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành</b></i>

<i><b> Nguyễn Tuân đã miêu tả vẻ đẹp của SĐ là một “cái đẹp tạo hình, có góc cạnh, nhiều khi </b></i>

<i><b>dữ dội” (Hồi Anh). Mở đầu đoạn trích là lời khẳng định dịng sơng khơng chỉ hùng vĩ bởi thác</b></i>

<i><b>đá oai hùm như người ta thường mà còn là “những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. Ấn </b></i>

tượng tác động trực tiếp đến cảm quan của người đọc là hình ảnh so sánh “vách thành”. Ta vẫn thường nhắc đến thành trì như khối kiến trúc quân sự vô cùng kiên cố mà các bậc anh minh xưa thường cho đắp như 1 cơng trình phịng ngự, 1 pháo đài bất khả xâm phạm. Chính vì thế, chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

với 2 chữ “vách thành”, tác giả như đã diển tả trọn vẹn sự sừng sũng, uy nghiêm đầy nguy hiểm của vách đá đôi bờ sông Đà. Vách đá như dựng đứng giữa trời xanh khiến cho Mặt Trời - quyền

<i><b>lực đến thế nào vẫn chỉ có thể chiếu vào 1 khoảnh khắc là lúc đúng ngọ. Ánh sáng bị triệt tiêu, </b></i>

dịng sơng chảy trong bóng tối. Vẻ đẹp này của SĐ cũng đã khiến ta liên tưởng tới vẻ đẹp của

<i><b>dịng sơng H trong trang viết của HPNT: “nó trơi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững thành quách </b></i>

<i><b>với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”. Trong sự gặp gỡ của hai</b></i>

tác giả, có thể thấy chữ “vách thành” và “thành quách” là những từ ngữ liên tưởng so sánh độc đáo nhất để tả độ cao và vẻ đẹp hùng vĩ của 2 con sông huyền thoại. Sự đồng điệu tâm hồn của 2 nhà văn đã góp phần giúp người đọc có những cảm nhận riêng về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, từ đó biết yêu thêm quê hương đất nước mình….

Dịng sơng hẹp, sâu, tối, lạnh còn được NT diễn tả một cách cụ thể qua hình ảnh so sánh

<i><b>“có vách đá chẹt lòng SĐ như một cái yết hầu”. Động từ chẹt gợi ra hình ảnh dịng sơng bị đá </b></i>

bóp nghẹt lại, độ hẹp khủng khiếp khiến người ta khơng khỏi rùng mình mà liên tưởng tới yết hầu của con thủy qi. Để rồi lịng sơng như thắt lại chật chội, nghẹt thở làm dòng chảy bị nghẽn lại, mang đến cho người đọc cảm giác bức bối ngột ngạt đến khó thở. Khơng chỉ dừng lại ở đó, những chi tiết miêu tả tưởng chừng như bâng quơ của nhà văn lại mang sức biểu đạt hiệu quả vô cùng. Chỉ với hành động đơn giản của nai hổ, cú ném nhẹ chơi đùa của con người, tác giả đã cụ thể hóa độ hẹp của vách đá một cách tài tình và thuyết phục hơn bất cứ con số chuẩn xác nào. Cứ thế, sự nguy hiểm của dịng sơng gợi ra ngày một đậm, một nơi hẹp như thế, lưu tốc dòng nước vốn nhanh giờ lại xiết hơn. Thật rùng rợn làm sao khi tưởng tượng đến cảnh con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến khơng được, lùi cũng khơng xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi…

Bởi những miêu tả ấy, người ta nói Nguyễn Tuần là nhà văn của những cảm giác mạnh và đọc văn của NT ta như được sống cùng những cảm giác ấy quả là khong sai. Điều đó càng

<i><b>được thể hiện rõ hơn khi ta đọc đến cau văn “Ngồi trong khoang đò quãng ấy đang mùa hè </b></i>

<i><b>mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mười mấy vừa tắt phụt đèn điện”. Mùa hè đặc trưng </b></i>

nơi TB tưởng chừng nóng ẩm và rực rỡ những tia nắng ban trưa, vậy mà cũng khơng thể soi rọi xuống dưới lịng sông kia, không thể vượt qua những vách thành cao vút để khiến Đà giang trở nên ấm áp. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác, mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ và táo bạo. Ấn tương phi lí của xúc giác đã được hiên ra “đang mùa hè cũng thấy lạnh”. Đang giữa mùa hè mà văn nhân lại có camr nhận như trong mùa băng giá. Phải chăng đó khơng phải là cái lạnh da thịt do thời tiết mà là cái lạnh ở trong lịng, rợn tóc gáy, sởn gai ốc do SĐ mang tới. Tuy nhiên Nguyễn Tuân đâu giống người thường, nguy hiểm mà vẫn dặm tô cho kì được thêm cảm giác hãi hùng về độ cao rợn ngợp của vách đá sông Đà, qua từ ngữ không xác định “nào, mấy”, qua độ hẹp của hè phố và sự phụt tắt bất thình lình của đèn điện làm thót tim người quan sát khi đi vào khúc sông tăm tối này. Chỉ mới ở thượng nguồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Đà giang, vách thành cổ xưa cao vút cùng độ cao, độ hẹp, độ sâu nghẹt thở đã đem lại một cảm giác choáng ngợp, cuốn hút độc giả và nhà văn đi sâu vào việc khám phá dịng sơng kì vĩ và bí ẩn ấy. Cuộn mình trong trang tùy bút tài hoa của người nghệ sĩ, ta như đi lạc vào thế giới hoang sơ kì bí, 1 thế giới mở ra những suy nghĩ mới mẻ và những cảm giác đối lập về 1 Đà giang hung bạo của đại ngàn

<i><b>2. Sự hung bạo qua mặt ghềnh Hát Lóong</b></i>

Với một nhà văn tài hoa, uyên bác, vốn tri thức sâu rộng như NT, bấy nhiêu đó thơi chưa đủ để ta cảm nhận hết những gì ơng viết về SĐ - 1 dịng sơng với tính khí thất thường, làm mình làm mẩy. Bởi vậy, ơng tiếp tuc đưa chúng ta vào hành trình khám phá con sơng này với

<i><b>vẻ đẹp hung bạo dữ dằn của “dài hàng cây số, nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn </b></i>

<i><b>cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ NLĐSĐ nào tóm được qua đấy”. Nước khơng cịn chảy róc rách, gió khơng cịn thổi hiền hịa, sóng cũng khơng </b></i>

vỗ về yên tả, mà tất cả đã thay đổi tính chất, trở thành tay sai của thủy quái SĐ với sức tàn phá

<i><b>ngày đêm không ngừng nghỉ. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ </b></i>

<i><b>gió” như mơ phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, </b></i>

vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh. Một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bằng điêp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến tạo nhịp điêu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn. Sóng, gió, đá như phối hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người. SĐ hiên lên như một kẻ bất chấp tất cả, có thể lấy đi tính mạng của bất cứ ai

<i><b>vơ tình đi qua đây “lúc nào cũng địi nợ xt bất cứ người lái đị nào tóm được qua quãng </b></i>

<i><b>ấy”. Ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên một mối đe doa thực sự đối với bất kì </b></i>

<i><b>người lái đị nào “qng này khinh suất tay lái”. Sự phối kết thanh điệu với những thanh trắc </b></i>

liên hồi, từ sóng, đá, nước, gió cạnh nhau gợi lên cảm giác về một hình ảnh, âm thanh vô cùng dữ dội của thiên nhiên TB. Sự réo rắt ấy như đánh vào tai, buộc người ta phải nghe, phải xốy

<i><b>mình trong trận địa của loài thủy quái hung tợn này. Qủa thật, NT là “một định nghĩa về người</b></i>

<i><b>nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu) với kho báu ngôn từ và cách diễn đạt “khơng lặp lại </b></i>

mình với độc giả u văn”

<i><b>3. Sự hung bạo qua quãng tà Mường Vát</b></i>

Nếu ví NLĐSĐ của NT là một tảng băng trơi thì ba phần nổi chính là dáng vẻ con sơng Đà như kẻ thù số 1 hung tợn, sẵn sàng nuốt chửng NLĐ trên sông, sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai đi ngang qua qng sơng đầy cảm bẫy thì ở 7 phần chìm, NT thể hiện sự hung bạo của con sông như một thứ “thử lửa” thử thách lịng nười, thử thách ý chí, sự thơng minh của con người.

<i><b>Chính vì thế, chất hung bạo của con sơng Đà có lẽ khơng chỉ nằm ở “cảnh đá bờ sơng dựng </b></i>

<i><b>vách thành”, “những qng ghềnh Hát Lóng” mà còn là sự hung bạo của những cái hút nước</b></i>

cuồng nộ tại quãng tà Mường Vát.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b> Sự hung bạo của SĐ ở quãng tà MV đã càng được nhà văn tô đậm qua chi tiết “những cái</b></i>

<i><b>hút nước giống như giếng bê tông thả xuống chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy đang quay lừ lừ như cánh quạđàn”. Dưới ngịi bút của NT, những con sóng ngầm dưới lịng sơng Đà đã hiên ra có hình hài </b></i>

và có cả những âm thanh. Đó là hình của cái giếng bê tơng xốy tít đáy, là âm thanh của cái cửa cống cái bị sặc. Biện pháp nhân hóa “nước thở và kêu” cùng với các từ láy tượng hình “lừ lừ”, tượng thanh “ặc ặc” đã góp phần hình tượng hóa hút nước giống như 1 con qi vật đang trong cơn giận dữ, sẵn sàng gieo chết chóc cho con người. Đứng trước sức hút ngơn từ ở NT, không chỉ độc giả, đồng nghiệp văn chương mà chính cả những nhà phê bình nhiêu khi cũng thấy bất lực khi phát hiện ra vốn từ của mình sao ngh èo nàn, chẳng thể nghĩ tới sự miểu tả lạ lùng, kì thú ấy, cũng chẳng biết dùng chữ nghĩ nào để bình về độ chính xác và tinh tế của ngịi bút NT. Người ta chỉ biết gật đầu mà bảo nhau rằng: SĐ quả thực là một con quái vật đang trong 1 cơn cuồng nộ đầy ghê sợ

<small> Sự nguy hiểm của hút nước khiến không chiếc thuyền nào dám men gần đến, thuyền </small> nào cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông y như là ô tô sang số nhận ga cho nhanh để vút qua 1 quãng đường mượn cạp ra ngồi bờ vực. Nhà văn cịn phát huy trí tưởng tượng khi hình

<i><b>dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị lôi tuột xuống cái đáy nước khiến cho thuyền </b></i>

<i><b>trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sông đến mươi phútsau mới thấy xan tác ở khuỷnh sông dưới. Chỉ trong một câu văn mà ta đã thấy 1 loạt các </b></i>

động từ “lơi”, “hút”, “chồng”, “dìm”, “đi ngầm” khiến cho SĐ hiên lên như một tên khổng lồ Poelimen trong sử thi Odixe của người Hy Lạp. Tên khổng lồ ấy như sẵn sàng suốt chửn tất cả, nó chỉ chờ có con thuyền nào đi ngang qua là nuốt chửng cho hả cơn giân dữ. Cũng đã từng có một dịng sơng từng cuốn đi nhiều thứ như thế trong tác phẩm “Thời xa vắng” của Lê Lựu.

<i><b>Dịng sơng về mùa lũ khiến dân làng từng thiết hại nhiều “nước sông đã ăn lên lem lém nuốt </b></i>

<i><b>chửng cả cánh bãi xanh non mênh mông lúa lốc và vừng”, tự nhiên bất ngờ ập tới khi người </b></i>

<i><b>ta còn “bừa bộn ngổn ngang”. Thế nhưng khi mùa lụt qua đi, mọi thứ lại trở về bình thường. </b></i>

Sơng lũ trong “Thời xa vắng” vì vậy phần nào vẫn mang vẻ hiền hịa của sơng q chứ khơng ranh mãnh như sông Đà. Con thủy quái ấy đặt những cái bẫy chết người mà chỉ cần người lái đò lơ là tay chèo, lập tức sẽ bị hút xuống. Nó tàn nhẫn chẳng chịu buông tha cho bất cứ thứ gì qua đó.

Nhắc đến Nguyễn Tn, người ta thường nhớ ngay đến chữ “ngơng” đi kèm. Trong Vang bóng 1 thời hay những thiên tùy bút sau CM, nhà văn vẫn luôn giữ được một chút rất ngông, rất độc đáo vơ song của riêng mình. Đó là khi đứng trước sức mạnh hủy diệt của cái hút nước, ông liên tưởng ngay đến việc đặt vào lòng nó một anh quay phim liều lĩnh muốn truyền cảm giác la cho khán giả đã dũng cảm ngồi vào chiếc thuyền thúng thả mình vào hút nước rồi hất ngược ống quay từ đáy hút lên đến vách thành dể ghi lại những thước phim sống động mà rùng rợn. Trong ánh nhìn của nhà văn, “anh quay phim” sẵn sàng vì để “truyền cảm giác lạ cho khán giả” mà không ngai hiểm nguy, sẵn sàng “ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành” - một loại thuyền bé tẹo, đan bằng tre trát sơn đen, “mỏng manh như vỏ hạt dẻ” sẵn sàng xô ngã bất cứ người nào

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

phớt lờ và hời hợt khi ngồi lên. Vậy mà anh quay phim - không phải 1 ngư phủ hay 1 dân cư vùng sông nước lành nghề nào lại dũng cảm trên chiếc thuyền tròng trành như buổi trời đất còn

<i><b>hỗn mang. Khoảnh khắc người quay phim ấy “cho cả thuyền cả mình máy quay xuống đáy </b></i>

<i><b>hút SĐ” là 1 khoảnh khắc kì diệu, 1 khoảnh khắc hi sinh vì nghệ thuật, dám đương đàu, dám </b></i>

khám phá, dám dấn thân. Thật đáng khâm phục biết bao!

Những thước phim của anh mang cảm giác chân thực đến từng chi tiết, từ hình khối của thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve 1 áng thủy tinh đúc dày cho đến cảm giác sợ hãi như có một khối pha lê xanh sắp vỡ tan, sẽ đổ ụp vào người bất cứ lúc nào. Cái màu xanh ve trong trẻo của pha lê ấy đáng ra phải là của thứ gì đẹp đẽ lắm, thanh khiết lắm, vậy mà lại là của những hút nước nguy hiểm chết người đang sắp vỡ tan ụp vào đầu anh quay phim táo bạo kia. Từng thước phim mạnh mẽ ghi lại một quá trình vượt quãng sơng đủ để người xem phải chống

<i><b>ngợp, phải hồi hộp “như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào 1 cốc pha lê nước không </b></i>

<i><b>lổ”. NT không chỉ sử dụng một loạt những hình ảnh so sánh, liên tưởng đầy thú vị, tài hoa mà </b></i>

còn lồng ghép những câu văn dài, tạo nhịp văn nhanh tưởng như quãng sông này không bao giờ kết thúc. Thủy quái SĐ đã hoàn toàn chứng minh được sức mạnh ghê rợn của nó, thứ sức mạnh ln phơ trương với thiên hạ, luôn nhăm nhe nuốt chửng bất cứ con thuyền sống nào vượt qua những quãng sơng kia. Qua đó, ta thấy được chất nghệ thuật điện ảnh nhuộm tràn trang văn của người nghệ sĩ tài ba luôn am hiểu nhiều lĩnh vực nghệ thuât và miêu tả cái đẹp 1 cách tràn đầy niềm yêu niềm tự hào xiết bao

<i><b>4. Hung bạo được thể hiện ở những thác nước</b></i>

Nếu như ở những đoạn văn trước, sự hung bạo của sông Đà được thể hiện ở những cái hút nước như giếng bê tông thì ở đoạn văn này, sự dữ dội của Đà giang được thể hiện ở sự trùng điệp của những thác nước. Theo khảo cứu của NT, sông Đà có tất cả 73 con thác, nó giống như 73 cạm bẫy ln rình rập, đe dọa bất cứ chiếc thuyền nào đi ngang qua đó. Ngay từ khi nó chưa xuất hiện, người đoc đã có thể hình dung ra những dòng thác hùng vĩ ấy qua những âm thanh

<i><b>“còn xa lắm mới đến thác dưới nhưng đã thấy nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.”. Ta mường tượng những trận sóng nước đập vào nhau, réo mãi ở thác đá to </b></i>

lớn, lúc gần lúc xa, lúc trầm lúc bổng như những bản hòa tấu thiên nhiên của đại ngàn xanh thẳm. Đúng là ngòi bút của NT đang tung hồnh sảng khối dưới dịng thác cuồn cuộn của ngôn từ, khiến cho sự dữ dằn của sơng Đà khúc thượng nguồn hiện lên như có hình có khối, như đang gào thét trong mn vàn âm thanh. NT không chỉ miêu tả vẻ hung bạo, dữ dằn của sông Đà qua cảm nhận của thính giác ma ơng cịn miêu tả trạng thái của sông Đà với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, thái độ, tâm trạng con người. Tiếng nước nghe như là ốn trách, van xin, khiêu kích giọng gằn và chế nhạo, đủ mọi sắc thái của nước đang được nhân hóa lên như một sinh thể thực thu, có suy nghĩ, có linh hồn đang giận dữ gào thét. Dòng Đà giang trở thành 1 dòng tâm hồn, tiếng nước kia trở thành tiếng nói hay chính là phương tiên giao tiếp chủ yếu của con sông. Con sông ấy tuy mang một tâm hồn đa cảm nhưng vẫn đầy thách thức như thứ kẻ thù số 1 của con người. Những từ ngữ gợi tả âm thanh theo một cung bậc tăng dần về cả sắc thái

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

cảm xúc lẫn âm lượng để vừa miêu tả sống động sư hung bạo của dịng sơng, vừa gợi tả khoảng cách người quan sát với SĐ. Mặt khác đay cũng là cách tác giả gây cho người đọc sự tò mò, hứng thú, đẩy tần số cảm giác lên cao

Khi đến gần, những âm thanh đó khơng cịn là các cấp độ chậm rãi, mà nó biến thành một trường đoạn âm thanh liên hồi khủng khiếp, một tổ hợp âm thanh làm người ta bàng hồng. Đó là tiếng rống của hàng nghìn con trâu mộng như đang đứng giữa rừng lửa và hồng sợ thét loạn trong hơi nóng. Hình ảnh hàng nghìn con trâu cùng rống tạo nên một luồng âm thanh như phóng thẳng vào màng nhĩ khơng câu nệ, xé toang cả không gian. Không chỉ rừng lại ở tiếng rống, mà đó cịn là tiếng nổ của cả đám rừng vầu tre nứa bị cháy, tiếng nổ làm người ta nghe thấy như cả ruột tre rỗng đang tung tóe ra dữ dội cùng tiếng xèo xèo của da trâu cháy đầy kinh hãi. Cuối cùng, đàn trâu mộng nghìn con ấy chạy tán loạn, giẫm đạp lên nhau như muốn phá tung cả khu rừng để thoát lửa, rung chuyển cả không gian. Tiếng rống làm chấn động cả 1 vùng

<i><b>trời như cách Quang Dũng từng miêu tả trong TT: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” </b></i>

Người ta nói NT đã chơi ngông quả thực là không sai. Nhà văn đã tạo ra một trường liên tưởng độc đáo, tinh vi chưa từng có khi lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông. Những lực lượng vốn rất kị nhau, đối lập với nhau nhưng dưới bàn tay đầy phép thuật của người nghệ sĩ ngôn từ thì nó đã đến bên nhau, tạo ra những liên tưởng về sự tương quan kì diệu của các lực lượng tự nhiên. Âm thanh của thác nước đã khơng chỉ được cảm nhận qua thính giác mà còn được cảm nhận qua thị giác, xúc giác. Tiếng rống của ngàn con trâu mộng lồng lộn ấy như xé toang cả không gian và thời gian, gợi cho ta đến những lời thơ tương đồng trong bài “Qúa Chiến than” của tác giả Nguyễn Quang Bích:

<i><b>Nước reo sùng sục như trâu rốngĐá mọc lơ xơ tựa mũi tênTrận thế rắn bị sơng uốn khúcĐồn quân gấu dữ núi như nêm5. Sự hung bạo được thể hiện qua một chân trời đá </b></i>

<i><b> Đến khi cảm nhận thác đá trực tiếp qua hình ảnh bằng cái nhìn khái quát, ta mới cảm </b></i>

<i><b>nhận được rõ ràng độ cao của thác và tính chất của lịng sơng Đà: “Sóng bọt đã trắng xóa cả </b></i>

<i><b>chân trời đá”. Thác nước phải cao thế nào thì khi đổ xuống bờ đá gùn ghè kia mới tao thành </b></i>

những đợt sóng trắng xóa, nối tiếp, chất chồng lên nhau, khiến cho cả “chân trời đá” bấy giờ mịt mờ sắc trắng. Chỉ với hai chữ trắng xóa, tác giả như đã diễn tả chính xác tạo hình sự hợp sức của sóng, gió, bọt nước, những con sóng trắng cuồn cuộn như đang xô vào nhau cùng với 1 chân trời đá khiến ta như đang được chứng một bức tranh hùng vĩ đầy choáng ngợp của thác đá trên SĐ.

Những miêu tả đầy khám phá và thú vị vừa được neo lại chắc chắn trên trang giấy, vừa như hóa thành người bạn tâm giao cùng NT tiếp tục khám phá dịng sơng hùng vĩ. Trong khơng gian “ầm ầm mà quạnh hiu”, chỉ có tiếng thác nước dội xuống giữa 1 vùng rừng núi hoang vu, lạnh lẽo ấy, những tảng đá nằm dưới lòng SĐ tưởng như vô tri vô giác phút chốc đã biến thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

những tên tay sai trung thành, dày dặn kinh nghiệm của SĐ, nghe lời sai khiến của SĐ mà núp, mà trốn dưới lòng nước sâu, mưa tính làm lơi lịng cảnh giác của con người, để rồi 1 hơi bóp chết sinh mạng ấy. Đá ở đây như mai phục ngàn năm, như những tên lính già dày dăn kinh nghiệm, những binh tướng đã sống và chiến đấu qua hàng nghìn năm lịch sử, chúng ẩn ấp, mai phục và chuyên đánh đòn hiểm, khi chồm dậy để vồ lấy con thuyền nơi khúc sơng ngoặt, khi thì lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh khp quật vu hồi. Khơng khó để thấy trong đoạn văn này, nghệ thuật nhân hóa đã trở thành nghệ thuật chủ đạo, khiến cho đá ở Đà giang vừa có diên mạo, vừa có tâm đia và hành động của 1 bầy thủy quái, của những hung thần. Về tâm địa, chúng vô cùng nham hiểm, xảo quyêt khi từ ngàn năm nay vẫn mai phục hết giữa lịng sơng. Sử dụng thuật ngữ của ngành quân sự, nhà văn đã gợi dậy bản chất cái bí ẩn, cái hiểm ác của đá sơng Đà khi chúng biết ẩn mình trong khoảng thời gian vĩnh hằng của tự nhiên để rồi khi cần đến liền đột ngột hiện ra vồ lấy con thuyền.

Những địn đá vơ tri nhưng đã mang diên mạo, dáng vẻ của con người. Khi thì nó ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó, lúc lại bệ vệ oai phong lẫm liệt, có lúc nó lại xấc xược trong cái hất hàm hỏi đầy thách thức. NT đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá, bằng sự phối hợp giữa các tri thức từ ngành nghề, các lĩnh vực khác nhau kết hợp với hàng loạt thủ pháp nghệ thuật đặc sắc đan xen cùng những câu văn ngắn dài, tính từ miêu tả đầy gợi hình để gợi nên 1 cuộc hỗn chiến nơi thác đá, nơi thủy quái SĐ hiểm ác luôn muốn giành sự ngự trị thuộc về thiên nhiên hùng vĩ

Bằng những tư liệu phong phú và chính xác, NT đã liệt kê một loạt các con thác từ đất Vạn Yên trở về Thác Bờ thuộc địa phận tỉnh Hịa Bình, sơng Đà hiện lên với quang cảnh hùng vĩ và huyền bí, hoang sơ của 1 dịng sơng chảy giữa điệp trùng rừng núi TB. Giống như việc ngồi xuống tỉ tê cùng tấm lòng người đọc ưa khám phá, đam mê xê dịch, NT đã tỉ mỉ quan sát từng tảng đá, từng hịn nhỏ giữa khúc sơng trắng xóa để “tãi” vào lịng độc giả một thước phim

<i><b>sống động đang dần được hé lộ: “Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hịn những </b></i>

<i><b>tảng mới trơng tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như SĐ đã giao việc cho mỗi hịn”. Khi miêu tả cuộc giao tranh giữa ơng lái </b></i>

đị và dịng sơng Đà đầy hung bạo qua 3 trùng vi thạch trận, NT đã vận dụng mọi sự hiểu biết uyên bác về lĩnh vực thể thao, võ thuật, binh pháp, quân sự, điện ảnh, hơn 3 trăm động từ mạnh ganh đua với cơn cuồng nộ của SĐ, ông tạo ra những so sánh nhân hóa, ẩn dụ liên tưởng, ơng như 1 nhà quay phim lão luyện cống hiến cho độc giả những cảnh quay kịch tính hồi hộp và cho người đọc được xem những thước phim bằng ngôn từ đặc sắc

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá

<i><b>được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn” …; “Đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với </b></i>

5 cửa, có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng 1 loạt động từ trùng điệp để tô

<i><b>đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai phục”; “nhổm cả dậy”; “đứng ngồi nằm tùy theo sở </b></i>

<i><b>thích”, “ăn chết”, “canh cửa”, “hất hàm” ..Cộng hưởng với những động từ là những tính từ </b></i>

<i><b>làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”,… Tất cả làm nổi bật thế </b></i>

và lực của đá đông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

lái đị chỉ có 1 mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp.

<i><b>Bên cạnh đá là nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm </b></i>

thanh dữ dội tăng thêm khơng khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vu hồi, đá trái, thúc gối… Có thể nói NT đã rơng mở sự un bác tài hoa của mình để kho ngơn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự, thể thao với tần số đậm đặc để cực tả SĐ

<i><b>Ở trùng vi thạch trận thứ 2, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “Tăng thêm nhiều </b></i>

<i><b>cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữ ngạn. Dịng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. </b></i>

Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết định sinh tử với OLĐ. Khi chiếc thuyền đã vượt

<i><b>qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng </b></i>

<i><b>chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Những động từ mạnh vẫn tiếp tục </b></i>

tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra những trạng thái say như sóng, chống ngợp trước cơn cuồng dữ của Đà giang

Ở chăng thứ 3 này: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Hình ảnh ấy đã khiến ta liên tưởng đến 1 trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như 1 cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác/ Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đồ tài hoa với “tay lái ra hoa”. Những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn tránh đội quân đá đông đúc.

<b> 4. Đánh giá nội dung</b>

<i><b>Đường lên Mường Lễ bao xaTrăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh</b></i>

TB cứ làm người ta vương vấn với biết bao cảnh đẹp của sông núi hùng vĩ, nhưng cũng làm người ta kinh sợ bởi vẻ hung bạo của con sông Đà nơi đây, mà ít nhiều, nó đã chiến thắng và lấy đi cuộc đời của biết bao “đối thủ” đối đầu với nó. Nhưng khơng vì thế mà người ta rũ bỏ SĐ, nó vẫn là một mặt không thể thiếu của thiên nhiên TB, là hiện thân cho vẻ đẹp hùng vĩ của TB nói riêng và của đất nước nói chung. Nét đặc sắc làm nên thành cơng của hình tượng trước hết phải kể đến phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn NT - chất tài hoa tài tử, vốn kiến thức uyên bác và cách viết cầu kì độc đáo, luôn khao khát những cảm giác mới mẻ, mãnh liệt

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

mà đúng như Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận định “Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”

<b>IV. VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH1. Trữ tình qua dịng chảy</b>

<b> Khơng bằng lịng với những gì chung chung, đại khái, Nguyễn Tuân đã dành nhiều cơng sức</b>

để tìm hiểu con sơng Đà. Bởi vậy, nhà văn khơng chỉ nhìn dịng sơng ở góc gần mà cịn quan sát SĐ từ trên cao nhìn xuống. Cách mở rộng điểm nhìn ấy đã mang đến cho người đọc những cảm

<i><b>nhận trọn vẹn hơn về dịng sơng TB “từ trên tàu bay mà nhìn xuống SĐ, không ai trong tàu bay</b></i>

<i><b>nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người TB và phản ứng giận dỗi vơ tội vạ với người lái đó SĐ”. Bỏ lại sau lưng mình những nỗi buồn gió bụi, những căm hờn thách thức, dòng </b></i>

Đà giang chỉ còn là “sợi dây thừng” mềm dẻo, xa xôi và luôn khiến người thưởng ngắm phải bất ngờ. Chảy men theo chân đổi - núi nên dịng chảy của sơng uốn lượn quanh co một cách mềm mại duyên dáng gợi những liên tưởng về cái dây thừng ngoằn ngoèo, khiến cho nhà văn có chút ngỡ ngàng và như đang tự hỏi: Đây có phải là con sơng suốt đời làm mình làm mẩy với con người TB ở thượng nguồn hay khơng?

<i><b>Sơng Đà trong cái nhìn qua mây trời cịn hiện ra ngỡ ngàng: “Cũng khơng ai nghĩ rằng đó </b></i>

<i><b>là con sơng của câu đồng dao thần thoại STTT “núi cao sơng hãy cịn dài - năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Phép điệp “không ai trong tàu bay nghĩ rằng”, “cũng không ai nghĩ rằng” </b></i>

như tiếng reo vui, tự hào của tác giả khi khám phá ra một góc nhìn về con sơng TB hung bạo mà trữ tình. Miêu tả dịng sơng qua góc nhìn lịch sử, NT cịn đem đến cho người đọc 1 phát hiên thú vị mà không phải ai cũng tường tận: con sông truyền thuyết STTT nổi tiếng của người Việt. Qủa

<i><b>thực, “trang văn NT vì thế khơng chỉ cuồn cuộn dịng thác của sơng chữ, mà cịn ngồn ngộn </b></i>

<i><b>kiến thức của sông đời” (Nguyễn Thùy). Để rồi, ta bắt gặp nơi đây không chỉ là những kiến thức </b></i>

của lịch sử, mà cịn là kiến thức địa lý, văn hóa, điện ảnh, âm nhac…

Xé toạc dáng vẻ hung vĩ giữa đại ngàn TB, SĐ mạnh mẽ trút bỏ sự hung tợn ở thượng nguồn, đi vào trang văn NT bằng vẻ mềm mại, uyển chuyển của đường nét. Từ trên tàu bay nhìn xuống, TB như người thiếu nữ dun dáng, u kiều mà sơng Đà chính là áng tóc mềm mại của người thiếu nữ đang khao khát thanh xn này. NT đã nhìn thấy dịng chảy uốn lượn của con sông Đà

<i><b>tựa như 1 áng tóc trữ tình tn dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ “con sông Đà tuôn dài, tuôn </b></i>

<i><b>dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời TB bung nở hoa ban hoagạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Có thể nói, đây là một câu văn </b></i>

tuyệt bút, ghi dấu ấn tài hoa của NT trong nghệ thuật tả cảnh, từ cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, đến âm hưởng, giọng điêu. Người đoc bị cuốn vào tầng tầng lớp lớp của câu văn dài khơng ngắt qng, thả mình miên man theo chiều dài vơ tận vơ bờ của dịng sơng. Với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” nhà văn đã lột tả thật tinh tế những vẻ đẹp uyển chuyển, sống động của Sơng Đà khi hóa thân thành người thiếu nữ e ấp. Những thanh bằng liên tiếp đã tạo cho câu văn như có nhịp điệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

ngân nga trầm bổng, du dương, mang đến cho ta những cảm nhận về sự êm dịu, bình lặng của con sông ở quãng trung lưu. Không còn nữa cái dữ dội như hờn ghen của Đ gian ở thượng nguồn

<i><b>“nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió…” mà thay vào đó là vẻ đẹp đầy xuân sắc xuân tình của 1 </b></i>

người thiếu nữ TB kiều diễm.

“Áng tóc trữ tình! Ngơn ngữ văn chương trong Nguyễn Tuân thật đặc sắc. Vẻ đep ngôn ngữ ấy được tạo ra trước hết là nhờ cách cảm, cách khám phá mới mẻ của nhà văn khi ông tưởng

<i><b>tượng ra SĐ như 1 “áng tóc trữ tình” mà “đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời TB bung nở </b></i>

<i><b>hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Ta cảm thán </b></i>

trước tài năng nên câu dụng chữ của nhà văn “Vang bóng 1 thời” đầy tài hoa ấy, khi ông vẫn dùng động từ mạnh “bung nở” nhưng khơng cịn để miêu tả dáng vẻ hung tợn, xảo quyệt của “thủy quái SĐ” SĐ”, mà chính động từ “bung nở” ấy lại mang đến 1 sức sống diệu kì, đầy niềm hứng khởi và lạc quan. Là dịng sơng “bung nở” mái tóc dài thăm thẳm hay chính sức sống của thiên nhiên và con người TB đang cùng “bung nở” trào dâng giữa đất trời rộng lớn, giữa công cuộc xây dựng đất nước tươi đẹp hơn? Cùng với đó, những bơng hoa TB thi nhau trổ, thi nhau căng tràn rực rỡ

<i><b>mà ở đây, hoa ban trắng, hoa gạo đỏ - loài hoa vốn được yêu chiều của vùng TB cũng trở thành </b></i>

những “nhánh xuân” cài lên mái tóc SĐ gợi nên hình ảnh làn tóc bay dài vơ tận trong khói sương huyền ảo. Phép so sánh đầy chất thơ, chất họa chẳng những phô ra được vẻ đẹp duyên dáng, kiêu sa, kiều diễm của dòng sơng Đà mà cịn bơc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Điều đó lại khiến tơi chợt nhớ có lần, trong tác phẩm nổi tiếng “Tóc Chị Hồi”, Nguyễn Tn từng viết:

<i><b>“Cái người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm một mớ tóc cho tử tế, thì cái </b></i>

<i><b>thẩm mỹ quan của người ấy cịn lung lay lắm, chưa lấy gì làm định”. Thế mới thấy, nhà văn </b></i>

yêu quý, trân trọng đến nhường nào cái vẻ đẹp quyến rũ, thướt tha của “áng tóc trữ tình’ kia. Để rồi, bao nhiêu vẻ đẹp thơ mơng, trữ tình quyến rũ của đất trời đã ùa về thức dậy trong những câu

<i><b>văn của NT - “người thợ kim hoàn của chữ” (Hồi Thanh)</b></i>

<b>2. Trữ tình qua màu nước</b>

<i><b>“Màu sắc trong văn học chẳng những là phương tiện miêu tả thế giới, mà cịn là phương </b></i>

<i><b>tiện để thể hiện cái nhìn nghệ thuật đối với cuộc đời, mang đậm màu sắc thời đại và cá tính” </b></i>

(Trần Đình Sử). Trong những dịng tâm tình dành cho con sơng u thương của TB, NT đã trân trọng nhìn ngắm và dõi theo từng bước đi của thời gian nơi dịng sơng này, quan sát nước Đ giang biến đổi theo mùa khiến nó hiên lên với vẻ đẹp lạ lùng, quyến rũ như một mỹ nhân với những điệu nghệ làm say đắm lịng người. SĐ ln lam mới, làm đẹp với chính mình, sắc nước SĐ thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp riêng biêt. Chính điều ấy đã làm người nghệ sĩ say sưa mê

<i><b>đắm, chiêm nghiệm vẻ đẹp con sông này để cất lên những lời lời văn tha thiết “tôi đã say sưa làn </b></i>

<i><b>mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xun qua đám mây mùa thu nhìn xuống sơng Đà”. </b></i>

Lúc này đây ngời nghệ sĩ ấy đã phó mặc thả trơi tâm hồn mình cùng với dịng sơng, chính vẻ đẹp của mây trời TB bung nở hoa đã gieo nên những hạt mầm xanh tốt tạo nên cái sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên tươi đẹp nơi đây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i><b>“Mùa xuân dịng xanh ngọc bích, chứ nước SĐ khơng xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”. Cùng là sắc xanh nhưng màu xanh ở đây là sự kết đọng của vẻ đẹp tồn </b></i>

bích, thứ ngọc trong sáng, xanh một màu xanh gợi cảm, trong lành, rung rinh trong nắng sớm mà lấp lống bóng cây tỏa rợp quanh dịng sơng. Đó là màu của núi, của da trời trộn quyện vào màu

<i><b>của nước - một sắc màu trong lành, khác hẳn với màu xanh đục lờ lờ canh hến của SL SG. Và </b></i>

trong tâm thức của người phương Đơng, màu xanh cịn đại diện cho hịa bình, hy vọng, thuận hịa, tươi mát. Cảm giác và nhận thức về màu xanh thường là biểu hiện cho những tình cảm sâu lắng, nhẹ nhàng, sáng trong và tinh khiết

<i><b>Mọc giữa dịng sơng xanhMột bơng hoa tím biếc</b></i>

Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)

<i><b>Mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì đó mỗi độ thu về. Câu văn sử dụng phép so </b></i>

sánh đặc sắc, khiến người đọc dễ dàng hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước SĐ. Lần đầu tiên có người dùng màu sắc của da mặt người để miêu tả vẻ đẹp của dịng sơng. Cái màu đỏ lừ lừ ấy có lẽ chỉ NT - một người nghệ sĩ tài hoa, tài tử mới thấy, mới cảm cảm nhận mà viết nên được những trang văn rung động lòng người đến thế. Nếu như HPNT cảm nhận dịng sơng H với màu

<i><b>sắc đặc biệt “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím’ tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đơi bờ và sư phản </b></i>

quang của đất trời để tao nên một đóa hoa phù dung mĩ miều thì NT lại viết về SĐ với những cảm quan nhạy bén của ngũ quan, làm nên hình tượng SĐ duyên dáng, trữ tình nhưng cũng thật cá tính, mạnh mẽ. Qua câu văn, NT đã làm nổi bật được cái trữ tình thơ mộng của dịng nước cùng cái dữ dội ngàn đời của con sông TB. Một vẻ đẹp biến đổi theo mùa thật tinh tế mà chính nhà thơ Bằng Việt cũng luyến lưu nếu mai sau khơng cịn nữa trong “Mai mốt đến SĐ”

<i><b>Sẽ chẳng cịn dịng sơng ngang ngược đổi từng mùaNhững mũi đá nhe nanh trên Thác Bờ hiểm hócChẳng cịn dáng cịng lưu trên mũi thuyền độc mộcMai tự thuở xăm mình xuôi ngược đất Phong Châu</b></i>

Nhưng ta mê đắm tùy bút này cịn vì kiến thức sâu rộng của nhà văn về nhiều lĩnh vực liên ngành. Ơng khơng chỉ nói về SĐ trên phương diện của 1 nhà văn mà còn là một nhà sử học đã

<i><b>nhớ rất rõ ràng người P từng gọi SĐ là sông Đen “chưa bao giờ tơi thấy dịng SĐ đen nhưng </b></i>

<i><b>bon thực dân P đã đè ngửa cn sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng 1 cái tên Tây láo lếu”. </b></i>

Có lẽ chính tình u với q hương đất nước đã thôi thúc NT đến với TB “dù xa xôi đến mấy cũng lên đường” để phát hiện và phát lộ chất vàng của thiên nhiên. Đó là sứ mệnh cũng như niềm

<i><b>vui của người nghệ sĩ chân chính như nhà văn Nga Pautopxki đã từng viết “ niềm vui chân chính</b></i>

<i><b>của nhà văn là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”</b></i>

<b>3. Sông Đà gợi cảm</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i><b> “Con sông Đà gợi cảm” - một câu văn như lời khẳng định chắc nịch của NT khi viết những </b></i>

trang văn về vẻ đẹp trữ tình của con sơng. Qua góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại, của người trôi thuyền trên sơng phía hạ lưu và góc nhìn của 1 cố nhân, SĐ hiện lên với hình ảnh của quá khứ, hiện tại và tương lai với điểm nhìn cận cảnh. Trong tầm mắt người thưởng ngoạn, dịng

<i><b>sơng hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, “đối với mỗi người, SĐ gợi một cách”. Và đối với nhà văn, đã</b></i>

có lần ơng nhìn SĐ như một cố nhân, như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Hai chữ “cố nhân” xa mà gần gợi nhớ một người bạn cũ, một người tri âm tri kỉ mà trong thơ ca xưa đã khơng ít lần xuất hiện:

<i><b>Khuyến qn cánh tận bôi tửuTây xuất Dương quan vô cố nhân</b></i>

<i>(Khúc hát Vị Thành - Vương Duy)</i>

Trong thơ ca cổ là thế, cịn trong bài bút kí hiện đại này, NT cũng dùng chữ “cố nhân” khi nói

<i><b>về con SĐ. Lúc đầu, đó mới chỉ là cảm giác “thấy thèm chỗ thoáng” của nhà văn khi ở rừng đi </b></i>

núi đã hơi lâu, thậm chí qn mất là mình sắp đổ ra sông Đ”. Thế rồi, con sông mà NT mòn đợi như cố nhân ấy cũng đã hiện ra. Dưới cảm quan của thị giác, tác giả nhìn thấy nắng trên sơng Đà

<i><b>“loang lống” như “trẻ con cầm gương chiếu vào mắt người lớn rồi bỏ chạy”. Từ láy “loang </b></i>

lống” gợi ra hình ảnh nắng chiếu lấp lánh, long lanh. Trong ánh sáng lóe lên phút chốc ấy, nhà

<i><b>văn đã thấy một màu nắng tháng 3 đầy ấm áp, thi vị, khiến ông nhớ đến câu Đường thi: “Yên hoa </b></i>

<i><b>tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng đến câu thơ “thiên cổ lệ cú” của đại danh hào Lý Bạch,</b></i>

tác giả cũng như đưa người đọc đắm chìm trong vẻ đẹp ấm áp, trong sáng, mộng mơ, nên thơ của SĐ, khiến cho người đọc như có cảm giác lạc vào chốn sơn thủy bình n xưa cũ của trăm năm về trước. Có thể thấy, con SĐ miên man đã đưa người đọc trôi vào cõi thời gian của 1 thời Đường thi xa xăm phồn thịnh.

Nhà văn gặp lại sông Đà, như gặp lại một tâm hồn tương giao đồng điêu hiếm có với bản thân mình. Hẳn là ơng đã tìm được điểm tương đồng giữa cái tính hung bạo ương bướng, “làm mình làm mẩy” của con sơng miền TB xa xôi và cái tôi “ngông” đặc biệt của bản thân. Tìm được một tâm hồn đồng điệu là chuyện hiếm có và khó khăn biết bao, chẳng thế mà nữ sĩ XQ đã từng hóa thân thành con sóng vượt bao rào cản, chơng gai để tìm mãi tận biển lớn, để tìm đươc tâm hồn đồng điệu vói minh. Bởi vậy khi gặp SĐ, niềm vui sướng trong nhà văn là không thể nào đong

<i><b>đếm nổi. Ơng nhìn kĩ từng cảnh vật thuộc về người “cố nhân” lâu ngày găp lại với “bờ SĐ, bãi </b></i>

<i><b>SĐ, chuồn chuồn bươm bướm trên SĐ”. Câu văn mang một trật tự cú pháp rất đặc biệt, chỉ đơn </b></i>

thuần là những cụm từ đặt cạch nhau, nhưng sức gợi hình, gợi cảm lại vơ cùng lớn. Điệp từ “SĐ” kết hợp với phép liệt kê: bờ, bãi, chuồn chuồn, bươm bướm… làm SĐ hiện lên với cảnh vật sinh động, phong phú, đa dạng, sức sống hoang dại mà mãnh liệt.

Thậm chí niềm vui ấy lớn đến độ khiến nhà văn phải hạ bút viết nên một phép so sánh có một

<i><b>khơng hai: “vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt </b></i>

<i><b>quãng”. Lòng ta cũng rộn rã “giòn tan” như nắng, lòng ta cũng như đi vào cơn mơ mộng đẹp vô </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

ngần trong giấc say. Từng từ, từng chữ trong câu văn đều được sử dụng vô cùng chuẩn xác, cơ hồ không thể thay thế được. Hai chữ “chao ôi” như tiếng thốt, như sự xuýt xoa, vỡ ịa bởi hạnh phúc vơ bờ. Ấn dụ “nắng giòn tan” gợi lên trong đáy mắt người ngắm nhìn những cơn nắng tháng ba trong veo, thanh nhẹ, mỏng manh cháy bỏng cả đất trời. Ánh nắng trong lành không giục giã, không hối hả người đời đi tìm chỗ trú, khơng nặng nề oi bức. Ánh nắng khiến người thưởng ngắm SĐ tưởng đến cơn mưa dầm nối liền kề nhau thành “kì mưa dầm” không ngớt mà ngẫm ngợi: Niềm vui gặp lai cố nhân như ánh nắng chiếu rọi bầu trời sau cơn mưa dài dai dẳng. Cịn gì hanh phúc bằng sau mùa đông kéo dài u ám bỗng một ngày gặp “nắng giịn tan”. Cịn gì vui hơn khi giấc mơ đang đẹp bỗng đứt quãng rồi lại được “nối lại chiêm bao”. Bàn về lao động nghệ thuật

<i><b>của người nghệ sĩ ngôn từ, nhà văn Tơ Hồi từng tâm niệm: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông </b></i>

<i><b>xuống những trang bản thảo, phải là hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Và điều đó quả thực đúng với Nguyễn Tuân, khi mỗi chữ của ông </b></i>

quả là “hạt ngọc” mà ơng đã lục tìm trong cái kho cảm xúc, liên tưởng phong phú, độc đáo của mình. Hẳn rằng, cái vui như thấy “nắng giòn tan”, như “nối lại chiêm bao đứt quãng ấy” sẽ còn khiến độc giả nhớ mãi.

<i><b>Nối tiếp niềm vui ấy, nhà văn viết: “Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sơng Đà, đúng thế, nó </b></i>

<i><b>đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Sông Đà đã thực sư trở thành người cũ, người tri âm với </b></i>

bao kỉ niêm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thuoneg trong hiện tại, bao hẹn hò chung thủy trong tương lai. Thử hỏi, nếu không yêu, không q, khơng nhớ dịng Đà giang thì làm sao có được cái

<i><b>cảm giác “đằm đằm ấm ấm” thân thương ấy? Kể cả khi cố nhân có “lắm bệnh lắm chứng”, </b></i>

<i><b>“chốc lại bẳn tính và gắt gỏng ngay đấy” thì cũng làm sao ngăn được niềm vui của nhà văn. Bởi </b></i>

lẽ, có cịn gì đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi được gặp lại cố nhân trong cái nắng Đường thi mơ mộng như tự thuở xa xưa nào

<b>4. Trữ tình qua điệu chảy lặng lờ</b>

Ngịi bút thài hoa của Nguyễn Tuân như dẫn lối đưa người đọc đến với một sông Đà êm

<i><b>đềm, dịu hiền, tĩnh lặng, hoang sơ như một miền cổ tích “Thuyền tơi trơi trên sơng Đà. Cảnh ven</b></i>

<i><b>sơng ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trân, đời Lê, qng sơng này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Câu văn mở đầu bằng những thanh bằng đã tạo nên âm hưởng du dương, nhẹ nhàng, đã </b></i>

đưa nhà văn, đưa người đọc, đưa con thuyền vào một cõi hoang sơ vắng lặng như dịng sơng thời tiền sử. Tính từ “lặng tờ” được lặp lại tới hai lần đã tạo ấn tượng về sự êm đềm, yên ả của dịng

<i><b>sơng. Khẽ lay tâm hồn đi theo Đ giang, “người thợ hoàn kim của câu chữ” đã dẫn dắt chúng ta </b></i>

đi sâu vào “lớp trầm tích” được phủ kín bởi vẻ đẹp nhẹ nhàng ấy - vẻ đẹp của lịch sử những buổi

<i><b>đầu dựng nước và giữ nước “Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê con sông này cũng lặng tờ </b></i>

<i><b>đến thế mà thôi”. Về đoạn văn này, tác giả Đỗ Kim Hồi đã từng viết: “Chắc phải có người thơ nào thèm muốn tạo được sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đị lừ lừ trơi giữa đơi bờ hoang dại, cái lặng lẽ tuyệt đối để ru hồn người vào cái ảo giác về bờ sông tiền sử, về nỗi niềm cổ tích hay hồi niệm về thời Lí, thời Lê, ... và cái lặng lẽ mơ màng đến độ con người chờ mong 1 sự </b></i>

</div>

×