Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đáp án Môn luật kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.13 KB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b><small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LƯƠNG THẾ VINHTRƯỜNG ĐẠI HỌC LƯƠNG THẾ VINH</small></b>

<b><small>KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH</small></b>

<b><small>HỌC VIÊN: VŨ MINH THUẬNLỚP: QTKD1 – K9</small></b>

<b>BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC HỌC PHẦNMÔN LUẬT KINH DOANH</b>

<b><small>BÌNH PHƯỚC, THÁNG 9 NĂM 2021</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b><small>KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH</small></b>

<b>------BÀI KIỂM TRA THAY THẾ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN</b>

<b>MÔN LUẬT KINH DOANH</b>

<b><small>HỌC VIÊN: VŨ MINH THUẬNLỚP: QTKD1 – K9</small></b>

<b><small>GIẢNG VIÊN: </small></b>

<b>TS.GVC NGUYỄN HUY KHOA</b>

<b><small>BÌNH PHƯỚC, THÁNG 9 NĂM 2021</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh tại Tòa án nhân dân? Liên hệ với thực tiễn áp dụng các quy định này tại Thành phố Hồ Chí Minh?

<b>1. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh tại Tịa án nhân dân</b>

Trong q trình hợp tác kinh doanh, việc xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp là điều không thể tránh khỏi. Với bản chất là một quan hệ pháp luật dân sự, đề cao tính tự nguyện, sự tự thỏa thuận giữa các bên, khi xảy ra tranh chấp các bên cũng được tự thỏa thuận, thương lượng giải quyết với nhau. Khi không thể tự giải quyết, một trong các bên có quyền yêu cầu cơ quan tài phán nhà nước giải quyết tranh chấp.

<i><b>1.1. Quy trình giải quyết tranh chấp tại tịa án – cơ quan có thẩm quyềngiải quyết tranh chấp cao nhất</b></i>

<b>Chuẩn bị khởi kiện</b>

Khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là Tòa án, bên yêu cầu cần chuẩn bị cho việc khởi kiện với các công việc sau:

<b>Soạn đơn khởi kiện</b>

Đơn khởi kiện phải có các nội dung: ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiên là cá nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có); tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ; tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có); tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Quyền, lợi ích hợ pháp của người khởi kiện bị xâm phạm, những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có); danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Trên thực tế, các Tòa án đều đưa ra mẫu đơn khởi kiện và yêu cầu người khởi kiện phải thực hiện theo mẫu

<b>Xác định tịa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp</b>

Trước hết phải xác định thẩm quyền theo loại việc, đây là tranh chấp về kinh doanh, thương mại bởi là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở. Trường hợp vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngồi hoặc cần phải ủy thác tư pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.

<b>Chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu là có căn cứ vàhợp pháp</b>

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp dân sự là nghĩa vụ chứng minh ln thuộc về người có u cầu. Khi khởi kiện, người có yêu cầu phải chứng minh về sự tồn tại của quan hệ pháp luật kinh doanh thương mại, mẫu thuẫn về quyền lợi giữa các bên khơng thể tự giải quyết. Trong q trình giải quyết vụ án, người có u cầu phải ln đưa ra được các chứng cứ, tài liệu chứng minh quyền lợi hợp pháp của họ bị xâm phạm bởi hành vi vi phạm của 1 hoặc các bên còn lại.

Trong giải quyết tranh chấp dân sự, nếu bên nào không cung cấp được chứng cứ bảo vệ quyền lợi cho mình thì bên đó phải chịu hậu quả pháp lý. Tịa án chỉ tham gia vào q trình thu thập, cung cấp chứng cứ khi các bên không thể tự thu thập được và có đơn yêu cầu.

<b>Thu thập chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.</b>

Chứng cứ phải đảm bảo: khách quan, liên quan và hợp pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Chứng cứ phải được thu thập từ những nguồn sau: tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập; văn bản công chứng, chứng thực; các nguồn khác mà pháp luật quy định.

<b>Nộp đơn khởi kiện.</b>

Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tịa án có thẩm quyền theo 1 trong các phương thức sau:

Nộp trực tiếp tại Tòa án;

Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính;

Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tịa án (nếu có).

<i><b>1.2. Quy trình giải quyết tranh chấp tại Tịa án</b></i>

Nộp đơn khởi kiện tại Tịa án có thẩm quyền.

Trong thời hạn 8 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải ra một trong các quyết định sau:

Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;

Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền; Trả lại đơn khởi kiện;

Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án

Trường hợp tiến hành thụ lý vụ án, tịa án ra thơng báo người khởi kiện đồng thời thơng báo nộp tạm ứng án phí.

Người khởi kiện nộp tạm ứng án phí trong thời gian 07 ngày kể từ ngày nhận được thơng báo của Tịa án về việc nộp tạm ứng án phí. Kể từ ngày người khởi kiện nộp biên lai nộp tạm ứng án phí cho Tịa án, Tịa án vào sổ thụ lý. Thông báo về

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

việc thụ lý vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, bị đơn, nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án kinh doanh thương mại kéo dài từ 4 đến 6 tháng.

Hòa giải tại Tòa án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tịa án có trách nhiệm tổ chức hòa giải giữa các bên trong tranh chấp. Trường hợp hịa giải thành, Tịa án lập Biên bản cơng nhận sự thỏa thuận giữa các bên. Trường hợp hòa giải khơng thành hoặc khơng hịa giải được, Tịa án lập Biên bản hịa giải khơng thành/khơng hịa giải được, đồng thời ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Phiên Tòa sơ thẩm phải được mở trong thời gian 30 ngày kể từ ngày có Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Phiên tịa sơ thẩm có thể bị tạm hỗn, thời gian hỗn tối đa khơng q 30 ngày.

<i><b>1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,thương mại</b></i>

Nguyên tắc cơ bản trong trong một đạo luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo mang tính khái quát, xuyên suốt trong cả đạo luật. Nội dung của các quy định tiếp theo chỉ là sự cụ thể hóa các tư tưởng, quan điểm này. Một số nguyên tắc cơ bản trong BLTTDS như sau:

<i><b>1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự</b></i>

Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được quy định như sau:

<i>“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm</i>

<i>quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tồ án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi cóđơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởikiện, đơn yêu cầu đó.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>2. Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấmdứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.</i>

Về nguyên tắc các quan hệ kinh tế là những quan hệ được xác lập một cách tự nguyện, xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà khơng có bất cứ sự cưỡng ép, đe dọa nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Nói cách khác, sự xác lập các quan hệ kinh tế hoàn toàn do các bên tự quyết định, và được Nhà nước bảo đảm nếu không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội . Chính vì thế, khi phát sinh tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nhưng ngược lại, họ cũng có quyền từ bỏ quyền lợi của mình đã bị xâm phạm cho dù đã có yêu cầu Nhà nước bảo vệ. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự được thể hiện trong suốt các giai đoạn của q trình tố tụng: họ có thể khởi kiện hoặc khơng khởi kiện; trong q trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của đương sự không chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.

Tuy nhiên, thực trạng khi giải quyết tại Toà án nhân dân nguyên tắc này nhiều khi vẫn bị Toà án vi phạm, như: giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự hoặc không giải quyết hết u cầu đương sự, thậm chí có trường hợp giải quyết sai so với yêu cầu của đương sự dẫn đến đương sự khiếu nại kéo dài, vụ án bị Toà án cấp trên huỷ để giải quyết lại.

<i><b>1.3.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật</b></i>

Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến Pháp 1992. Quyền này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản

<i>pháp luật, trong đó có BLTTDS: “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật,</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>trước Tồ án khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơngiáo, trình độ văn hố, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng khơngphụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Cácđương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Tồ án cótrách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.” (Điều</i>

8 BLTTDS). Việc cụ thể hố quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó cịn thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Khi các doanh nghiệp, người tham gia tố tụng thì khơng phân biệt đó là doanh nghiệp Nhà nước, công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân… Các bên đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào đương sự cũng thực hiện được quyền này, nhiều trường hợp do trình độ hiều biết của đương sự dẫn đến họ không thực hiện được hết quyền của mình, như: vấn đề khởi kiện, cung cấp chứng cứ hay bào chữa trước toà án... dẫn đến chịu phán quyết bất lợi cho họ hoặc có trường hợp xuất phát ngày từ việc vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng của Toà án hoặc quy định của pháp luật chưa phù hợp dẫn đến bất bình đẳng cho các đương sự. Đây là vấn đề lớn, để khắc phục phải tiến hành đồng bộ từ giai đoạn xây dựng pháp luật, cải cách cơ cấu tổ chức của Toà án, nâng cao trình độ của các thẩm phán và trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong vấn đề kinh doanh.

<i><b>1.3.3. Ngun tắc Tịa án khơng tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thuthập chứng cứ</b></i>

Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Khác với giải quyết các vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại thì Tịa án khơng tiến hành điều tra mà đương sự phải cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp nhất định (Điều 6 BLTTDS).

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ và có u cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Quy định như vậy là phù hợp song việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Trong BLTTDS khơng quy định biện pháp chế tài mà chỉ quy định chung chung nếu không cung cấp chúng cứ thì bị bất lợi và khơng có quy định về thời hạn bắt buộc đương sự phải cung cấp chứng cứ nếu khơng cung cấp thì chứng cứ đó khơng có giá trị hoặc phải chịu chế tài như: phạt tiền..., vì vậy, thực tế có trường hợp đương sự đang giữ chứng cứ hoặc có khả năng thu thập chứng cứ nhưng lại không thu thập chứng cứ để cung cấp cho Toà án, chỉ đến khi thấy có lợi mới cung cấp, thậm chí có trường hợp để đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mới xuất trình chứng cứ các hoặc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mới xuất trình chứng cứ, kèm theo đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến Tòa án bị thụ động trong việc xét xử.

Liên quan đến việc thu thập và cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự, Tại

<i>Điều 7, BLTTDS quy định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ,</i>

<i>quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứngcứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có ucầu của đương sự, Tồ án; trong trường hợp khơng cung cấp được thì phải thơngbáo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cungcấp được chứng cứ). Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp khi có vấn đề liên quan</i>

đến cơ quan quản lý hữu quan, Tịa án có văn bản yêu cầu các cơ quan này cung cấp tài liệu theo quy định của pháp luật, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên khó thực hiện được ngay hoặc thậm chí khơng được thực hiện được do chưa có quy định nào cụ thể hướng dẫn trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cơ quan hữu quan.

<i><b>1.3.4. Nguyên tắc hòa giải</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng kinh tế được quy định tại Điều 10

<i>BLTTDS, theo đó: “Tồ án có trách nhiệm tiến hành hồ giải và tạo điều kiện</i>

<i>thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sựtheo quy định của Bộ luật này”.</i>

Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hịa giải là một biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hịa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đồng thời làm tốt hòa giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước, công sức của cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS cũng quy định cụ thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tịa, trừ những vụ án khơng được hịa giải như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước, hoặc những vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.

Việc hòa giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các vụ án kinh tế, đặc biệt là cấp sơ thẩm, nhưng không được hướng dẫn, đào tạo có bài bản cho các Thẩm phán. Việc hịa giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Xu hướng chung của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ đúng sai giữa các doanh nghiệp; chưa hoặc chưa biết quan tâm đúng mức đến vấn đề mà các đương sự hướng tới là lợi nhuận (nhiều hay ít nhưng phải có lợi) đó là điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân nhượng hợp tác trong kinh doanh của các bên đương sự. Nếu việc hịa giải khơng thành có thể dẫn đến căng thẳng, khi hịa giải khơng thành thì mâu thuẫn sẽ

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

tăng lên bội phần và việc thúc đẩy sự thương lượng tự thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau sẽ kém hiệu quả.

<i><b>1.3.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời</b></i>

Về nguyên tắc khi giải quyết các vụ việc thương mại phải nhanh chóng, kịp thời đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm. Trong BLTTDS quy định cụ thể thời hạn ở các giải đoạn tố tụng, như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử, thời hạn phát hành quyết định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm... Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ việc trong thời hạn luật định. Tuy nhiên, trong thực tế có một số trường hợp vi phạm thời hạn dẫn đến việc giải quyết không kịp thời như: vi phạm thời gian phát hành quyết định, bản án, thời gian gian thu thập chứng cứ.... Nguyên nhân việc vi phạm phần lớn do quy định thời hạn trong BLTTDS chưa hợp lý và trình độ thẩm phán cịn hạn chế dẫn đến không đáp ứng với yêu cầu về thời hạn tố tụng.

<i><b>1.4. Những tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giảiquyết của Tòa án</b></i>

<i><b>Căn cứ Điều 29 Bộ Luật tố tụng dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2011:</b></i>

1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao

</div>

×