Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Maritimedelimitationandterritorialquestionsbetweenqatar andbahrain(qatar v bahrain), icj,1991

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH4. Lê Thị Như Quỳnh18538010151735. Phạm Lê Như Sương18538010151776. Nguyễn Thị Kim Thoa1853801015204</b>

1.2. Lập luận của các bên...4

1.2.1. Lập luận của nguyên đơn (Qatar)...4

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

1.2.2. Lập luận của bị đơn (Bahrain)...6

1.3. Lập luận và phán quyết của tòa án...7

1.3.1. Lập luận của tòa án...7

1.3.2. Tòa đưa ra phán quyết đối với vụ tranh chấp như sau...9

II. TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM...9

2.1. Quan điểm của các học giả về vụ án...9

2.2. Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự...11

2.2.1. Phán quyết của cơ quan tài phán và vụ việc có liên quan...11

2.2.2. Lập luận của các bên...11

2.2.3. Phán quyết của Tịa...11

2.3. Quan điểm của nhóm...12

2.4. Bài học kinh nghiệm...14

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>I. TÓM TẮT VỤ VIỆC1.1. Tóm tắt sự kiện</b>

Bahrain và Qatar là hai nước liền kề, nằm phía Nam vịnh Ba Tư và mỗi nước đều có một số đảo nhỏ lân cận. Năm 1976, nhằm giúp tìm kiếm giải pháp cho vụ tranh chấp giữa hai quốc gia này, Quốc vương Saudi Arabia đã đứng ra làm trung gian hòa giải với mong muốn có thể dàn xếp, giải quyết vụ việc này trong hịa bình. Tháng 03/1983 một cuộc họp đã diễn ra với sự tham gia của cả ba bên và thơng qua

Frame-work for Reaching a Settlement). Trong đó, nguyên tắc đầu tiên quy định rằng: “

”. Năm 1987, Quốc vương Saudi đứng ra làm trung gian hòa giải và thuyết phục được hai bên đồng ý ký vào thỏa thuận với một số nội dung mới do Quốc vương Saudi đề xuất:

Thứ nhất, các vấn đề tranh chấp sẽ được chuyển đến cho Tịa án Cơng lý Quốc tế (International Court of Justice) ở Hague giải quyết, để tìm kiếm một ràng buộc cuối cùng đối với cả hai bên tranh chấp trong việc thực thi các điều khoản trong phán quyết của Tòa.

Thứ hai, thành lập một ủy ban bao gồm đại diện của Qatar, Bahrain và Saudi Aribia nhằm mục đích đưa vụ việc lên ICJ và thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để<small>1</small>

đưa vụ tranh chấp để từ đó ICJ có thể đưa ra được phán quyết cuối cùng có giá trị ràng buộc đối với cả hai bên tranh chấp và cuối cùng: Khẳng định Quốc vương Saudi Arabia sẽ tiếp tục vai trò trung gian hòa giải để đảm bảo cho việc thực thi các điều khoản này.

Năm 1988, Bahrain đã gửi cho Qatar văn bản được gọi tắt là “ ” (Bahrain formula) với nội dung: “

”. Thế nhưng chưa dừng

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>4TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.</small>

lại ở đó vào hai năm sau vấn đề tranh chấp trên lại một lần nữa được đưa ra để thảo luận trong cuộc họp thường niên Hội đồng hợp tác các quốc gia Arab vùng Vịnh (Cooperation Council of Arab States of the Gulf) tổ chức tại Doha tháng 12/1990.<small>2</small>

Khi đó, Qatar tun bố sẽ chấp thuận Cơng thức Bahrain với ba nội dung. Cụ thể là khẳng định lại những gì đã được thỏa thuận trước đó giữa hai bên. Tiếp tục vai trò trung gian hòa giải của Quốc vương Saudi Arabia giữa hai nước cho đến tháng 05/1991. Khi thời hạn này kết thúc, các bên có thể đưa vụ việc lên ICJ theo nội dung Cơng thức Bahrain. Vai trị trung gian hịa giải của Quốc vương Saudi Arabia sẽ tiếp tục trong suốt thời gian đưa vấn đề tranh chấp lên trọng tài và sau cùng là: Nếu có một giải pháp hợp lý được đưa ra với sự chấp thuận với cả hai bên tranh chấp thì vụ việc sẽ được rút khỏi trọng tài.

Sau tất cả, Quốc vương Saudi Arabia-với vai trị trung gian hịa giải vẫn khơng thể giải quyết tranh chấp của hai nước, từ đó phát sinh vụ kiện giữa Qatar và Bahrain vào ngày 08/07/1991.

<b>1.2. Lập luận của các bên</b>

Trước tiên, Qatar cho rằng việc trao đổi thư với Bahrain vào tháng 12/1987 đã tạo nên một thỏa thuận quốc tế có hiệu lực ràng buộc quan hệ song phương giữa hai nước.

Về Biên bản Doha (Doha Minutes), Qatar đã dựa vào 3 lập luận chính để khẳng định giá trị pháp lý của Biên bản này và cho rằng Biên bản này được xem là cơ sở để xác định quyền tài phán của Tịa án.

Thứ nhất, Biên bản Doha có tên là “biên bản” nhưng nó khơng chỉ đơn thuần là một biên bản hội nghị giới hạn trong việc ghi nhận các sự kiện, các tình huống hay các tuyên bố bởi vì nó cịn liệt kê các quyền và nghĩa vụ nhằm tạo ra sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa các bên và do đó sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc tế theo Điều 2, Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế:

Save to read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Thứ hai, bác lại lập luận của Bahrain cho rằng Biên bản Doha 1990 chỉ đơn thuần là một tuyên bố ghi nhận thỏa thuận về chính trị (A statement recording a political understanding), Qatar khẳng định rằng Biên bản năm 1990 rõ ràng chứa đựng những điều khoản có giá trị pháp lí. Trong biên bản, hai quốc gia đã tán thành việc cho đến hết tháng 05/1991 các bên có thể đưa vụ tranh chấp lên ICJ phù hợp với Công thức Bahrain mà Qatar đã chấp thuận và các vụ kiện phát sinh kể từ thời điểm đó. Hơn thế nữa, đây là văn bản khẳng định lại những gì đã thỏa thuận trước đó, cụ thể là trong các bức thư trao đổi vào tháng 12/1987. Như vậy rõ ràng Biên bản Doha mang bản chất pháp lý chứ khơng phải chỉ mang tính chính trị đơn thuần.

Thứ ba, Qatar cho rằng giá trị ràng buộc và tính có hiệu lực của Biên bản Doha là không thể phủ nhận bởi:

Đầu tiên, biên bản được kí bởi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 3 nước, những người có đây đủ thẩm quyền kí các điều ước quốc tế thay mặt quốc gia theo Điều 7.2.a và Điều 12.1.b Công Ước Viên:

Điều 7.2.a: “

Điều 12.1.b: “

Tiếp theo, việc Bahrain viện dẫn Khoản 1 Điều 37: “Amir sẽ ký kết các hiệp<small>3</small>

ước bằng nghị định và sẽ chuyển chúng ngay lập tức tới Quốc hội với tuyên bố thích hợp. Một hiệp ước sẽ có hiệu lực của pháp luật sau khi nó được ký kết, phê chuẩn và cơng bố trên Công báo”. Hiến pháp quy định các điều ước liên quan đến các vấn đề lãnh thổ hoặc quyền chủ quyền chỉ có thể có hiệu lực khi được nội luật hóa, khơng thể được coi như một điều kiện để bác bỏ hiệu lực của Biên bản Doha theo Điều 46.1 Cơng ước Viên vì trong Điều này quy định: “

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Cuối cùng, để đảm bảo tính hiệu lực và giá trị pháp lí của biên bản, ngày 28/06/1991 Qatar đã gửi bản đăng kí Điều ước quốc tế lên Tổng thư kí Liên Hợp

<b>Quốc phù hợp quy định Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc: </b>

Việc gửi bản đăng ký này đã hoàn toàn cho phép Qatar được quyền viện dẫn đến biên bản này lên trước Toà và có thể khẳng định rằng biên bản này đã có hiệu lực và giá trị pháp lý.

Với những lý do trên, Qatar khẳng định rằng Biên bản 1990 là những thỏa thuận quốc tế có tính ràng buộc và được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế, do đó ICJ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này.

Bahrain nhận định rằng việc đưa tranh chấp lên Tòa án cần có sự đồng ý, thống nhất của cả hai bên, việc Qatar đơn phương đưa tranh chấp lên Tòa án là không đúng, trái với thỏa thuận của Biên bản 1990. Qua đó, việc đâm đơn kiện của Qatar và quyết định của Tịa án sẽ khơng có hiệu lực nếu khơng có sự đồng ý của Bahrain.

Ngày từ đầu Bahrain cho rằng Biên bản 1990 không phải là một thỏa thuận quốc tế có tính ràng buộc và ý chí của các bên tham gia mới là yếu tố quan trọng cấu thành nên tính ràng buộc giữa các bên. Theo Bahrain, Biên bản năm 1990 chỉ là một văn kiện ngoại giao khơng có tính ràng buộc. Bộ trưởng Bộ ngoại giao Bahrain đã không kí vào văn bản đó nếu ơng biết được rằng văn bản đó sau này sẽ ràng buộc Bahrain vào một văn kiện quốc tế hay điều ước quốc tế có tính ràng buộc.

Hơn nữa, về phía Qatar cho đến thời điểm nộp đơn, Qatar cũng chưa bao giờ xem Biên bản 1990 là thỏa thuận quốc tế mang tính ràng buộc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Thứ nhất, trong Hiến pháp Qatar quy định việc một điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực pháp lý sau khi đã được kí kết, thơng qua và cơng khai. Tuy nhiên, phía Qatar khơng có bất kì động thái giải thích hợp lí hay bất kì hành động thơng qua hay cơng khai nào đến Bahrain. Nếu Qatar thực hiện theo đúng những gì Hiến pháp yêu cầu, thì mới chứng tỏ Qatar xem Biên bản 1990 là thỏa thuận quốc tế.

Thứ hai, Điều 17 Hiệp ước Liên hiệp các quốc gia Ả Rập quy định “The<small>4</small>

member States of the League shall file with the General Secretariat copies of all treaties and agreements which they have concluded or will conclude with any other State, whether a member of the League or otherwise - Các quốc gia thành viên của Liên minh phải nộp các bản sao của tất cả các hiệp ước và thỏa thuận mà họ đã ký kết hoặc sẽ ký kết với bất kỳ quốc gia nào khác cho Tổng thư ký, cho dù là thành viên của Liên minh hay không”. Nhưng Qatar cũng đã không thực hiện theo quy định trên.

Thứ ba, rõ ràng Qatar khơng có ý định xem các biên bản đó là thỏa thuận quốc tế bởi vì chỉ vài tuần trước khi nộp đơn kiện thì Qatar mới đăng kí Biên bản 1990 như là một Điều ước quốc tế cho Tổng thư kí Liên Hợp Quốc theo Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Hiếp pháp Bahrain quy định rằng: “Các điều ước liên quan đến các vấn đề lãnh thổ hoặc quyền chủ quyền chỉ có thể có hiệu lực khi được nội luật hóa”. Mặc dù Bộ trưởng Bộ ngoại giao Bahrain có đủ thẩm quyền kí nhưng Qatar phải chứng minh được rằng Biên bản 1990 sẽ có hiệu lực ràng buộc ngay sau khi kí. Vì những lí do trên, Bahrain lập luận rằng Biên bản 1990 khơng phải là thỏa thuận quốc tế có tính ràng buộc và được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế, do đó ICJ khơng có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này.

<b>1.3. Lập luận và phán quyết của tòa án</b>

Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong vụ kiện giữa Qatar và Bahrain dựa vào nội dung năm 1987 do Quốc vương Saudi Arabia đứng ra làm trung gian, nội dung Công thức Bahrain năm 1988 và những thỏa thuận mà hai bên đã kí kết để

<small>4</small>Liên hiệp các quốc gia Arab là một tổ chức khu vực của các quốc gia Arab nằm tại và xung quanh Bắc Phi, Sừng Châu Phi và bán đảo Ả Rập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

có thể đưa vấn đề tranh chấp của lên Tịa án Cơng lý Quốc tế (ICJ). Suy ra những văn bản trên là điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Qatar và Bahrain.

Nhận thấy rằng dựa vào các điều khoản của thỏa thuận trên, các bên đồng ý trình lên Tịa tồn bộ vụ tranh chấp của mình, như đã được kiến nghị bởi văn bản do Bahrain đề xuất với Qatar vào ngày 26/10/1988, được chấp thuận vào tháng 12/1990 và được nhắc tới trong Biên bản Doha 1990 với cái tên “Công thức Bahrain”. Quyết định trao cơ hội cho các bên để trình lên Tịa tồn bộ vụ tranh chấp. Ấn định ngày 30/11/1994 là thời hạn để tòa án đưa ra phán quyết của Qatar và Bahrain. Bảo lưu các vấn đề khác cho tới các quyết định tiếp sau.

Công thức Bahrain xác định rõ Qatar và Bahrain đều đồng ý Tòa án có thẩm quyền xét xử và giải quyết tranh chấp của hai bên.

Thứ nhất, Tòa án nhận thấy rằng Doha không đơn giản là biên bản. Trên thực tế, Biên bản 1990 liệt kê ra các cam kết mà các bên đã chấp thuận thực hiện. Đồng thời, thỏa thuận trên cho phép một bên đơn phương có thể yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp giữa hai bên.

Thứ hai, để trả lời cho nhận định của Bahrain, Tịa án khơng cho rằng việc xem xét ý định của Bộ trưởng Ngoại giao Bahrain hay Qatar là quan trọng.

Thứ ba, đồng thời bác bỏ lý lẽ của Bahrain cho rằng các hành động của hai nước cho thấy họ không hề coi Biên bản 1990 là một thỏa thuận quốc tế.

Thứ tư, Tòa án đồng thời ghi chú rằng vào thời điểm hiện tại Tòa chỉ có duy nhất bản đơn kiện của Qatar với những lập luận tuân thủ đúng trong khuôn khổ Công thức Bahrain (Bahrain formula).

Vì thế Biên bản 1990 tạo ra các quyền và nghĩa vụ trong luật quốc tế đối với các bên, cấu thành một thỏa thuận quốc tế. Qua đó có thể khẳng định cả hai bên đã chấp nhận việc Tịa án Cơng lý quốc tế có thẩm quyền quyết định các vấn đề chủ quyền trên biển và vấn đề biên giới biển giữa hai bên. Đơn kiện của Qatar đưa ra vào 08/07/1991 được chấp thuận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Thứ nhất, nhận thấy rằng các bức thư trao đổi giữa quốc vương Arab và tiểu vương Qatar vào ngày 19 và 21/12/1987, giữa quốc vương Arab với tiểu vương Bahrain vào ngày 19 và 26/12/1987 và văn bản với tựa đề “Biên bản” được bộ trưởng ngoại giao các nước Arab, Qatar và Bahrain ký kết tại Doha vào ngày 25/12/1990, là các thỏa thuận quốc tế (điều ước quốc tế) tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên.

Thứ hai, nhận thấy rằng dựa vào các điều khoản của thỏa thuận đó, các bên đồng ý trình lên Tịa tồn bộ vụ tranh chấp của mình, như đã được kiến nghị bởi văn bản do Bahrain đề xuất với Qatar vào ngày 26/10/1988 đã được chấp thuận vào tháng 12/1990 và được nhắc tới trong Biên bản Doha 1990 với cái tên “Công thức Bahrain”.

Thứ ba, quyết định trao cơ hội cho các bên để trình lên Tịa tồn bộ vụ tranh chấp. Thứ tư, ấn định ngày 30/11/1994 là thời hạn để các bên có hành động, dù chung hay riêng rẽ, để đạt đến mục tiêu này.

Thứ năm, bảo lưu các vấn đề khác cho tới các quyết định tiếp sau.

<b>II. TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM2.1. Quan điểm của các học giả về vụ án</b>

Về vấn đề giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa Qatar và Bahrain, Tiến sĩ Krista E. Weigand – Phó Giáo sư khoa Khoa học Chính trị Đại học Georgia nhận xét đây thực chất là một mơ hình về mức độ lợi ích kinh tế và sự dự kiến hợp tác về các vấn đề nổi bật có thể ảnh hưởng đến các quốc gia tranh chấp, vậy nên cả hai phía cần thử cố gắng giải quyết tranh chấp trong hồ bình, tiêu biểu là thơng qua giải quyết của ICJ. Bà cũng giải thích lí do Qatar và Bahrain sẵn sàng giải quyết tranh chấp tại ICJ, chấp nhận phán quyết và quan trọng nhất là thi hành các kết luận của Tòa án. Bà lập luận rằng ba yếu tố chính thúc đẩy hai bên chấp nhận phương pháp giải quyết tranh chấp thông qua phán quyết của ICJ là:

Đầu tiên, sự bất lực của các quốc gia theo luật Ả Rập Hồi giáo và GCC làm trung gian tranh chấp.

Tiếp theo, trữ lượng dầu và khí tự nhiên đáng kể là động lực thúc đẩy hai bên chấp nhận giải quyết tranh chấp tại ICJ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Cuối cùng, động lực khích lệ song phương, hợp tác khu vực về các vấn đề nổi bật giữa hai quốc gia.

Tranh chấp lãnh thổ khơng chỉ ngăn chặn sự tiếp cận an tồn cho mọi quốc gia đối với những gì được dự kiến sẽ đóng vai trị quan trọng: dầu mỏ và khí đốt. Nhưng cả hai quốc gia đã nhận ra rằng nếu họ không giải quyết tranh chấp lãnh thổ, họ sẽ không thể hưởng lợi từ sự hợp tác trong rất nhiều lĩnh vực nổi bật khác, về cả song phương và khu vực. Chính những nguyên nhân này đã thúc đẩy Bahrain và Qatar chấp nhận đưa tranh chấp của họ ra ICJ để được Toà này giải quyết. Sau rất nhiều cuộc đàm phán song phương nhưng nỗ lực hịa giải của thất bại của chính 2 phía trong cuộc.

Tranh chấp hàng hải và lãnh thổ giữa Qatar và Bahrain là một phần của nhiều tranh chấp kéo dài từ các phần lãnh thổ và ranh giới trên biển ở khu vực Vịnh Ba Tư. Qatar và Bahrain đang cố gắng giải quyết tranh chấp lâu nay của họ đối với quần đảo Hawar, bãi cạn Dibai và Qit'at Jaradah. Quốc vương Saudi Aribia - phía trung gian, người đã cố gắng hòa giải và đã thành công trong việc thuyết phục các bên đem vụ tranh chấp ra phía trọng tài hoặc giải quyết tranh chấp tư pháp. Năm 1983, hai bên cùng đồng ý tham khảo ý kiến của Saudi Arabia về việc sẽ tìm kiếm một phán quyết ràng buộc của bên thứ ba nếu các cuộc đàm phán thất bại. Năm 1987, Qatar và Bahrain tiếp tục đồng ý với các đề xuất của Saudi để đưa vụ việc của họ lên Tịa án Cơng lý Quốc tế. Điều này và các nghĩa vụ khác đã được xác nhận lại trong biên bản đã được thống nhất trong cuộc họp năm 1990 giữa các bên. Đồng thời, họ cũng đồng ý rằng sau một thời gian nhất định, “các bên có thể đệ trình vấn đề lên Tịa án Cơng lý Quốc tế”. Vậy nên, những gì Qatar đã làm là đúng theo quy định. Về phía luật sư/cố vấn/trọng tài độc lập người Mỹ Stephen M. Schwebel, ngài cho rằng phía Tịa án đã khơng kiểm tra kỹ lưỡng việc soạn thảo Biên bản Doha năm 1990, trong đó khả năng rõ ràng cho mỗi bên để chiếm giữ Tòa án đã được sửa đổi thành một văn bản chỉ có nghĩa là “các bên”. Yếu tố này của “travaux Prepatoires” đã khiến Thẩm phán Schwebel đưa ra kết luận và loại trừ một yêu cầu đơn phương.

Ngài Shigeru Oda - luật sư nổi tiếng của Nhật Bản đồng thời giữ chức Thẩm phán của Tồ án Cơng lý Quốc tế lúc bấy giờ lại cho rằng Biên bản Doha không cấu thành một thỏa thuận trong Khoản 1 Điểu 36 của Điều lệ của Tòa án. Thẩm phán Pieter Kooijmans nhận xét, thuật ngữ “al-tarafan” và lịch sử soạn thảo phải

</div>

×