Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập nhóm môn Luật Dân sự Việt Nam 1 - EL12. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.75 KB, 17 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO E-LEARNING

<b>BỘ MÔN LUẬT DÂN SỰ</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Sưu tầm 01 bản án về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo đã được Tịa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết. u cầu:

1. Đính kèm tồn văn 01 bản án trong bài tập nhóm (đây là phần phụ lục của bài tập).

2. Tóm tắt nội dung bản án (yêu cầu: không quá 02 trang A4/bản án). 3. Nêu các vấn đề pháp lý được giải quyết trong từng bản án.

4. Nêu quan điểm của nhóm về nội dung giải quyết của Tòa án (đối với các bản án khơng áp dụng BLDS năm 2015 thì nhóm liên hệ với quy định của Bộ luật để Bình luận việc áp dụng quy định BLDS năm 2015 vào giải quyết bản án có điểm giống và khác gì với quy định luật được áp dụng trong bản án).

5. Đính kèm 02 ảnh chụp phần thảo luận của nhóm tại chủ để thảo luận được CVHT (LHP) tạo trên Diễn đàn thảo luận lớp môn (đây là phần phụ lục của bài tập)

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN 2</b>

<b>NỘI DUNG BẢN ÁN VÀ CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ</b>

<b>1. Tóm tắt nội dung bản án: Bản án số 13/2021/DS-ST ngày 26/01/2021</b>

<i><b>1.1 Nguyên đơn: Ông Dương Minh T, sinh năm 1980 (có mặt); Bà Trần Lệ</b></i>

Th, sinh năm 1976 (có mặt). Cùng địa chỉ: đường L, khóm N, phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn Ni – Văn phịng Luật sư Ánh Sáng thuộc đồn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

<i><b>1.2. Bị đơn: Bà Tạ Hồng L, sinh năm 1970. Địa chỉ: Đường H, khu L, khóm</b></i>

S, phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trương L, sinh năm 1981 (xin vắng mặt) theo văn bản ủy quyền ngày 12/8/2020. Địa chỉ: Ấp B, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

<i><b>1.3 Nội dung vụ án: </b></i>

<i>Theo đơn khởi kiện ngày 21/7/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án đượcbổ sung tại phiên tịa ngun đơn ơng Dương Minh T, bà Trần Lệ Th trình bày:</i>

Vào năm 2017, vợ chồng ơng có tham gia chơi hụi do bà Tạ Hồng L làm chủ. Khi phát sinh tranh chấp với bà L, vợ chồng ông khởi kiện bà L và được Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau thụ lý giải quyết bằng bản án sơ thẩm số 173/2019/DS-ST ngày 30/10/2019 buộc bà L thanh toán cho vợ chồng ông số tiền nợ hụi là 380.243.500đ. Sau đó bà L kháng cáo và được Tịa án nhân dân tỉnh Cà Mau giải quyết bằng bản án số 15/2020/DS-PT ngày 11/02/2020, buộc bà L thanh toán cho vợ chồng ông T số tiền là 363.929.000đ. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, vợ chồng ơng làm đơn yêu cầu thi hành án thì được biết bà Tạ Hồng L đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T' bằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/01/2019 tại Văn phịng Cơng chứng Minh Hải. Xét thấy việc làm của bà L là nhằm tẩu tán tài sản, trốn

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên nay vợ chồng ông yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Tạ Hồng L với ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T' ngày 07/01/2019 tại Văn phịng Cơng chứng Minh Hải theo số Cơng chứng số 117 quyển số 01/TP/CCSCC/HĐGD.

<i><b>1.4. Quyết định của Tòa án dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau: </b></i>

- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 07/01/2019 giữa bà Tạ Hồng L với ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T' phần đất có diện tích 100m<small>2</small> thửa số 763, tờ bản đồ số 4 tọa lạc tại phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau được Văn phịng cơng chứng Minh Hải chứng thực ngày 07/01/2019 vô hiệu.

- Buộc bà Tạ Hồng L hồn trả cho ơng Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T' số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Kể từ ngày ơng Q, bà T' có đơn u cầu thi hành án, nếu bà L không thi hành xong khoản tiền trên, thì cịn phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành. Các đương sự liên hệ cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai để làm thủ tục điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 100m<small>2</small> thửa số 763, tờ bản đồ số 4 tọa lạc tại phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau theo quy định.

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Tạ Hồng L phải chịu án phí 300.000đ (Chưa nộp). Ơng Dương Minh T, bà Trần Lệ Th khơng phải chịu án phí, ngày 22/7/2020 ơng T, bà Th đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai thu số 0002193 được hoàn lại tồn bộ khi án có hiệu lực pháp luật.

<b>2. Các vấn đề pháp lý được giải quyết trong từng bản án</b>

Trong bản án đã giải quyết các vấn đề pháp lý như sau:

- Thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau là Tịa án nơi có bất động sản liên quan đến thỏa thuận mua bán, đặt cọc.

- Quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết: tranh chấp hợp đồng dân sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Xét xử vắng mặt người đại diện của bị đơn: Bị đơn bà Tạ Hồng L đã có văn bản ủy quyền ngày 12/8/2020 cho ông Trương L là đại diện hợp pháp. Tại ngày xét xử, ơng Trương L có đơn xin vắng mặt.

- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thiết lập ngày 07/01/2019 giữa bà Tạ Hồng L với ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T' về việc chuyển nhượng tồn bộ quyền sử dụng đất diện tích 100m<small>2</small> tọa lạc tại phường M, thành phố Cà Mau cho ông Q chưa thỏa mãn yêu cầu pháp lý về nội dung (chỉ thỏa thuận chuyển nhượng đất nhưng không thỏa thuận về tài sản trên đất là căn nhà xây dựng kiên cố không thể tháo dỡ di dời), có giá chuyển nhượng và giá thực tế có sự chênh lệch rất cao (khoảng 6 lần), được thực hiện trong khi bà L biết được bản thân mình còn nợ người khác nên việc xác lập giao dịch này là giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

- Xử lý hậu quả pháp lý: bà Tạ Hồng L hoàn trả cho ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T' số tiền tương ứng giá trị chuyển nhượng trong hợp đồng. Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án

- Trách nhiệm chi trả án phí: Tịa án chấp nhận tồn bộ yêu cầu của nguyên đơn nên bị đơn phải chịu trách nhiệm chi trả tồn bộ án phí.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>PHẦN 3</b>

<b>QUAN ĐIỂM CỦA NHĨMQuan điểm của nhóm về nội dung giải quyết của Tịa án</b>

Qua phân tích về sự việc và căn cứ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật Đất đai số 45/2013/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ta có thể thấy các nội dung giải quyết của Tịa án hồn tồn đúng theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể như sau đối với từng vấn đề pháp lý:

<i><b>1.1. Thẩm quyền giải quyết vụ án – quan hệ tranh chấp cần giải quyét</b></i>

Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015 có những quy định như sau:

- Khoản 3 Điều 26 - Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

<i>“1. Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.2. Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.</i>

<i><b>3. Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.”</b></i>

- Điểm a khoản 1 Điều 35 - Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện:

<i>“1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ</i>

<i><b>thẩm những tranh chấp sau đây: a) Tranh chấp về dân sự, hơn nhân và gia đình</b></i>

<i><b>quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại</b></i>

<i>khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;”</i>

- Điểm c khoản 1 Điều 39 - Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ:

<i>“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xácđịnh như sau:</i>

<i>a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơncó trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;</i>

<i>b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản u cầu Tịấn nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụsở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranhchấp về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy địnhtại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;</i>

<i><b>c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tịa án nơi có bất động sản</b></i>

<i><b>có thẩm quyền giải quyết.”</b></i>

Ơng Dương Minh T, bà Trần Lệ Th khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Tạ Hồng L với ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T' nên quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết là tranh chấp hợp đồng dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối tượng tranh chấp trong trường hợp này là phần đất có diện tích 100m<small>2</small> thửa số 763, tờ bản đồ số 4 tọa lạc tại phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

<i><b>1.2. Thủ tục xét xử vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị đơn:</b></i>

Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015 quy định như sau:

<i>“Điều 227. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền vàlợi ích hợp pháp của đương sự</i>

<i><b>1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của</b></i>

<i><b>họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiêntịa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỗn phiên tịa, trừ trườnghợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.</b></i>

Bị đơn bà Tạ Hồng L đã có văn bản ủy quyền ngày 12/8/2020 cho ơng Trương L là đại diện hợp pháp. Tại ngày xét xử, ông Trương L vắng mặt nhưng đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử đủ điều kiện tiến hành xét xử theo điểm Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự.

<i><b>1.3. Giao dịch dân sự vô hiệu </b></i>

Vào năm 2017, vợ chồng ông Dương Minh T, bà Trần Lệ Th có tham gia chơi hụi do bà Tạ Hồng L làm chủ. Khi phát sinh tranh chấp với bà L, vợ chồng ông khởi kiện bà L và được Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau thụ lý giải quyết bằng bản án sơ thẩm số 173/2019/DS-ST ngày 30/10/2019 buộc bà L thanh tốn cho vợ chồng ơng số tiền nợ hụi là 380.243.500đ. Sau đó bà L kháng cáo và được Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau giải quyết bằng bản án số 15/2020/DS-PT ngày 11/02/2020, buộc bà L thanh tốn cho vợ chồng ơng T số tiền là 363.929.000đ.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, vợ chồng ông làm đơn yêu cầu thi hành án thì được biết bà Tạ Hồng L đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T' bằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Tạ Hồng L với ông Triệu Kiến Q và bà Trần Thị T' ngày 07/01/2019 tại Văn phịng Cơng chứng Minh Hải theo số Công chứng số 117 quyển số 01/TP/CCSCC/HĐGD.

Ông Dương Minh T, bà Trần Lệ Th cho rằng việc bà Tạ Hồng L ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L và ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T' nhằm tẩu tán tài sản và trốn tránh nghĩa vụ thi hành án đối với phần nợ của ơng bà. Do đó, ngun đơn yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L với ông Q, bà T' xác lập ngày 07/01/2019. Ơng L, ơng Q, bà T' xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L với ông Q, bà T' thực hiện đúng theo quy định pháp luật và hợp đồng này được xác lập ngày 07/01/2019 trước khi Bản án số 173/2019/DS-ST ngày 30/10/2019 và bản án số 15/2020/DS-PT ngày 11/02/2020 có hiệu lực pháp luật. Do đó, bà L, ông Q, bà T' không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông T, bà Th.

Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thiết lập ngày 07/01/2019 giữa bà Tạ Hồng L với ông Triệu Kiến Q, bà Trần Thị T' về việc chuyển nhượng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tồn bộ quyền sử dụng đất diện tích 100m<small>2</small> tọa lạc tại phường M, thành phố Cà Mau cho ông Q, bà T' được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận chỉnh lý sang tên vào ngày 19/7/2019. Hội đồng xét xử xét thấy, nội dung và hình thức được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, Điều 188 Luật Đất đai số 45/2013/ QH13 quy định như sau:

<i>“Điều 188. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, chothuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằngquyền sử dụng đất</i>

<i>1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốnbằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:</i>

<i>a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 vàtrường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;</i>

<i>b) Đất khơng có tranh chấp;</i>

<i>c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;d) Trong thời hạn sử dụng đất.</i>

<i>2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khithực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằngquyền sử dụng đất cịn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190,191, 192, 193 và 194 của Luật này.</i>

<i><b>3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặngcho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại</b></i>

<i><b>cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địachính.”</b></i>

Như vậy, hợp đồng giữa bà L, ơng Q, bà T' có hiệu lực từ ngày 19/7/2019, trong khi ông T, bà Th đã khởi kiện bà L và được Tòa án thụ lý vào ngày

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

12/6/2019, điều này cho thấy bản thân bà L biết được việc khởi kiện tại Tòa án về nợ tiền hụi.

Mặt khác, qua thẩm định thực tế tại phần đất chuyển nhượng có 01 căn nhà một trệt, một lầu, cấp giấy phép xây dựng kiên cố từ năm 2017 hiện bà L đang quản lý và sinh sống, cho thấy khi các bên thỏa thuận chuyển nhượng phần đất nhưng không thỏa thuận về tài sản trên đất, bởi nhà ở phải kèm theo đất, căn nhà xây dựng kiên cố bà L không thể tháo dỡ di dời đi nơi khác khi đã chuyển nhượng đất cho người khác, do đó khi thỏa thuận chuyển nhượng phải có sự đề cặp căn nhà trong hợp đồng. Vì vậy hợp đồng chưa thỏa mãn về nội dung.

Ngoài ra, tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/01/2019 thể hiện giá chuyển nhượng là 200.000.000đ. Tuy nhiên, tại biên bản xem xét, thẩm định tại chổ bà L xác định giá chuyển nhượng là 1.200.000.000đ, giá thị trường tại thời điểm xét xử là gần 4.000.000.000đ. Trong khi giá quy định của Công ty Licogi vào năm 2019 là 800.000.000đ. Mặc dù đương sự có quyền tự quyết định về giá khi chuyển nhượng nhưng việc này thể hiện giá chuyển nhượng và giá thực tế các bên giao dịch có sự chênh lệch khá cao, trong khi bà L biết được bản thân mình cịn nợ người khác, điều này chứng minh rằng xác lập giao dịch dân sự là giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

Ông T, bà Th khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do xuất phát từ việc bà L phải thực hiện nghĩa vụ trả 363.929.000đ tiền hụi cho ông T, bà L. Từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bà L chưa thi hành cho ông T, bà Th khoản tiền nào. Hơn nữa, hiện bà L đang ở căn nhà gắn liền với phần đất có diện tích 100m<small>2</small>, bà L trình bày do bà thuê lại từ ông Q, bà T' giá thuê là 3.000.000đ/tháng khi thuê không làm hợp đồng; trong khi ông Q, bà T' khai cho bà L th giá 5.000.000đ/tháng có làm giấy tay, ơng Q, bà T' cũng không cung cấp hợp đồng cho thuê nhà để chứng minh cho trình bày của mình, trong khi bà L là người thuê xác định không lập hợp đồng. Hơn nữa, quá trình thụ lý giải quyết bà L, ông Q, bà T' khai cho bà L thuê lại nhà để sinh sống, trong khi theo hợp đồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì căn nhà vẫn còn quyền quản lý và sở hữu của bà L. Điều này thể hiện các bên khai có sự mâu thuẫn nhau về giá và hình thức hợp đồng, điều này cho thấy việc các bên thỏa thuận cho thuê nhà là không xảy ra trên thực tế.

Bộ luật dân sựsố 91/2015/QH13ngày 24/11/2015 quy định:

<i>“Điều 124. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo</i>

<i>1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu mộtgiao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch dân sự bịche giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vơ hiệu theo quy địnhcủa Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.</i>

<i><b>2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ</b></i>

<i><b>với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vơ hiệu.”</b></i>

Như vậy theo khoản 2 Điều 124 Bộ luật dân sự thì giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/01/2019 giữa bà L, ông Q, bà T' là giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.

<i><b>1.4. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu</b></i>

Bộ luật dân sựsố 91/2015/QH13ngày 24/11/2015 quy định như sau:

<i>“Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu</i>

<i>1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.</i>

<i><b>2. Khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng banđầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp khơng thể hồn trả được</b></i>

<i>bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hồn trả.</i>

<i>3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoalợi, lợi tức đó.</i>

<i>4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.”</i>

Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/01/2019 giữa bà L, ông Q, bà T' là giao dịch dân sự vô hiệu nên theo Khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự,

</div>

×