Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Luận Văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.81 KB, 44 trang )



2














Luận Văn
Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh
hàng nông thủy sản xuất khẩu của nước ta
















3

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN CHỦ ĐẠO CỦA NƯỚC TA
TRONG NHỮNG NĂM QUA
I-Khả năng để sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất
khẩu:
1-Điều kiện tự nhiên:
a-Tiềm năng đất đai:
Lãnh thổ Việt Nam có diện tích là 331.688 km2
(1)
, xấp xỉ 33 triệu ha,
trong đó vùng miềm núi và trung du chiếm gần 3/4 diện tích. Quỹ đất canh tác
hiện nay là 8,2 triệu ha và có thể mở rộng diện tích canh tác lên 10 triệu ha hoặc
cao hơn; trong đó có một phần đất bằng, đa số là đất dốc dưới 15 độ. Diện tích
đất canh tác hiện nay chiếm 25,1% tổng diện tích, trong đó diện tích canh tác
lúa đạt 4,2 triệu ha, diện tích gieo trồng là 6,8 triệu ha chiếm tỉ lệ 51,2%; diện
tích trồng cà phê là 310.000 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 3,77%; diện tích trồng
cao su là 363.400 ha (năm 1998) chiếm tỉ lệ 4,42%
(2)
; diện tích nuôi trồng thủy
sản là 372.000 ha.
Diện tích nước ta vào loại trung bình trên thế giới (đứng thứ 56 / hơn 200
quốc gia), nhưng do dân số đông nên bình quân đất đai tính theo đầu người chỉ
đạt 0,5 ha/ người (năm 1992) và bình quân đất canh tác là 0,1 ha / người.

Đất đai nước ta rất phức tạp và đa dạng về loại hình, nhưng chủ yếu phân
thành hai nhóm: nhóm đất núi và nhóm đất hình thành trên sản phẩm bồi tụ.
Nhóm thứ nhất chiếm khoảng 1/2 diện tích tự nhiên với hơn 16,5 triệu ha
chủ yếu là các loại đất feralit. Loại đất này được hình thành trong quá trình
phong hoá nhiệt đới, có tầng đất sâu, dày, ít mùn, chua và thường có mầu vàng

(1): Địa lý kinh tế Việt Nam PGS -PTS Lê Thông - 1997
(2): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9


4

đỏ. Đất feralit đặc biệt là đất đỏ bazan (có hơn 2 triệu ha ở Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ) thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp dài ngày
trong đó có cà phê, cao su.
Nhóm đất thứ hai tập trung ở các châu thổ và dọc theo các thung lũng
rộng lớn. Đây là loại đất trẻ mầu mỡ. Trong nhóm đất này thì phì nhiêu hơn cả
là đất phù sa với diện tích 3,12 triệu ha, phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông
Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Loại đất này có độ PH trung tính, hàm
lượng dinh dưỡng khá thích hợp cho việc trồng lúa và nhiều loại cây khác.
Hiện nay, quỹ đất mà chúng ta đã đưa vào sử dụng (cho mục đích nông
nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng và cư trú) là 18.881.240 ha
(1)
, chiếm khoảng
57% tổng quỹ đất; đất chưa sử dụng là 14.217.845 ha
(2)
, chiếm 43%. Quỹ đất
thuận lợi cho trồng lúa hầu như đã khai thác hết. Để nâng cao sản lượng lúa,
nông dân chỉ còn cách tăng vụ để nâng cao hệ số sử dụng đất và đầu tư thâm

canh. Quỹ đất thuận lợi cho trồng cây công nghiệp dài ngày có hơn 2 triệu ha,
song mới chỉ khai thác được rất ít chủ yếu là cao su (363.400 ha năm 1998), cà
phê (310.000 ha năm 1998)
(3)
. Tóm lại, quỹ đất của chúng ta không nhiều song
đất đai lại thuận lợi cho việc trồng lúa và cây công nghiệp dài ngày. Nếu chúng
ta biết quản lý và sử dụng tốt quỹ đất hiện có thì sản lượng sẽ không ngừng
được tăng lên.







(1), (2), (4), (5): Địa lý kinh tế Việt Nam - Lê Thông -1997
(3): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp –Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9.



5

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I THỰC TRẠNG SẢN XUẤT MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG THỦY SẢN CHỦ
ĐẠO CỦA NƯỚC TA

3

1.1 Lư luận về cạnh tranh 3
1.1.1 Định nghĩa cạnh tranh 3
1.1.2 Phõn loại cạnh tranh 5
1.1.2.1 Căn cứ vào cỏc chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường 5
1.1.2.2 Căn cứ vào tính chất và mức độ 6
1.1.2.3 Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế 6
1.1.3 Tỏc động của cạnh tranh đối với nền kinh tế 7
1.2 Lư luận về năng lực cạnh tranh 9
1.2.1 Định nghĩa năng lực cạnh tranh 9
1.2.2 Cỏc tiờu chớ đánh giá năng lực cạnh tranh 10
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh : 13
1.2.3.1 Cỏc nhõn tố bờn ngoài doanh nghiệp 13
1.2.3.2 Cỏc nhõn tố bờn trong 14


6

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN
XUẤT KHẨU VIỆT NAM 15
2.1 T́nh h́nh xuất khẩu nông sản Việt Nam 15
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của nụng sản xuất khẩu Việt Nam 25
2.3 Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam 31
2.3.1 Những thành tựu đă đạt được 31
2.3.2 Những tồn tại 32
2.3.3 Nguyờn nhõn của tồn tại 34
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN
XUẤT KHẨU VIỆT NAM. 36
KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO






b-Tiềm năng nước và khí hậu:
Nước cũng như đất là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia nói chung và của
nền nông nghiệp nói riêng. Tài nguyên nước của Việt Nam khá phong phú bao
gồm nước trên mặt và nước dưới đất.
Hàng năm, lượng nước mưa cung cấp cho lãnh thổ nước ta trên 900 tỷ m3
nước
(4)
. Lượng mưa lớn đã tạo cho nước ta một mạng lưới sông ngòi dày đặc
với 2345 con sông
(5)
dài trên 10 km, mật độ sông ngòi là 0,5-2,0 km/km2, trung
bình cứ 20 km bờ biển lại có một cửa sông. Tổng lượng dòng chảy hàng năm


7

phát sinh trên đất nước ta là 317 tỷ m3
(1)
. Xét về mặt hoá tính, nước sông ngòi
Việt Nam có chất lượng tốt, độ khoáng hoá thấp, ít biến đổi, độ PH trung tính và
hàm lượng chất hữu cơ thấp.
Nguồn nước trên mặt của nước ta khá dồi dào nên chỉ cần khai thác 10-
15% trữ lượng nói trên là đảm bảo nhu cầu cho sản xuất và đời sống. Hiện nay,
nông nghiệp là ngành tiêu thụ nhiều nước nhất. Mức tiêu thụ năm 1990 là 47 tỷ
m3, năm 2000 là 60,5 tỷ m3. Tuy nhiên, do tổng lượng dòng chảy sông ngòi lớn
lại phân bố không đều, mùa mưa lượng dòng chảy chiếm tới 70-80%, mùa khô

chỉ chiếm 20-30% tổng lượng dòng chảy cả năm nên lũ lụt, hạn hán là mối đe
doạ thường xuyên đối với sản xuất nông nghiệp.
Nguồn nước ngầm ở nước ta có trữ lượng khá lớn, có thể cho sản lượng
130 triệu m3/ ngày.
Có thể nói, tiềm năng nước của chúng ta còn khá dồi dào, đủ cung cấp
cho mọi hoạt động trong đó có nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nước
đang bị nạn ô nhiễm đe doạ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng
của cây và độ an toàn vệ sinh thực phẩm.
Khí hậu gió mùa mang tính chất chí tuyến ở phía Bắc và tính chất xích
đới ở phía Nam là một khả năng lớn để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng,
toàn diện.
Tác động của khí hậu đối với nông nghiệp nước ta trước hết là việc cung
cấp một lượng bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho
cây trồng phát triển, đảm bảo cho cây có năng suất cao. Tiếp đó lượng ẩm
không khí và lượng mưa dồi dào tạo điều kiện cho cây trồng tái sinh, tăng
trưởng mạnh mẽ. Điều kiện sinh thái nóng ẩm giúp cho cây ngắn ngày có thể
tăng thêm một đến hai vụ một năm, cây dài ngày có thể khai thác được nhiều
đợt, nhiều lứa.
Khí hậu nước ta phân hoá mạnh theo chiều Bắc-Nam và theo độ cao. Khí
hậu miền Bắc có tính á nhiệt đới, miền Nam có tính á xích đạo, miền Trung có

(1): Địa lý kinh tế Việt Nam Lê Thông 1997


8

tính chất trung gian, chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và miền Nam. Sự phân
hoá theo vĩ độ và độ cao cho phép nước ta trồng được nhiều loại cây, cả cây
nhiệt đới, ôn đới, á nhiệt.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp cần rất nhiều loại phân bón mà các hộ

nông dân ở nước ta đều có thể sản xuất các loại như phân chuồng, phân
xanh hoặc phân chế biến từ dầu thô mà dầu ở nước ta lại có trữ lượng lớn chưa
khai thác hết công suất hay chế biến từ quặng (quặng Apatít ở Lào Cai).
Nước ta có 3260 km đường bờ biển, hàng nghìn km2 diện tích mặt hồ, ao,
đầm, sông ngòi để đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Thủy hải sản nước ta có
nhiều loại phong phú có giá trị xuất khẩu cao.như: cá ngừ, cá thu, cá mực, tôm
hùm, tôm sú. Cá nước ngọt thì có cá basa, cá tra, ngọc trai
Tóm lại, điều kiện tự nhiên của nước ta là cơ sở khá thuận lợi để chúng ta
tăng cường phát triển sản xuất nông sản phục vụ nhu cầu cuộc sống và xuất
khẩu.
2-Tiềm năng lao động:
Theo số liệu thống kê của cuộc tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước
ta là 76,37 triệu người. Lực lượng lao động là 46 triệu người chiếm xấp xỉ 60%
dân số. Có tới gần 80% dân số sống ở nông thôn, trong đó lực lượng lao động ở
nông thôn khoảng 33 triệu người chiếm 72% lao động toàn xã hội. Do tỉ lệ tăng
dân số hiện nay giảm xuống còn 1,7%/năm nên hàng năm có khoảng 1,3 triệu
người
(1)
tham gia lực lượng lao động trong đó lao động nông thôn chiếm khoảng
1 triệu người. Lao động nông nghiệp Việt Nam như vậy là quá ư dồi dào, có
truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh, ham học hỏi. Người nông dân Việt
Nam chủ yếu là làm nông nghiệp, gắn bó với mảnh đất của mình nên tích lũy
được nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Song do phần lớn trong số này
có trình độ tương đối thấp nên khả năng tiếp nhận, ứng dụng các thành tựu khoa
học nông nghiệp còn chậm. Tuy nhiên, từ sau khi đất nước đổi mới đến nay, đời

(1): Nguồn nhân lực Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - Hà Quý Tình. Tạp chí Cộng
sản số 7 (4/1999) trang 21




9

sống kinh tế khá lên, một bộ phận lớn nông dân nhất là lao động trẻ đã học qua
phổ thông, có đủ trình độ tiếp nhận và tham gia các chương trình khuyến nông
khá hiệu quả; nghiên cứu các giống mới, môi trường sinh thái mới để nuôi trồng
và áp dụng ở một số vùng một cách rất thành công.
3-Chính sách phát triển nông ngư nghiệp, nông thôn của Nhà nước:
Một thời kì dài, nền nông nghiệp của nước ta phát triển rất chậm, cơ cấu
không phù hợp, sản lượng thấp, cung không đáp ứng được cầu. Từ sau thời kì
đổi mới, nền nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc. Khoán 10 là một thí dụ
sinh động về ảnh hưởng của chủ chương, chính sách của Nhà nước đến sự phát
triển của nông nghiệp. Khoán 10 cho phép các hộ nông dân được tự do canh tác
trên mảnh đất của mình, được đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật nhằm đạt sản lượng cao, chất lượng tốt. Các hộ nông dân chỉ phải đóng
thuế theo định mức cho Nhà nước và trả tiền các dịch vụ mà họ sử dụng. Thực
tế, hình thức khoán này đã khuyến khích được nông dân tăng cường đầu tư, tăng
năng suất lao động, làm lợi cho mình và làm lợi cho xã hội.
Sau khoán 10, năm1994 Nhà nước lại ban hành Luật đất đai, trong đó quy
định thời gian sử dụng ruộng đất kéo tới 30 năm. Nông dân có quyền bán,
nhượng lại, thừa kế Điều này đã làm cho họ gắn bó với mảnh ruộng hơn, yên
tâm với sản xuất. Đại hội Đảng khoá VIII đã đề ra chủ trương đưa đất nước ta
vào thời kỳ CNH-HĐH; trong đó có một vấn đề quan trọng là CNH-HĐH nông
nghiệp và phát triển nông thôn. Để thực hiện chiến lược này, Nhà nước đã đề ra
một loạt các chính sách như chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách khuyến
nông, phát triển khoa học công nghệ, chính sách ưu đãi tín dụng, chính sách hỗ
trợ giá nông sản, quy định giá trần, giá sàn.
Ngoài ra, Nhà nước còn có các chương trình và mô hình như : chương
trình giải quyết việc làm, chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, chương
trình tăng cường y tế và giáo dục cơ sở, mô hình điện, đường, trường, trạm Tất

cả các chương trình này có một ý nghĩa và hiệu quả tích cực đối với sự phát
triển của nông nghiệp và nông thôn. Năm 1999, tổng vốn đầu tư cho nông


10

nghiệp nông thôn của Nhà nước tăng gấp rưỡi đất với năm 1998
(1)
, chủ yếu tập
trung vào các công trình thuỷ lợi, giao thông, điện và các công trình phúc lợi
khác. Công tác nghiên cứu, tìm tòi các giống cây, con mới cũng được đẩy mạnh
và đạt nhiều thành tựu. Công tác chăm sóc bảo vệ thực vật, động vật cũng được
quan tâm chú ý; đã có Chương trình trồng 5 triệu ha rừng với số vốn dự tính là
hơn 30.000 tỷ đồng (thực tế năm 1999 chỉ chi 328 tỷ đồng), Chương trình 135
giao cho xã làm chủ dự án. Sự ra đời của các dịch vụ nông nghiệp như cung ứng
giống, phân bón, thuốc trừ sâu, vận tải, vật liệu đã góp phần rất lớn vào sự thành
công của nông nghiệp Việt Nam trong mấy năm gần đây.
Đối với ngành thủy sản thì năm năm qua là thời kì phát triển mới của
ngành. Với phương châm kết hợp giữa khai thác với nuôi trồng và chế biến xuất
khẩu đã làm tăng chất lượng và hiệu quả sản xuất gắn với bảo vệ tài nguyên môi
trường. Thực hiện phương châm đó, một mặt Nhà nước khuyến khích các thành
phần kinh tế, khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm; mặt khác tập
trung vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản, tập trung nguồn
vốn ngân sách cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chế biến
thủy sản; ứng dụng tiến bộ sinh học trong chọn và lai tạo giống đi đôi với công
nghiệp hoá sản xuất thức ăn, mở rộng nuôi các loại thủy sản có giá trị tiêu dùng
và xuất khẩu khác như nghêu (Trà Vinh, Bến Tre), sò huyết (Kiên Giang, Bạc
Liêu, Cà Mau, duyên hải miền Trung), ba ba, ếch Phát triển công nghiệp chế
biến thủy sản theo chiều sâu, gắn với xuất khẩu.
II-Tình hình sản xuất một số mặt hàng nông thủy sản xuất khẩu

trong mấy năm gần đây:
1-Tình hình sản xuất lúa gạo:
Việt nam là một nước nông nghiệp, có tập quán canh tác lúa nước lâu đời.
Cây lúa là sản phẩm chính của nền nông nghiệp. Nó không những góp phần bảo

(1): Khoa học và công nghệ phục vụ CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn-Đặng
Hữu-Tạp Chí Cộng sản số 17 (9/2000) trang 34



11

đảm đời sống cho nhân dân, mà trong thời kỳ hiện nay nó còn góp một phần rất
lớn vào giá trị tổng kim ngạch xuất khẩu thúc đẩy sự nghiệp CNH- HĐH đất
nước. Nhờ có các chính sách đổi mới mà sản lượng lúa gạo đã tăng hàng năm.

Bảng 1: Tình hình sản xuất lúa gạo một số năm

Năm 1991

1992

1993

1994

1995 1996 1997 1998 1999 2000
Sản lượng
(Triệu tấn)
19,6 21,6 22,8 23,5 24,9 26,4 27,6 29,1 31,4 32,8

% so sánh 100 110 106 103 106 106 104,5 105,4 108 104,5

Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương Mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9
Bảng trên cho thấy, tỉ lệ tăng tổng sản lượng lúa gạo qua các năm tuy
không ổn định (một phần do thiên tai , lũ lụt) nhưng tăng khá cao, trung bình
5,9% /năm. Tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ tăng dân số trung bình hàng năm (1,8%) nên
đảm bảo đủ cung cấp cho nhu cầu trong nước và dư thừa để xuất khẩu. Trong
10 năm từ 1991 đến 2000, sản lượng lúa gạo đã tăng được 13,2 triệu tấn , một
mức tăng kỉ lục từ trước đến nay.
Sản lượng lúa gạo trong những năm qua tăng lên chủ yếu do hai yếu tố là
do tăng diện tích canh tác / diện tích gieo trồng và năng suất, trong đó quan
trọng nhất là tăng năng suất. Năm 1987, diện tích canh tác lúa là 3,5 triệu ha,
diện tích gieo trồng là 5,6 triệu ha. Năm 1997, số liệu tương ứng là 4,2 và 6,8
(1)
,
tăng 20% và 21,4%. Nhìn chung, từ năm 1997 đến nay diện tích canh tác và
diện tích gieo trồng ổn định vì khả năng mở rộng diện tích canh tác là rất khó.
Năm 1987, năng suất lúa bình quân là 27 tạ/ha, năm 1997 là 40 tạ/ha tăng 48%.
Trong đó, năng suất lúa ở các vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu như đồng bằng

(1): Nông nghiệp bền vững và sản xuất lương thực ở Việt Nam - Vũ Tuyên Hoàng – Tạp
chí Cộng sản số 22 (11/1998 ) trang 16



12

sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long rất cao, đạt trung bình trên 60 tạ/ha. Dự
kiến, trong những năm tới khi dân số của nước ta ngày một tăng trong khi diện

tích canh tác lúa có hạn thì tăng năng suất là việc rất quan trọng, đóng vai trò
chủ đạo giữ vững an ninh lương thực và góp phần xuất khẩu. Kế hoạch đến năm
2020, năng suất lúa bình quân phải đạt 59,4 tạ/ha.
Do sản lượng lúa gạo liên tục tăng cao hơn tỉ lệ tăng dân số nên lương
thực bình quân đầu người cũng liên tục tăng.
Bảng 2: Bình quân lương thực đầu người
Năm 1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

Lương thực /
người (kg)

325 372 349 359 361 372 387 398 408 411 420
% so sánh 100 115 108 111 112 115 120 123 126 127 130
Nguồn: Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí Cộng sản số 7 (4/1999) trang 45
Bảng trên cho ta thấy, bình quân lương thực đầu người của nước ta tăng
khá đều đặn, duy chỉ có năm 1991 là đột biến. Dự kiến đến năm 2020 dân số
nước ta là 105 triệu người, sản lượng lương thực quy thóc đạt 52,5 triệu tấn thì
bình quân lương thực sẽ đật 500 kg/ người
(1)
.
Ngoài sản lượng, trong sản xuất lúa gạo, chúng ta cũng đặc biệt quan tâm
đến chất lượng; có như vậy mới đảm bảo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và cạnh tranh
được với các cường quốc xuất khẩu khác. Để đáp ứng yêu cầu tăng sản lượng
và tăng chất lượng, những năm qua các nhà khoa học đã không ngừng nghiên
cứu, cải tiến các giống lúa, nhằm tạo ra những giống có hiệu quả kinh tế cao
nhất. Các giống đã được đưa vào gieo trồng có thể kể đến như : IR64, OM1490,
OM2031, VND95-20, MTL250, IR62032, P4, P6 Ngoài giống, các biện pháp
kĩ thuật khác cũng không ngừng được cải tiến như kĩ thuật gieo trồng, quản lí
dịch bệnh, bón phân theo bảng màu lá lúa, tưới tiêu theo khoa học, ứng dụng

(1): Nông nghiệp bền vững và sản xuất lương thực ở Việt Nam - Vũ Tuyên Hoàng - Tạp
chí Cộng sản số 22 (11/1998) trang 18


13

các công nghệ sau thu hoạch như: sơ chế, bảo quản, dự trữ. Công nghệ đánh
bóng, xay xát gạo xuất khẩu cũng luôn được đổi mới về máy móc thiết bị. Nhờ
đó, chất lượng gạo Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có uy tín trên thị trường
xuất khẩu thế giới.



2-Tình hình sản xuất cà phê:
Cà phê là cây lấy hạt để chế biến làm đồ uống. Từ năm 1930, cà phê đã
được du nhập vào nước ta và tỏ ra thích hợp với sinh thái từ vĩ tuyến 20 độ Bắc
trở vào, đặc biệt là thích hợp với vùng đất bazan ở Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ. Cà phê ở nước ta có 3 giống là cà phê vối (coffee Robusta), cà phê mít
(coffee Excelsa), cà phê chè (coffee Arabica). Trong 3 giống chỉ có cà phê vối
là thích hợp nhất (chiếm 95%) với điều kiện sinh thái. Tuy nhiên, do xuất xứ ở
các vùng núi cao, nên khi đưa xuống các thung lũng có biên độ nhiệt lớn cà phê
vối hay có bệnh rỉ sắt.
Sau giải phóng Miền Nam 1975, chúng ta chỉ có 11.400 ha, sản lượng
6800 tấn nhân. Đến năm 1980, diện tích cà phê tăng lên 22.500 ha nhưng sản
lượng chỉ đạt 8400 tấn (do 1/2 diện tích mới trồng). Năm 1994, diện tích cà phê
là 123.000 ha, tăng so với năm 1980 là 5,5 lần; sản lượng là 166.400tấn, tăng
19,8 lần. Năm 1997, diện tích cà phê là 270.000 ha, tăng so với năm 1994 là
2,19 lần; sản lượng là 400.300 tấn, tăng so với năm 1994 là 2,4 lần. Năm 1998,
diện tích cà phê là 310.000 ha, tăng 1,14 lần so với năm 1997; sản lượng là
430.000 tấn, tăng 1,07 lần so với năm 1997(Bảng 3).
Bảng 3: Diện tích và sản lượng cà phê một số năm
Năm 1975 1980 1994 1997 1998
Diện tích (1000ha) 11.4 22,5 123 270 310
Sản lượng (1000tấn) 6,8 8,4 166,4 400,3 430



14

Nguồn: Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp - Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 9,10

Ta thấy, tốc độ tăng diện tích và tăng sản lượng của cà phê là cực kì cao.
Vì thị trường tiêu thụ trong nước không lớn (khoảng 5%/năm) nên phần lớn cà
phê sản xuất ra là để xuất khẩu. Năng suất cà phê của nước ta thuộc loại cao
nhất nhì thế giới. Năm 1991 đạt 800 kg/ha trong khi năng suất trung bình của
thế giới chỉ đạt 469 kg/ha. Năm 1994 chỉ số tương ứng là 1353 kg/ha và 492
kg/ha. Năm 1997 chỉ số tương ứng là 1666 kg/ha và 560 kg/ha. Như vậy, trong
7 năm năng suất cà phê tăng lên gấp đôi.
Tuy năng suất cà phê của ta rất cao nhưng do kĩ thuật canh tác và công
nghệ chế biến còn lạc hậu nên chất lượng cà phê xuất khẩu còn chưa cao mặc dù
chỉ là xuất thô tức là xuất khẩu cà phê nhân.
Cà phê nước ta được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên. Có tới 75% diện tích
cà phê tập trung ở Đắc Lắc. Số còn lại ở Sông Bé, Đồng Nai và Lâm Đồng (mỗi
nơi chiếm 6% diện tích) và 7% diện tích rải rác ở các tỉnh khác
(1)
. Hiện nay,
chúng ta còn nhiều khả năng mở rộng diện tích canh tác và nâng cao năng suất
cây cà phê.
3-Tình hình sản xuất cao su:
Cao su là một loại cây được trồng lấy mủ để sản xuất ra các loại sản phẩm
có chất cao su. Ở nước ta, loại cây này được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ. Diện tích trồng cao su năm 1975 mới chỉ có 75.200 ha thì năm
1998 con số này đã là 363.400 ha, tăng 4,83 lần so với năm 1975
(2)
.
Từ năm 1990 đến nay, các công ty cao su đã mở rộng quy mô sản xuất, áp
dụng công nghệ hiện đại, cơ khí hoá cao, tiết kiệm nhiên liệu và năng lượng,

(1): Thời báo Kinh tế Việt Nam số 31 (3/2001)
(2): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nhgiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp- Bộ Thương mại (12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/99 trang 22

(3): Công nghiệp chế biến cao su trên đường hội nhập- Nguyễn Đăng Kiều, Nguyễn Hữu
Tiến. Tạp chí Cộng sản số 18(9/2000) trang 50



15

giảm cường độ lao động, bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường Nếu
trước năm 1989, cả nước mới chỉ có 15 nhà máy tại 10 công ty,thì đến cuối năm
1999 đã có 30 nhà máy tại 19 công ty với tổng công suất thiết kế đạt tới 225.000
tấn/năm
(3)
.
Diện tích và sản lượng cao su từ năm 1990 tăng lên nhanh chóng.


Bảng 4: Diện tích và sản lượng cao su một số năm
Năm 1990 1993 1995 1997 1998
Diện tích (1000ha) 221,7 242,5 278,4 329,4 363,4
Sản lượng (1000tấn)

57,9 96,9 122,7 180,7 190
Năng suất(kg/ha) 261 399,5 440,7 548,5 522,8

Nguồn Báo cáo nghiên cứu:Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam.Tác động của Hiệp định
WTO về nông nghiệp -Bộ Thương mại.(12/1999)-Dự án VIE 95/024/A/01/99,trang 9,10,14
Qua bảng trên, ta thấy diện tích và sản lượng cao su tăng nhanh qua các
năm. Năm 1990, diện tích trồng cao su là 221.700 ha với sản lượng đạt ở mức
khiêm tốn 57,9 ngàn tấn. Năm 1993, diện tích là 242,5 ngàn ha, tăng so năm
1990 là 1,09 lần; sản lượng tăng lên rõ rệt là 96,9 ngàn ha, tăng 1,67 lần so với

năm 1990. Đến năm 1995, diện tích và sản lượng là 278,4 ngàn ha và 122,7
ngàn tấn, tăng so với năm 1993 tương ứng là 1,15 lần và 1,27 lần. Năm 1997,
diện tích và sản lượng tăng tương ứng lvới năm 1995 là 1,18 lần và 1,47 lần;
năm 1998 là 1,10 lần và 1,05 lần. Ta thấy, năm 1997, sản lượng cao su tăng một
cách đột biến so với các năm trước. Sản lượng cao su tăng trung bình khoảng
6,27%/năm, năng suất đạt trung bình qua các năm là 435 kg/ha. Từ năm 1990
đến năm 1999 sản lượng cao su đã tăng lên nhanh chóng đạt1050 ngàn tấn
(1)
.


(1): Thuỷ sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số 20
(10/1998) trang 45.


16

Đây là thành tựu đáng tự hào trong thời gian qua đối với ngành công nghiệp chế
biến cao su Việt Nam.
4- Tình hình sản xuất thủy sản:
Thủy sản là một ngành rất có lợi thế ở Việt Nam vì chúng ta có đường bờ
biển dài, dọc theo chiều dài của đất nước, nguồn thủy sản lại rất phong phú và
đa dạng nên rất thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng và vận chuyển.
Trong 5 năm 1991-1995, tổng sản lượng thủy sản toàn ngành đạt 6,1 triệu
tấn, tăng 32,4% so với thời kì 1986-1990; riêng năm 1995 đạt 1,58 triệu tấn so
với 969 ngàn tấn năm 1991. Sản lượng thủy sản xuất khẩu trong 5 năm đó đạt
1,35 triệu tấn, doanh thu 1944,3 triệu USD, tăng 43,7% so với 5 năm trước đó;
riêng năm 1995 xuất khẩu đạt 550 triệu USD
(1)
.Năm 1995 so với năm 1991, sản

lượng thủy sản đánh bắt tăng 47,0%; sản lượng nuôi trồng là 402.000 tấn, tăng
gấp 2,39 lần năm 1991(168.000 tấn)
(2)
. Sản lượng thủy sản năm 1998 đạt 1,7
triệu tấn, tăng khoảng 6% so với năm 1997. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm
1998 đạt 450 ngàn tấn, so với 168 ngàn tấn năm 1991 và 417 ngàn tấn năm
1997
(3)
.
Bảng 5: Sản lượng nuôi trồng thủy sản một số năm
Năm 1991 1995 1997 1998 1999 2000
Sản lượng (1000tấn) 168 402 417 450
% so sánh liên hoàn 100 239 103,7 108

Nguồn: Thủy sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới (1980-1998)-Nguyễn Sinh Cúc.
Tạp chí Cộng sản số 20 (10/1998) trang 45
Năm 1998, xuất khẩu thủy sản đạt 850 triệu USD, tăng 5% so với năm
1997
(4)
. Năm 2000, ngành thủy sản đã đóng góp 25% vào tổng kim ngạch, xuất

(1),(2): Thuỷ sản Việt Nam sau 18 năm đổi mới 1980-1998. Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản số
20 (10/1998) trang 45
(3): Tổng quan kinh tế- xã hội năm 1998, triển vọng năm 1999. Nguyễn Sinh. Tạp chí Cộng sản số
1 (1/1999) trang 8.
(4): Kinh tế Thế giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng. Nhà xuất bản chính tri quốc gia trang
260.
(5): Thành tựu 15 năm phát trtiển kinh tế-Nguyễn Cảnh Hưng. Tạp chí Cộng sản số 1 (1/2001)
trang 13.




17

khẩu đạt 1,4 tỉ USD, gấp 2,5 lần năm 1995
(5)
. Đây là một thắng lợi to lớn của
ngành thủy sản do có sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất cũng như cơ cấu đầu tư; cơ
cấu mặt hàng và cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu cũng chuyển biến theo
hướng đa dạng hoá gắn với yêu cầu của thị truường; nhiều cơ sở chế biến thủy
sản xuất khẩu được xây dựng mới ở các vùng sản xuất nguyên liệu như Cà
Mau, An Giang thu hút hàng chục nghìn lao động nông nghiệp, góp phần phân
công lại lao động ở nông thôn. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế
khai thác mọi tiềm năng về vốn và kinh nghiệm, mặt khác tập trung vốn ngân
sách, vốn tín dụng ưu đãi cho ngành thủy sản.


18

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG
NÔNG THỦY SẢN XUẤT KHẨU
I-Các thị trường chính và tiềm năng:
1-Các thị trường chính:
Về thị trường xuất khẩu, hiện nay Việt Nam đang xuất khẩu gạo tới trên
50 nước và lãnh thổ
(1)
ở tất cả các khu vực như châu Á, châu Âu, châu Phi, châu
Mĩ. Trong đó, thị trường châu Á, châu Phi chiếm 70-90%
(2)

lượng gạo xuất
khẩu hàng năm. Số còn lại là thị trường châu Âu, châu Mĩ. Các nước nhập khẩu
gạo chính của Việt Nam ở châu Á có thể kể đến là Indônêxia, Philippin,
Singapore, các nước vùng Trung Đông. Ở châu Phi có Angiêri, Nigiêria,
Tuynidi, Cônggô, Êtiôpia, Nam Phi, Libi. Ở châu Âu thì chủ yếu là Nga và
Đông Âu. Ở châu Mỉ thì chủ yếu là khu vực Mỉ latinh. Thị trường Châu Á,
Châu Phi rất dễ tính, không đòi hỏi chất lượng thật cao, chỉ cần giá rẻ nên rất
phù hợp với gạo Việt Nam.
Hai năm gần đây và các năm tới, thị trường lúa gạo thế giới cũng như thị
trường của Việt Nam gặp nhiều biến động theo cả 2 chiều hướng tích cực và
tiêu cực. Năm 1999 và năm 2000, lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi khiến cho
các nước vốn xuất khẩu gạo bị giảm sản lượng mạnh, khả năng xuất khẩu hạn
chế; còn các nước vốn đã nhập khẩu gạo thì lại càng phải nhập nhiều hơn. Điển
hình là châu Phi, Trung Đông và Mĩ latinh vừa qua gặp hạn hán nặng và tình
hình chính trị rất bất ổn nên trong những năm tới họ sẽ phải nhập thêm nhiều.
Ngược lại, những nước trước đây vẫn nhập khẩu lớn gạo của Việt Nam ở châu

(1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí
Cộng sản số 8(4/2000) trang 41
(2): Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu ở nước ta -Nguyễn Đình Long-Tạp
chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53



19

Á là Indônexia, Philippin, Bănglađét sẽ giảm nhu cầu trong những năm tới.
Theo cơ quan hậu cần quốc gia Indônexia, một vài năm tới nước này chỉ nhập
khoảng 1,8-2 triệu tấn gạo thay vì 3-3,5 triệu tấn như trước. Còn Philippin cũng
chỉ nhập 0,5-0,8 triệu tấn, giảm 0,5-0,7 triệu tấn

(1)
. Sở dĩ như vậy là vì có sự
cạnh tranh giữa gạo của Thái Lan, Trung Quốc và gần đây là Campuchia với
Việt Nam về chất lượng, giá cả và thủ tục. Đây là một nguy cơ rất lớn đối với
xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, trên thị trường chính của chúng ta, khả năng phát triển là rất
có hạn bởi vì như trên đã nói một số nước nhập khẩu lớn đã dần đi vào ổn định
kinh tế, chính trị, do vậy nhu cầu nhập khẩu gạo của họ giảm. Ở châu Phi,
Trung Đông và Mĩ latinh nhu cầu nhập khẩu có tăng, song thị trường ở đây còn
nhỏ bé, hơn nữa chúng ta lại có nhiều đối thủ cạnh tranh, do vậy tỉ trọng gạo
xuất sang khu vực này của chúng ta sẽ giảm đi và thay vào đó tỉ trọng xuất sang
một số thị trường tiềm năng mới mở sẽ ngày một tăng lên trong tổng kim ngạch
xuất khẩu gạo. Mục tiêu của chúng ta là cố gắng giữ vững thị trường truyền
thống, tăng cường, xâm nhập và mở rộng các thị trường mới.
Đối với mặt hàng cà phê, hiện nay, chúng ta đã xuất khẩu tới hơn 40 nước
và lãnh thổ, trong đó chủ yếu xuất sang EU, Bắc Mĩ, Nhật, Singapore. Chủng
loại cà phê xuất khẩu của chúng ta rất nghèo nàn, chủ yếu là cà phê hạt; cho nên
chúng ta thường xuất sang các nước phát triển có nền công nghiệp chế biến, để
họ sản xuất ra cà phê tinh chế. Thị trường cà phê là một thị trường cực kì bất ổn,
luôn có những biến động rất lớn, gây khó khăn cho các nước sản xuất và xuất
khẩu cà phê nhân. Có năm như niên vụ 1998-1999, giá cà phê lên rất cao
khoảng 900-1200 USD/tấn; nhưng năm 1999-2000 giá sụt đi hơn một nửa chỉ
còn khoảng 400-550 USD/tấn. Điều đó có nghĩa là, có năm các nước nhập khẩu
cà phê nhân nhiều, có năm họ nhập ít.

(1): Xuất khẩu gạo năm 2000, thời cơ -thách thức- giải pháp. Nguyễn Cảnh Hưng Tạp chí
Cộng sản số 8(4/2000) trang 41




20

Trong những năm tới, thị trường chính của chúng ta vẫn là EU, Bắc Mĩ,
Nhật, và Singapore. Cà phê của chúng ta chất lượng tương đối tốt mà giá lại rẻ
nên vẫn có sức cạnh tranh trên các thị trường này.
Đối với mặt hàng cao su, thị trường xuất khẩu chủ yếu của chúng ta trước
đây là Liên Xô, khoảng 80% sản lượng cao su của Việt Nam. Song những năm
gần đây, thị trường này không những không được mở rộng mà còn bị thu hẹp.
Hiện nay, ta chủ yếu xuất khẩu cao su sang Trung Quốc, chiếm 70% sản lượng.
Nhưng do xuất qua tiểu ngạch nên thường xuyên bị ép giá, nhu cầu mặt hàng
không ổn định, tình trạng ứ đọng sản phẩm thường xuyên xảy ra; xuất khẩu
sang châu Âu và Mỹ chỉ đạt 10% sản lượng
(1)
; còn tiêu thụ trong nước thì thật ít
ỏi chỉ khoảng 20%.
Năm 2000, ta đã khai thác 213.000 tấn và xuất khẩu sang Nga 400 tấn với
giá là 670 USD/tấn tăng 30-40 USD/tấn so với năm trước
(2)
.
Chất lượng cao su của chúng ta tốt, nhưng không phù hợp với nhu cầu
của thế giới nên chỉ xuất được sang Trung Quốc là chủ yếu.
Đối với mặt hàng thủy sản, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là
EU chiếm khoảng 60%. Đây là bạn hàng xuất khẩu thủy sản thường xuyên của
Việt Nam từ nhiều năm qua. Khu vực này tuy dân số không lớn nhưng số lượng
hàng thủy sản tiêu thụ nhiều. Tính đến năm 1998, cả nước đã có 27 doanh
nghiệp chế biến thủy sản được xếp vào danh sách các đơn vị đủ tiêu chuẩn xuất
khẩu sản phẩm sang thị trường châu Âu.
Ngoài ra, ta còn xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, chiếm khoảng 20%
sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một thị trường rất khó tính, đòi hỏi
chất lượng sản phẩm cao. Nhưng là thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta từ lâu.

Nhật Bản cũng là một cường quốc về đánh bắt thủy hải sản, với các phương tiện

(1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 24
(2): Thời báo kinh tế Việ Nam số 146 (6/12/2000)


21

kỹ thuật rất hiện đại nhưng giá thành lại cao hơn so với nhập khẩu thủy sản từ
Việt Nam, hơn nữa chủng loại thủy hải sản của ta lại rất đa dạng, phong phú.
Ngoài EU và Nhật ra, Singapore cũng là thị trường xuất khẩu thủy sản
chủ yếu của ta.
2-Thị trường tiềm năng:
Ngoài thị trường chính ở châu Á, châu Phi, hiện nay gạo Việt Nam đã và
đang xuất sang các thị trường mới như EU, Bắc Mĩ, Nhật, Hàn Quốc. Đây là
các thị trường rất khó tính nhưng có tiềm năng lớn vì những nước này có nền
công nghiệp và dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nông nghiệp ngày càng
không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Sở dĩ như vậy vì phần lớn
diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị lấn chiếm để sử dụng vào việc xây dựng
các khu công nghiệp, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí và khu dân cư.
Cùng với quá trình đó là việc một bộ phận dân cư tách ra khỏi lao động nông
nghiệp để tham gia vào lực lượng lao động phi nông nghiệp. Do vậy, sản lượng
tăng thêm do áp dụng khoa học kĩ thuật không bù được sản lượng mất đi do
thiếu đất canh tác và thiếu lao động nông nghiệp.
Thêm vào đó, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với EU, Nhật, Hàn
Quốc đặc biệt là Mĩ ngày càng có bước phát triển mới. Riêng với EU và Nhật,
Việt Nam đã được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy giá gạo nhập vào
các nước này sẽ giảm đi. Mặt khác, chất lượng gạo của chúng ta không ngừng
được cải thiện do thành quả của việc ứng dụng khoa học vào nông nghiệp, do

đó ngày càng được các khách hàng tin cậy và trụ vững được trên thị trường này.
Đối với cà phê, thị trường tiềm năng có thể kể đến là Trung Quốc, Hàn
Quốc, Thái Lan, Nga và Đông Âu. Những nước này hàng năm vẫn nhập cà phê
của ta, song số lượng rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của
ta và bạn. Do vậy, trong những năm tới, mục tiêu của chúng ta là đẩy mạnh
cạnh tranh nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này, khẳng
định uy tín và chất lượng của cà phê Việt Nam. Tuy nhiên , chúng ta cũng cần


22

đề phòng các biến động có thể xảy ra vì thị trường cà phê thường không ổn
định.
Đối với cao su, thị trường nội địa tiêu thụ 20%-30% sản lượng cao su.
Tuy nhiên, thị trường này có tiềm năng lớn vì nước ta là nước đang phát triển
nên có nhu cầu khối lượng cao su thiên nhiên lớn trong tương lai. Những ngành
tiêu thụ cao su lớn nhất là ngành công nghiệp ô tô, xe máy và các ngành công
nghiệp hỗn hợp sản xuất các đồ cao su gia dụng và các sản phẩm cao su khác
như tấm trải sàn, găng tay y tế, Sản lượng tiêu thụ nội địa dự kiến tăng khoảng
35%-40% trong những năm đầu thế kỷ 21
(1).
Ngoài ra, ta còn xuất khẩu cao su
sang châu Âu và Mỹ, hai thị trường này chiếm khoảng 10% doanh số xuất khẩu.
Trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ thu được những lợi thế lớn vì Trung Quốc
là nước tiêu thụ cao su thiên nhiên lớn nhất. Mức tiêu thụ cao su của Trung
Quốc tăng trên 7,5%/năm. Đối với thủy sản, thị trường tiềm năng của ta trong
tương lai sẽ là Bắc Mỹ, Đông Âu và Trung Đông.
Từ sau khi kí Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, trao đổi buôn bán giữa hai
nước tăng mạnh. Dự báo đến năm 2005 thị trường này sẽ chiếm khoảng trên
20% sản lượng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

(2)
.
Đối với Đông Âu thì từ năm 1990 trở về trước là bạn hàng truyền thống
của Việt Nam. Sau cuộc khủng hoảng về kinh tế, khu vực này trở nên kiệt quệ,
nhưng những năm gần đây, nền kinh tế ở khu vực này đã được khôi phục và có
bước phát triển đáng kể, chất lượng cuộc sống được cải thiện, cùng với nó là
nhu cầu về thủy sản cũng tăng lên. Trong tương lai đây sẽ là thị trường xuất
khẩu lớn của Việt Nam.
Đối với Trung Đông, thì đây là một khu vực giầu có trên thế giới, nhưng
lại hay có những biến động về chính trị, nền kinh tế bị ảnh hưởng mà nguồn

(1): Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam. Tác động của Hiệp
định WTO về nông nghiệp. Bộ Thương mại(12/1999). Dự án VIE 95/024/A/01/1999 trang 23
(2): Kinh tế Thế Giới 1998-1999: Đặc điểm và triển vọng. Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
trang 260.



23

thủy hải sản lại ít ỏi nên đây sẽ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của ta trong
những năm tới.
II-Những thành tựu và khó khăn trong quá trình xuất khẩu:
1-Thành tựu:
a-Gạo:
Năm 1989, nước ta chính thức tham gia vào thị trường xuất khẩu lúa gạo
thế giới với số lượng xuất khẩu là 1,42 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá bình
quân 204 USD/tấn. Tuy sản lượng gạo xuất khẩu chưa nhiều, giá còn thấp, chất
lượng gạo chưa phù hợp với thị hiếu của thị trường thế giới nhưng đối với nước
ta, kết quả đó đánh dấu sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang

kinh tế hàng hoá gắn liền với xuất khẩu. Từ năm 1989 đến nay, gạo nước ta
luôn có mặt trên thị trường thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao
(duy có năm 2000 do thị trường biến động nên xuất khẩu bị giảm).
Bảng 6 - Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00
Số lượng (triệu
tấn)
1,42 1,63 1,1 2,0 1,72 2,0 2,1 3,1 3,7 3,8 4,6 3,5
Giá trị (tỷ USD) 0,29 0,31 0,24 0,42 0,37
0,43
0,53
0,87
0,9 1,1
1,03
0,7
Giá bình quân
(USD)
204 188 227 215 210 214 258 285 242 269 228 200
Nguồn; Xuất khẩu gạo ở Việt Nam - 10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc
Tạp chí Cộng sản - số 7 (4/1999) trang 47
Qua bảng trên, ta thấy mặc dù số lượng gạo xuất khẩu một số năm có biến
động song xu hướng chính vẫn là tăng lên. Trong 12 năm, nước ta đã cung cấp
cho thị trường thế giới hơn 30,3 triệu tấn gạo, bình quân 2,53 triệu tấn/năm; thu
về 7 tỉ 158 triệu USD, bình quân 596,5 triệu USD/năm, một con số rất đáng tự
hào mà trước đổi mới chỉ là mơ ước. Xuất khẩu gạo hàng năm chiếm tỉ trọng
trung bình khoảng 11% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, 3,3% GDP. Từ năm
1997 đến nay, Việt Nam đã vượt Mĩ để đứng thứ 2 sau Thái Lan về xuất khẩu
gạo. Điểm nổi bật của nước ta trong xuất khẩu gạo hơn 10 năm qua là tính ổn



24

định cao so với các đối thủ cạnh tranh. Theo đánh giá của FAO (Tổ chức lương
thực và nông nghiệp thế giới), ở châu Á ngoài Thái Lan còn có 3 nước khác có
khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu gạo là Ấn Độ, Pakistan và
Trung Quốc. Song12 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu của 3 nước này đều
không ổn định: Ấn Độ có năm xuất khẩu 5 triệu tấn gạo (1995) vượt lên đứng vị
trí thứ 2 sau Thái Lan, nhưng các năm khác lại rất thấp, phổ biến dưới 1 triệu
tấn (1993 là 767.000 tấn,1994 là 890.000 tấn, năm 1997là dưới 2 triệu tấn).
Pakistan năm cao nhất là 1,8 triệu tấn (1995), các năm khác dưới 1 triệu tấn.
Trung Quốc năm cao nhất là 1,6 triệu tấn, các năm khác cũng phổ biến ở mức 1
triệu tấn
(1)
.
Bên cạnh sự tăng tiến về số lượng, sự tiến bộ về chủng loại và chất lượng
là thực tế và rất đáng tự hào. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỉ lệ gạo chất
lượng trung bình, tỉ lệ tấm cao trên 25% chiếm 80-90% nên sức cạnh tranh kém,
giá cả thấp (Bảng 6). Từ năm 1995 trở lại đây, chất lượng và chủng loại được
cải thiện nhiều. Gạo có chất lượng cao (hạt dài, ít bạc bụng), tỉ lệ tấm thấp (từ 5-
10%) chiếm khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu và có xu hướng tăng lên; còn gạo
có chất lượng trung bình (hạt tròn, bạc bụng), tỉ lệ tấm cao (trên 10%) chiếm tỉ
trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần. Giá gạo Việt Nam cũng tăng dần cùng với
xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung cầu của thị trường lúa gạo
thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 4 năm (1995-1998) là 269USD/tấn, tăng
61 USD/tấn so với giá bình quân 6 năm về trước đó (1989-1994). Điều đáng
chú ý là khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam và Thái Lan đã bị thu hẹp dần từ
40-55 USD/tấn những năm 1989-1994 xuống còn 20-25 USD/tấn những năm
1995-2000
(2)


Việc Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành một cường
quốc xuất khẩu gạo có một ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế nước ta. Xét về

(1),(2): Xuất khẩu gạo ở Việt Nam -10 năm nhìn lại - Nguyễn Sinh Cúc. Tạp chí Cộng sản
số 7 (4/1999) trang 44, 46



25

giá trị ngoại tệ mạnh thu đựơc, xuất khẩu gạo đứng thứ hai sau dầu thô, song
xét về tính chất sản phẩm thì gạo có nhiều điểm trội hơn dầu thô.
Thứ nhất, gạo xuất khẩu là phần để dành ra được sau khi đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trong nước và an ninh lương thực; còn dầu thô phải xuất toàn bộ.
Thứ hai, gạo xuất khẩu là sản phẩm 100% Việt Nam, còn dầu thô là sản
phẩm liên doanh.
Thứ ba, dầu là sản phẩm khai thác từ tài nguyên thiên nhiên, càng khai thác
càng cạn kiệt; trong khi gạo là sản phẩm của trồng trọt, càng xuất khẩu càng kích
thích thâm canh, tăng vụ nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng.
Thứ tư, hiệu quả kinh tế-xã hội-quốc phòng-an ninh và môi trường của sản
xuất và xuất khẩu gạo cao hơn nhiều so với bất kì mặt hàng xuất khẩu nào của
nước ta.
b-Cà phê:
Hiện nay, cà phê đã trở thành mặt hàng mũi nhọn trong chiến lược hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Cà phê đứng trong số mười mặt hàng (Top
ten) có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (xấp xỉ 500-1000 triệu
USD).
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê một số năm
Chỉ tiêu Đơn vị 1991 1993 1995 1997 1998 2000
Số lượng 1000 tấn 89,6 122,7 248,1 389 382 686

Giá trị Triệu USD 74 111 305 490 594 378
Giá / tấn USD 825,9 904,6 1230 1259,6 1555 550
Báo cáo nghiên cứu: Tổng quan về ngành nông nghiệp Việt Nam
- Bộ Thương mại trang 13,14
Qua bảng trên, ta thấy số lượng cà phê xuất khẩu liên tục tăng qua các
năm: năm 1998 số lượng xuất khẩu đạt 382.000 tấn nhiều hơn năm 1991 là
292,4 tấn, tỉ lệ tăng là 326,34% tức là gần gấp 3,3 lần; tương ứng với sự gia tăng
số lượng là sự gia tăng về giá trị kim ngạch xuất khẩu. Năm 1998, giá trị xuất


26

khẩu đạt 594 triệu USD, tăng so với năm 1991 là 520 triệu USD, gấp hơn 8 lần.
Với kết quả trên, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 3 trên
thế giới sau Braxin và Côlômbia.
Sản xuất cà phê phát triển đã tạo ra sự thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế
và đời sống của đồng bào vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Nếu như trước
đây khi cây cà phê chưa phát triển thì đồng bào ở đây chủ yếu độc canh cây lúa
trên mảnh đất không thích hợp cho việc trồng lúa do vậy đời sống rất thiéu thốn,
bấp bênh. Hiện nay, nhờ chính sách giao đất của nhà nước mà nhiều hộ đã đi
vào chuyên canh cây cà phê và đạt hiệu quả kinh tế rất cao, đời sống khá giả
hẳn lên. Các trang trại cà phê cũng là nơi thu hút được nhiều lao động, giải
quyết công ăn việc làm cho người địa phương và người ở vùng khác đến. Do
kim ngạch xuất khẩu cà phê mấy năm gần đây tăng liên tục (bình quân
20%/năm), có năm đạt gần 600 triệu USD mà cà phê đã được chính phủ ta xếp
vào 3 nhóm hàng mũi nhọn (cà phê, thuỷ sản, điện tử) cần được quan tâm chú
ý
(1)
.
c-Cao su:

Nhờ tích cực đổi mới kỹ thuật, công nghệ chế biến, nâng cao tay nghề
công nhân mà việc chuyển hướng sang sản xuất cao su định chuẩn (SVR) đã
thành công. Nếu năm 1987, các công ty cao su đã sản xuất được 75,9% mủ khối
cao su định chuẩn; 3,5% mủ ly tâm (mủ kem); 13,5% mủ tờ (ICR,RSS); 2,9%
mủ creve và 4,4% cao su tinh sét thì đến năm 1996 cơ cấu này dã có nhiều thay
đổi, tỷ lệ tương ứng là 94,4%; 3,0%; 1,4% và 0,2%; năm 1999là 94,4%; 2,4%;
0,9% và 0,5%
(2)
. Tính chung giai đoạn 1976-1980, sản lượng cao su chế biến
đạt 190.000 tấn, giai đoạn 1981-1990 đạt 488.000 tấn; giai đoạn 1990-1999 sản

(1): Nâng cao sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu của nước ta - Nguyễn Đình Long –
Tạp chí Cộng sản số 4 (2/1999) trang 53

×