Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện tự diễn biến tự chuyển hóa của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.47 MB, 34 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀNKHOA XÂY DỰNG ĐẢNG</b>

<b>---TIỂU LUẬNMÔN XÂY DỰNG ĐẢNG</b>

<b>ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”,“TỰ CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ</b>

<b>TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY</b>

<b>Sinh viên: VŨ MINH TÂMMã sinh viên: 2156100052</b>

<b>Lớp hành chính: Thơng tin đối ngoại K41Lớp tín chỉ: XD01001_K41.12</b>

<i><b>Hà Nội – 2022</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU...1</b>

<b>1. Lý do lựa chọn đề tài...1</b>

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...2</b>

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...3</b>

<b>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...3</b>

<b>5. Kết cấu tiểu luận...4</b>

<b>NỘI DUNG...4</b>

<i><b>Chương 1...4</b></i>

<b>ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”,“TỰ CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN...4</b>

<i><b>1. Khái niệm...4</b></i>

<i>1.1. Tự diễn biến...4</i>

<i>1.2. Tự chuyển hóa...5</i>

<i>1.3. Đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...6</i>

<i><b>2. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở đảng viên...6</b></i>

<i><b>3. Nội dung đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”ở đảng viên...8</b></i>

<i><b>4. Phương thức đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyểnhóa” ở đảng viên...11</b></i>

<i><b>Chương 2...17</b></i>

<b>ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰCHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ THỊTRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐCTẾ HIỆN NAY...17</b>

<i><b>1. Thực trạng đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyểnhóa” của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủnghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay...17</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i>1.1. Thành tựu...181.2. Hạn chế...23</i>

<i><b>2. Giải pháp đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập quốc tế hiện nay...24</b></i>

<b>KẾT LUẬN...28TÀI LIỆU THAM KHẢO...30</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Lý do lựa chọn đề tài</b>

Suốt hành trình hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn giữ vững bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị. Đảng ta ln kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội. Điều đó địi hỏi phải ln thường xun tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng ngày một lớn mạnh.

Muốn Đảng lớn mạnh, Đảng ta chủ trương trước hết phải xây dựng đội ngũ đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín và ngang tầm nhiệm vụ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí đánh giá cao vai trò của đội ngũ đảng viên trong sự nghiệp cách mạng và chỉ rõ: “Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”. Bởi vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm, chăm lo công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên.

Có thể nói, đảng viên ln giữ vai trị rất quan trọng trong việc góp phần xây dựng đường lối, chủ trương; chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó. Họ là người trực tiếp cùng tổ chức cơ sở đảng nơi sinh hoạt, dân chủ thảo luận đề ra nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và là người tiên phong, gương mẫu, dẫn dắt quần chúng trong phong trào cách mạng cũng như lãnh đạo quần chúng thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, trên cơ sở phản ánh, kiến nghị với tổ chức đảng nhằm giải quyết kịp thời những vướng mắc, bức xúc của người dân, đảng viên nói riêng và đội ngũ đảng viên nói chung rất am hiểu tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của quần chúng. Có thể nói, đảng viên chính là nhân tố quan trọng giúp tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Hơn thế nữa, đảng viên còn là tế bào cấu thành tổ chức đảng, năng lực lãnh đạo,

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

sức chiến đấu của tổ chức đảng phụ thuộc và được quyết định bởi chất lượng đội ngũ đảng viên. Đảng viên có chất lượng cao là cơ sở để xây dựng tổ chức đảng vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do các đảng viên hăng hái và gương mẫu”.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo mọi mặt đời sống xã hội thì vai trị của người Đảng viên lại cần được nêu cao hơn bao giờ hết. Ngày nay, khi Việt Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế kéo theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới đã đặt ra cho đội ngũ đảng viên những yêu cầu mới. Nhờ thường xun quan tâm cơng tác xây dựng, chính đốn Đảng, đa số đảng viên đã có ý thức đồn kết cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với nguyên tắc của Đảng, thực sự là lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đưa công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn. Tuy vậy, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang diễn ra sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là xuất hiện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm giảm lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây tổn hại nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”. Có thể nói, việc đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã trở thành nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển ngày nay.

Trên cơ sở kiến thức tiếp thu từ bài học cùng với việc tiếp cận từ một số những

<i>tài liệu liên quan, em xin đi sâu vào tìm hiểu về: “Đấu tranh ngăn chặn nhữngbiểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên trong nền kinh tế thịtrường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay”.</i>

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>

- Mục đích nghiên cứu: Tiểu luận phân tích, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về việc đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hóa” trong đội ngũ đảng viên hiện nay. Qua đó, phân tích thực trạng và đề suất một số giải pháp nhằm đấu tranh, phịng chống, khắc phục sự suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Làm rõ các khái niệm, các nội dung và phân tích liên quan về việc ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ đảng viên.

+ Đánh giá đặc điểm tình hình mới và ảnh hưởng của nó đến việc suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận khơng nhỏ đảng viên.

+ Phân tích, đánh giá thực trạng về việc đấu tranh chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đội ngũ đảng viên hiện nay.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận đảng viên.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

- Đối tượng nghiên cứu: Công tác đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ đảng viên.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Thời gian: Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay.

+ Khơng gian: Trên tồn đất nước Việt Nam.

<b>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu</b>

- Cơ sở lý luận: Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đấu tranh chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ đảng viên.

- Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng kết hợp phương pháp: phân tích - tổng hợp trên cơ sở thực tiễn, nghiên cứu lý luận,….

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>5. Kết cấu tiểu luận</b>

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 2 chương.

<i>Chương 1: Đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyểnhóa” của đảng viên.</i>

<i>Chương 2: Đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyểnhóa” của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập quốc tế.</i>

<b>NỘI DUNG</b>

<i><b>Chương 1</b></i>

<b>ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”,“TỰ CHUYỂN HÓA” CỦA ĐẢNG VIÊN</b>

<b>1. Khái niệm </b>

<i><b>1.1. Tự diễn biến</b></i>

Theo từ điển Tiếng Việt: “Diễn biến là diễn ra sự biến đổi theo chiều hướng nào đó. Ví dụ: diễn biến tư tưởng, tư tưở<b>ng </b>có nhiều diễn biến phức tạp”. Khái niệm “tự diễn biến” dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Đó là quá trình tự biến đổi từ bên trong của một sự vật theo chiều hướng nhất định: tích cực hoặc tiêu cực, tiến bộ hoặc phản tiến bộ. Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, “tự diễn biến” được hiểu là sự biến chất, suy thối về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

“Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên là quá trình đấu tranh giữa mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong nội tâm mỗi người cán bộ, đảng viên trước những tác động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Trong đó, những yếu tố tiêu cực và tư tưởng tư bản chủ nghĩa ngày một tăng lên; các yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

chủ nghĩa dần biến mất. Quá trình này biến đổi bên trong chủ thể và đến một thời điểm nhất định, sự biến đổi này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể.

<i>Qua đó, thuật ngữ “tự diễn biến” có thể được hiểu như sau: “Tự diễnbiến” là quá trình diễn ra sự thay đổi ngay từ trong nội bộ tổ chức và cá nhântheo chiều hướng xấu đi, tiêu cực, đi ngược lại với chuẩn mực và giá trị của xãhội”</i>

<i><b>1.2. Tự chuyển hóa</b></i>

Theo từ điển Tiếng Việt: “Chuyển hóa là biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác”. Khái niệm “tự chuyển hóa” dùng để chỉ q trình tự biến đổi của một sự vật, hiện tượng sang một chất mới hoặc một cấu trúc, một dạng tồn tại mới. Các văn kiện của Đảng ta đã định nghĩa “tự chuyển hóa” là sự biến đổi về lập trường, quan điểm, tư tưởng, thái độ, hành vi, lối sống của cán bộ, đảng viên theo hướng đối lập với trạng thái ban đầu.

“Tự chuyển hóa” là sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến” nhưng ở một cấp độ cao hơn. Đó là khi sự biến đổi về chất đã làm thay đổi quan điểm tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên và chuyển hóa thành những hành động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Giống với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là q trình diễn ra trong chính nội bộ ta ở cả phạm vi tổ chức và cá nhân; là sự thay đổi về chất của tổ chức và cá nhân, khiến cho mỗi cá nhân khơng cịn là chính mình, đánh mất vai trị tiên phong, tệ hơn là trở thành phản bội, chống lại Đảng và Nhà nước, thậm chí chuyển sang hàng ngũ kẻ thù.

<i>Từ các cách tiếp cận trên, có thể đi đến kết luận: “Tự chuyển hóa” là hệquả tất yếu của quá trình “tự diễn biến”, diễn ra trong nội bộ ta ở phạm vi cánhân và tổ chức. Đó là sự thay đổi về bản chất của tổ chức và của mỗi conngười; làm cho tổ chức, cá nhân đó bị tha hóa, biến chất, đối lập với bản chấttốt đẹp của xã hội và tệ hơn là gây nên những hậu quả hết sức nguy hại cho xãhội”</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i><b>1.3. Đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”</b></i>

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đấu tranh là dùng sức mạnh để chống lại hay diệt trừu hoặc bảo vệ hay giành lấy” [5,tr.68] và “Ngăn chặn là chặn lại từ đầu, không để cho gây tác hại” [4,tr.671]. Đấu tranh, ngăn chặn trên lĩnh vực tư tưởng hiện nay đang diễn ra hết sức cam go, quyết liệt và phức tạp, đây là cuộc đấu tranh với những luận điệu sai trái của thế lực thù địch.

Đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời ngăn chặn sự suy thoái, xuống cấp của chế độ, dẫn đến phải chuyển hóa về bản chất của thế chế chính trị xã hội chủ nghĩa. Tính chất quyết liệt của cuộc đấu tranh này là cuộc đấu tranh giữa hai lý tưởng, giữa hai hệ tư tưởng, giữa hai chế độ xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh tư tưởng là bộ phận quan trọng của đấu tranh giai cấp và phản ánh rõ nét bản chất của cuộc đấu tranh giai cấp.

<b>2. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở đảng viên</b>

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hố” trong nội bộ là q trình diễn biến bên trong một bộ phận đảng viên, theo hướng tiêu cực, từ tiến bộ sang lạc hậu. Nếu không nhận diện rõ được các biểu hiện để kịp thời ngăn chặn, khắc phục có thể dẫn đến làm biến chất đảng viên, biến chất Đảng và chế độ xã hội, trượt sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong cả một q trình lâu dài và tiềm ẩn, khó nhận biết, thông thường biểu hiện qua các dấu hiệu nhận biết như:

- <i>Về lĩnh vực tư tưởng, chính trị</i>: Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên lĩnh vực này rất đa dạng, phức tạp và nhiều cấp độ. Cụ thể, đó là tình trạng dao động về lập trường, phai nhạt lý tưởng cách mạng, quan điểm chính trị, sa sút ý chí chiến đấu, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua đó, khơng ngừng phủ nhận các giá trị truyền thống cách mạng, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Không thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, nói và làm trái với đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Khơng cịn ý

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

thức hết lịng vì nước, vì dân, khơng làm trịn chức trách, nhiệm vụ được giao. Vi phạm những điều quy định đảng viên không được làm; thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tran, ngăn cản, tệ hơn là những cá nhân có ý thức chính trị kém, bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, phụ họa, cổ súy cho những quan điểm sai trái, lệch lac, chống phá sự nghiệp các mạng, gây tổn hại đến uy tín và vai trị lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ta.

- <i>Về lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống</i>: biểu hiện sùng bái, chạy theo lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các giá trị xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” cịn được biểu hiện ở việc xuyên tạc trắng trợn lịch sử, phủ nhận nền văn hóa dân tộc; thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách thái quá, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, vị kỷ, xa hoa, trụy lạc,…

- <i>Về lĩnh vực kinh tế</i>: Phản bác, phủ nhận và làm thay đổi kinh tế xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế tư bản chủ nghĩa. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tìm cách hạ thấp, làm mất vai trị quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Địi đẩy nhanh tư nhân hố nền kinh tế, xố bỏ chế độ cơng hữu tư liệu sản xuất, thay bằng chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa...

- <i>Về lĩnh vực quân sự, quốc phòng an ninh</i>: Bóp méo, xuyên tạc, thay đổi bản chất nền quốc phòng, thay đổi bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; đánh đồng bản chất Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất quân đội tư sản... Chống phá về đường lối, chính sách quốc phịng, an ninh, thúc đẩy chuyển hoá lực lượng vũ trang, thực hiện “phi chính trị hố” qn đội và cơng an; lợi dụng chính sách mở cửa, hợp tác, hội nhập để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ bên trong. Tuyên truyền xuyên tạc các vấn đề nội bộ của quốc gia, hướng dư luận quốc tế ủng hộ cho mục đích can dự lật đổ từ bên ngồi của các thế lực thù địch. Móc nối các đối tượng phản động trong nước với các tổ chức lưu vong ở nước ngoài nhằm tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

chuyển hóa” bằng cách lập hàng nghìn trang web, blog, trang Facebook, Fanpage, Youtube, giả mạo các trang thơng tin chính thống; lập ra hàng trăm cơ quan báo chí, nhà xuất bản và các đài phát thanh, truyền hình có trụ sở, máy chủ ở nước ngồi để xun tạc, vu khống tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước. Qua đó, tạo sự hồi nghi, gây mất lịng tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

<b>3. Nội dung đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”ở đảng viên</b>

Đấu tranh ngăn chặn “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” là một q trình lâu dài, cần xác định rõ lộ trình, bước đi thích hợp, xác định các nội dung đấu tranh hợp lý và hiệu quả. Nội dung đấu tranh bao gồm có các nội dung cơ bản sau:

<i>Thứ nhất, đấu tranh ngăn chặn suy thối tư tưởng, chính trị. Đây là quá</i>

trình đấu tranh với sự phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, làm cho những cái tốt, ưu việt của chế độ ta bị xuyên tạc trở thành méo mó, thực hư, thật giả, trắng đen lẫn lộn, bị lợi dụng để thực hiện mục đích cá nhân, biến cái tốt thành xấu từ đó cái xấu có cơ hội nảy nở, lấn át cái tốt. Suy thối tư tưởng chính trị phản ánh sai lệch quan điểm, lập trường của người cộng sản; phản ánh sai lệch các chuẩn mực đạo đức, lối sống của người đảng viên, do lương tâm, danh dự của họ đã bị lu mờ, hoen ố; tự thân, không thể nhận thức, phân biệt rõ ràng phải trái, đúng sai, không thể điều chỉnh thái độ, hành vi trong các quan hệ giao tiếp, ứng xử để đạt đến sự chuẩn mực đạo đức vốn có của người cộng sản. Vì vậy, họ dễ dàng rơi vào lối sống bng thả, “qn tình nghĩa, xa rời đạo lý”; đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền, nặng về hưởng lạc, ham chức, cậy quyền, đề cao “cái tôi”, coi thường tổ chức, chà đạp lên tập thể...

<i>Thứ hai, đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí. Tình trạng</i>

này đang diễn biến phức tạp và gây bức xúc xã hội trong thời gian qua. Hành vi tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật của người có chức, quyền. Đảng viên có chức, quyền là những người đáng ra phải làm gương cho cả xã hội về việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

tuân thủ, thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chí cơng, vơ tư trong cơng tác thì lại tham nhũng, tư lợi, vi phạm pháp luật và đi ngược lại các cương lĩnh, đường lối của Đảng về xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Quá trình Đảng ta lãnh đạo đổi mới đất nước, đã và đang mang lại những thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống xã hội, tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm phát sinh những mặt tiêu cực, thách thức mà trước hết là nạn tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, phức tạp. Cùng với quá trình đổi mới, phát triển của đất nước, đã xuất hiện một bộ phận đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lợi dụng chức quyền, vụ lợi cá nhân, xói mịn đạo đức cách mạng. Qua đó, tình trạng tham nhũng phổ biến, nghiêm trọng, kéo dài sẽ thúc đẩy nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Bên cạnh đó, nó sẽ làm gia tăng bức xúc xã hội, làm giảm sút niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước và là mối đe dọa đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ.

Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn lãng phí là việc quản lý, sử dụng tiền của, sức lao động, thời gian kém hiệu quả; lãng phí có nhiều cách như lãng phí sức lao động, lãng phí thì giờ; lãng phí tiền của. Lãng phí là mắc phải bệnh “Phơ trương hình thức” gây tốn kém khơng cần thiết. Lãng phí có thể xảy ra ở các ngành, các lĩnh vực, các địa phương, ở mọi cấp từ Trung ương, đến cơ sở; ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội, trong các gia đình và từng người dân. Lãng phí có thể xảy ra mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng. Lãng phí có thể xảy ra từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều. Lãng phí và tham nhũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tham nhũng và lãng phí là nguyên nhân dẫn đến thất thoát tài sản, thâm thục ngân sách, tiền của, tài nguyên, mất lòng tin của nhân dân, là nguy cơ cho tình trạng bất ổn kinh tế, nguy cơ đối với sự tồn vong của đất nước. Nếu lãng phí khơng được ngăn chặn thì tham nhũng có nhiều cơ hội phát triển.

Hiện nay, lãng phí là một căn bệnh mà một bộ phận không nhỏ đảng viên mắc phải với nhiều mức độ khác nhau. Điều đó địi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần phải có các biện pháp chống lãng phí quyết liệt, cụ thể, toàn diện, triệt để,

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

thống nhất, đồng bộ và thường xuyên. Phải trở thành ý thức tự giác đối với mỗi đảng viên trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bản chất, tác hại của lãng phí đối với nhà nước, xã hội và nhân dân.

<i>Thứ ba, đấu tranh ngăn chặn suy thoái về đạo đức lối sống. Suy thối tư</i>

tưởng chính trị là dấu hiệu đầu tiên dẫn đến hình thức biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống. Nếu suy thối về tư tưởng, chính trị được loại bỏ thì suy thoái về phẩm chất đạo đức, nhân cách và lối sống, cũng sẽ mất theo. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống biểu hiện ngấm ngầm hay công khai theo những con đường, cách thức riêng. Công tác tuyên truyền, giáo dục không thể phát huy công dụng, hiệu quả trong trường hợp này mà chỉ đến khi luật pháp vạch mặt, sai trái ấy ở một số người mới bị phơi bày, buộc phải thừa nhận. Nếu coi suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một cơ thể mang mầm bệnh ghép thì nó sẽ bao gồm ba chứng bệnh: suy thối về tư tưởng chính trị, suy thối về đạo đức, suy thoái về lối sống. Cả ba căn bệnh ấy đều bám nhau, dính chặt trên cơ thể người; rất khó phân biệt một cách rạch ròi bản chất, nguyên nhân của từng loại bệnh. Biểu hiện rõ nhất, dễ nhìn thấy nhất sẽ bắt đầu từ các hành vi thoái hóa đạo đức, lối sống thơng qua các hành động “lệch chuẩn” của nó.

<i>Thứ tư, đấu tranh phịng, chống âm mưu của các thế lực bên ngoài. Từ</i>

việc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng ta bàn về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay, các thế lực thù địch bên ngoài đã lợi dụng một số người có quan điểm bất đồng, thậm chí đối lập với Đảng, Nhà nước ta để xuyên tạc sự thật, thổi phồng khuyết điểm, khuếch đại thiếu sót, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng này muốn phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta; xóa bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đưa nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa có lợi cho phương Tây. Ý đồ của họ đã lộ diện, âm mưu, thủ đoạn của họ đã được công khai từ nhiều năm nay thông qua thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ. Vì vậy, cần nghiêm túc xem xét mọi vấn đề và xem đây như một loại “giặc nội xâm” để ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới khắc phục suy thoái tư tưởng

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận đảng viên, xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ là một vấn đề rất quan trọng và cấp bách trong tình hình hiện nay.

<b>4. Phương thức đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyểnhóa” ở đảng viên</b>

Trong bối cảnh, tình hình mới nâng cao năng lực đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bằng cách sử dụng các phương thức đấu tranh phù hợp và cần phối hợp hài hòa các phương thức đấu tranh để mang lại hiệu quả cao nhất:

<i>- Đấu tranh thông qua việc giáo dục, học tập nâng cao trình độ lý luậnchính trị: Lý luận chính trị là hệ thống các tri thức khoa học của chính trị học và</i>

các khoa học chính trị, chúng hợp thành nội dung của lý luận chính trị, vừa là tri thức chuyên ngành, vừa là tri thức liên ngành, bao qt tồn bộ lĩnh vực chính trị, một trong bốn lĩnh vực của đời sống xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống tri thức về lĩnh vực chính trị, thể hiện và thái độ và lợi ích của một giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội có giai cấp. Học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị là học tập những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước của mỗi đảng viên nhằm hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương pháp tư duy và phương pháp làm việc biện chứng, khoa học và góp phần thúc đẩy tính tích cực chính trị - xã hội.

Giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên là một nội dung quan trọng trong hoạt động tư tưởng của Đảng và là hoạt động giáo dục diễn ra trong Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, các cấp ủy phải đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đến hoạt động này. Đảng ta coi công tác xây dựng Đảng là then chốt thì khơng được xem nhẹ cơng tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng cũng như lãnh đạo cơng tác này trong tồn xã hội. Đó là cách tốt nhất, trực tiếp nhất để tạo ra sự thống nhất nhận thức tư tưởng, tăng cường ý chí, thống nhất tổ chức và hành động, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, năng lực lãnh đạo của Đảng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

- <i>Đấu tranh thông qua các tổ chức chính trị - xã hội</i>: Các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là nơi phát huy tối đa dân chủ, khuyến khích thảo luận, tôn trọng mọi ý kiến khác nhau, không phân biệt đa số hay thiểu số, đồng tình hay phản đối. Thông qua các tổ chức này nhằm mở rộng phương thức xã hội hóa, động viên các cá nhân và tập thể tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào, các chương trình mục tiêu quốc gia và của địa phương. Kết hợp các hình thức tuyên truyền thơng qua báo chí, phát thanh, truyền hình, hội nghị, hội thảo với việc trang bị tài liệu, đối thoại, tiếp xúc với đảng viên, chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ.

Các tổ chức chính trị - xã hội tích cực tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thực hiện quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước theo quy định của Pháp luật. Phối hợp, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp lý, vận động các tầng lớp nhân dân, phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng Nhà nước, xây dựng chính quyền nhân dân các cấp. Vận động thực hiện trách nhiệm mỗi đảng viên là một cán bộ dân vận tốt, dân vận khéo, rèn luyện tư duy và phong cách công tác dân vận.

- <i>Thông qua tạo lập dư luận xã hội, phương tiện truyền thông đại chúng</i>: Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai cấp, xã hội nói chung và thái độ cơng khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội lớn, nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi ích chung của họ. Là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực tuyên giáo, hoạt động định hướng dư luận xã hội là việc sử dụng các phương thức thông tin nhất định tác động vào các nhóm đề tài mang tính thời sự. Ở nước ta việc định hướng dư luận xã hội được thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa,

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hướng tới hoàn thành các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Định hướng dư luận sử dụng các nguồn thông tin chính thống tác động đến cá nhân, nhóm và cộng đồng làm thay đổi nhận thức, thái độ của họ, tạo ra sự nhất trí và đồng thuận thực hiện thắng lợi các mục tiêu, phương hướng đề ra, định hướng dư luận có phạm vi tác động ở 3 cấp độ: Cấp độ cá nhân, cấp độ nhóm xã hội và cấp độ cộng đồng, xã hội.

+ Định hướng ở cấp độ cá nhân là việc cung cấp thông tin, cơ sở chứng cứ, lý lẽ phù hợp với nhận thức của chủ thể có vai trị hết sức quan trọng trong quá trình chuyển đổi trạng thái nhận thức: từ không hiểu đến hiệu, từ chưa nhận thức rõ đến nhận thức rất rõ, từ phản đối đến tán thành ...hoặc quá trình chuyển đổi trạng thái tâm lý, như: Từ ghét đến yêu, từ không chấp nhận đến chấp nhận,. Trên thực tế các cá nhân có thể hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng nếu như họ được giác ngộ và ý thức rõ ràng về sự hy sinh đó...Ngược lại, khi chưa có sự giác ngộ và ý thức rõ ràng về mục đích rất dễ dẫn đến sự chống đối bằng mọi giá. Định hướng ở cấp độ cá nhân cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể đặc biệt là các quan hệ về lợi ích

+ Cấp độ định hướng nhóm xã hội: Khi định hướng dư luận trong nhóm xã hội thì việc thơng qua những người có uy tín, địa vị cao trong nhóm có vai trị hết sức quan trọng. Ví dụ bí thư đồn thanh niên định hướng dư luận cho đoàn viên, chủ tịch cơng đồn định hướng dư luận xã hội cho cơng nhân. Những người đứng đầu tổ chức, đơn vị thường có vai trị định hướng rất rõ đối với các thành viên thuộc tổ chức của mình vì vậy việc trang bị cho người định hướng những thơng tin có định hướng rõ ràng, chính xác, đầy đủ ý nghĩa về nội dung một thơng điệp nào đó đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng là rất quan trọng.

+ Cấp độ định hướng cộng đồng. Với phạm vi tác động rộng, định hướng cộng đồng là hoạt động định hướng mang tính chất liên nhóm, các thơng điệp đưa vào q trình này sẽ mang lợi ích chung của cộng đồng. Phương tiện chủ đạo tham gia vào quá trình định hướng cộng đồng thường là báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng, đây cũng là những phương tiện phổ biến có sức lan tỏa nhanh, có tác động trên diện rộng và trực tiếp đến các nhóm đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tượng khác nhau. Hiện nay, sự phát triển đa dạng của các loại hình truyền thông đại chúng, các loại ấn phẩm, xuất bản phẩm đang tạo ra những điều kiện rất thuận lợi cho công tác định hướng dư luận xã hội, những nội dung cần định hướng được chuyển tải dễ dàng hơn, dưới nhiều hình thức phong phú hơn. Điều đó cũng tạo ra những khó khăn nhất định đặc biệt trong công tác quản lý, giám sát hoạt động của quá trình truyền thơng vì nếu sản phẩm truyền thơng mang nội dung định hướng dư luận tốt sẽ tạo ra sự đồng thuận, nhất trí cao trong các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Ngược lại, nếu nội dung các sản phẩm truyền thông không mang tính định hướng rõ ràng hoặc tính định hướng về tư tưởng, về giá trị khơng cao sẽ có thể phản tác dụng việc định hướng dư luận thậm chí tạo ra những tâm trạng hoang mang, lo lắng trong dư luận xã hội vì vậy việc giám sát hoạt động truyền thông đang là vấn đề hết sức quan trọng hiện nay.

Truyền thông đại chúng là hoạt động giao tiếp xã hội thông qua hệ thống các phương tiện truyền thông, hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội nhằm thông tin, chia sẽ, nhằm lôi kéo, tập hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ chức đối tượng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội đã và đang đặt ra. Ngoài ra, phương tiện truyền thơng đại chúng cịn phát hiện, ngăn chặn những hành vi sai trái của các cá nhân và tổ chức trong các cơ quan cơng quyền Nhà nước. Vì vậy, phương tiện truyền thông đại chúng đã trở thành tai mắt của nhân dân, tạo thành dự luận mạnh mẽ của công chúng nhằm vạch trần, lên án, phê phán các hành vi sai trái, tiêu cực của các cá nhân và tổ chức trong bộ máy công quyền; cổ vũ nhân dân tham gia quản lý xã hội. Sự tham gia của nhân dân vào quá trình quản lý xã hội vừa là mục đích hướng tới, vừa là điều kiện để thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Do đó, các phương tiện truyền thơng đại chúng phải phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phải trở thành diễn đàn trao đổi, đóng góp ý kiến của nhân dân vào tiến trình xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và là nơi bày tỏ thái độ của nhân dân về hoạt động và trách nhiệm thực thi nhiệm vụ của các cơ quan quản lý xã hội.

</div>

×